VC hen voi giac, ac voi dan.
Muon chong TC, phai dep VC
----- Forwarded
Message -----
From: San Le D. <
To: Trinh Pham <>
Sent: Thursday, October 17, 2013 9:34 AM
Subject: Fw: Thân phận “Tứ Quý”
From: San Le D. <
To: Trinh Pham <>
Sent: Thursday, October 17, 2013 9:34 AM
Subject: Fw: Thân phận “Tứ Quý”
KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)
MUON CHONG TAU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)
MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)
On Thursday, October 17, 2013 8:50 AM, Trinh Pham <> wrote:
Thân phận “Tứ Quý”
Phạm Quang Trình
Một trong những nguyên nhân sâu sắc gây cho các
chính quyền quốc gia thất bại trong cuộc chiến chống Cộng phải kể là bọn “Tứ
Quý”. Tứ Quý là từ ngữ đặc biệt của Cộng sản đặt ra để ám chỉ những thành phần
tự nguyện hoặc vô tình bị chúng dụ dỗ, xúi giục nổi lên chống đối chính quyền
quốc gia hầu tạo thắng lợi cho chúng.
Tứ Quý gồm 4 thành phần: Truyền thông báo chí,
Sinh viên học sinh trí thức, Bọn thầy tu cấp tiến và Các đại diện Dân cử hay
Đại biểu Quốc hội. Trong 4 thành phần vừa kể tại các thành phố, không thiếu gì
những người đứng đắn, có thiện chí, không dễ bị lừa bịp. Nhưng đó là nói trên
nguyên tắc, trên lý thuyết. Còn trong thực tế, khi Cộng sản dùng đến từ ngữ ‘tứ
quý” tức là chúng đã nghiên cứu kỹ càng, có sách lược đấu tranh, sách lược hành
động để dụ dỗ, mua chuộc, lũng đoạn hoặc gây áp lực với 4 thành phần này càng
nhiều càng tốt. Chữ “tứ quý” cũng có thể hiểu một cách sát nghĩa hơn là 4 thành
phần đó thường có khuynh hướng cấp tiến, khuynh tả, hay chống đối chính quyền
đồng thời đưa ra các luận điệu tuyên truyền chống đối giả nhân giả nghĩa có lợi
cho Cộng sản.
Sách lược thông thường của Cộng sản để có cơ hội
nắm chính quyền trong một nước có tự do dân chủ là khai thác những bất công và
tạo sự bất mãn trong dân chúng. Bình thường, khi Cộng sản chưa thể gây ảnh
hưởng đến dân chúng thì chúng phải chọn các thành phần làm tay sai, trong đó có
“tứ quý” và qua bọn này, Cộng sản sẽ giật dây để chúng hành động theo đúng
đường lối đấu tranh của Cộng sản.
Sách lược để nắm và chi phối bọn “tứ quý” của
Cộng Sản cũng rất là tinh vi, tỉ mỉ làm sao để chúng có thể gài người của chúng
vào bốn thành phần này đồng thời gây ảnh hưởng đến các giới khác. Thực ra,
không riêng gì Cộng sản mà các giới khác cũng dễ nhận ra được bản chất chung
chung của 4 thành phần này là: tính tự do phóng khoáng, thích chống đối, nhưng
sợ dư luận và kẻ thù, kiêu ngạo, háo thắng, bạo động, có những tư tưởng quá cấp
tiến, nhìn cái lợi trước mắt mà ít nghĩ đến cái hại lâu dài, đề cao cá nhân,
muốn được nổi tiếng, vân vân. Đó là bản chất và cũng là nhược điểm chung của 4
thành phần. Nhưng nếu xét riêng thì mỗi thành phần lại có những khác biệt.
Trước hết là bọn thầy tu cấp tiến.
Bọn này thường được học hành khá, nhưng mắc tính
kiêu ngạo, phóng khoáng, không vâng phục bề trên, (cấp lãnh đạo Tôn giáo),
thích cải cách theo quan niệm riêng của mình và lại ngây thơ, dễ tin, thái độ
rất cực đoan. Thường những việc cải cách không phải một sớm một chiều thực hiện
ngay được, vì còn muôn vàn khó khăn, phải cân nhắc suy tính theo kế hoạch quy
mô, khoa học của Tôn giáo hay của nhà cầm quyền đặt ra. Vì muốn cải cách cấp
tốc ngay theo quan niệm cá nhân của mình không được nên bọn này dễ sinh bất mãn
và dễ dàng làm tay sai cho Cộng sản. Nhưng thực chất sâu thẳm của hầu hết bọn
này là “thích đàn bà và danh lợi”.
Trong đời sống tu hành, thân xác bọn
này bị kiềm chế nên rất thèm khát tình dục, thèm khát đàn bà và có những hành
vi lén lút, nhưng vì lỡ mang cái áo nhà tu, đang có cuộc sống vật chất tạm ổn
định, không dám “cởi áo thầy tu” ra ngay nên bày ra các trò giả hình mà thực
chất là đóng kịch để che mắt người đời và dư luận bằng các chiêu bài hấp dẫn
như đấu tranh cho tự do dân chủ, chống bất công áp bức, đòi hòa bình, vân vân
và vân vân. Thực chất, mục đích cuối cùng của chúng cũng vẫn là đàn bà, là giải
quyết sự thèm khát tình dục và danh vọng. Vì bất mãn không được chính quyền và
cấp trên chú ý nên dễ dàng ngả theo bọn khuynh tả và Cộng sản.
Ở Việt Nam, thời chiến tranh Quốc - Cộng có
môt số thầy tu cấp tiền, nổi lên tranh đấu chống chính quyền và có thể chống cả
cấp lãnh đạo Tôn giáo của mình. Bên Công Giáo có những Linh mục Chân Tín,
Nguyễn Ngọc Lan, Trần Tam Tỉnh, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Công Minh, Trương Bá
Cần, Phan Khắc Từ. Phía Phật Giáo có nhóm sư sãi Ấn Quang như các Thượng Toạ
Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Nhất
Hạnh, Đại Đức Nhật Thường, Ni sư Huỳnh Liên, vân vân.
Linh mục Chân Tín lập ra cái gọi là Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ
Lao Tù nhắm vào Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và chế độ Cải Huấn. Gọi là Ủy Ban
chớ thực chất chỉ có một mình ông ôm đồm làm đủ chuyện, nay họp báo, mai lên
tiếng tố cáo chế độ nhà tù của VNCH là ác ôn, bóc lột, khắt khe. Chế độ Cải
Huấn là đề tài người viết từ những năm trước 1975 đã từng đề cập đến trên báo
chí và nhiều lần gặp trực tiếp nói chuyện với ông Tổng Trưởng Nội Vụ Lê Công
Chất.
Chuyện vài ông Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn tham nhũng, ăn cướp cơm chim
bằng cách nhận hối lộ và ăn chia với nhà thầu thì có nhưng nói là tù nhân bị
hành hạ, áp bức thì không đúng. So sánh chế độ nhà tù (tức Cải huấn) của VNCH
với nhà tù Việt Cộng thật khác xa một trời một vực. Nhà tù Việt Cộng ác ôn tệ
hại gấp trăm ngàn lần chế độ nhà tù VNCH và thời Pháp thuộc. Đó là sự thật.
Nhân thể xin nói thêm về chế độ Cải Huấn của
Việt Nam Cộng Hòa. Chế độ này đã được chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban
hành từ năm 1955 nhằm cải hóa và hoàn lương can phạm. Trên toàn quốc có cả thấy
38 Trung Tâm Cải Huấn Tỉnh và 4 Trung Tâm trực thuộc Trung Ương là Thủ Đức dành
riêng để giam giữ nữ tù nhân, Chí Hòa, Côn Sơn và Tân Hiệp ở Biên Hòa.
Chính sách Cải Huấn của VNCH đã đem lại thành quả thật mỹ mãn. Hàng ngàn, hàng
vạn tù nhân chính trị theo Cộng Sản đã trở lại Chính nghĩa Quốc gia, làm cho
Cộng Sản Bắc Việt vô cùng căm tức, nên chúng đã âm mưu bày ra cái gọi “Chính
quyền Ngô Đình Diệm đã đầu độc giết hại tù nhân ở trại tù Phú Lợi”.
Thực chất,
chính Việt Cộng mới là thủ phạm. Chúng đã lợi dụng chế độ thăm nuôi dễ dãi của
VNCH đối với tù nhân, lén lút gửi thuốc độc vào Trung Tâm Cải Huấn Phú Lợi,
tỉnh Bình Dương cho tù Việt Cộng rồi những tên này đã bỏ thuốc độc vào cơm làm
một số tù nhân ăn phải bị đau bụng ỉa chảy. Chuyện chỉ có thế mà chúng ầm ĩ la
lên rằng chế độ Ngô Đình Diệm đã giết hại hàng ngàn tù nhân. Nhưng điều làm
chúng cay cú nhất là vào năm 1955, khi Đại tá Nguyễn Văn Y, Tổng Quản Đốc các
Trung Tâm Cải Huấn ra Côn Sơn ban hành chính sách Cải Huấn của Chính phủ VNCH,
thì hàng ngàn tù nhân Việt Cộng đã đã bỏ Đảng, trở về Chính Nghĩa Quốc Gia và
được đối xử tử tế để học tập và sau cùng về đoàn tụ với gia đình. Chỉ còn lại
vài ba chục tên ngoan cố, trong đó có Nguyễn Đức Thuận là em ruột của Lê Đức
Thọ và Mai Chí Thọ, không chịu quy chánh, tiếp tục ở tù cho đến ngày 30-04-1975
được thả ra về với Cộng sản.
Nguồn tài liệu tin tức trên đây về chế độ Cải
Huấn của VNCH có được là do người viết đã sưu tầm, nghiên cứu từ 1968-1975,
cùng với một số nhân viên làm việc thuộc ngành Cải Huấn và tại các Trung Tâm
trong đó có một ông bạn (hiện còn ở VN), người từng sát cánh với Đại Tá Nguyễn
Văn Y, nguyên Tổng Quản Đốc các Trung Tâm Cải Huấn VNCH trong thời gian đầu.
Sang thời Đệ Nhị Cộng Hoà, cường độ chiến tranh
gia tăng vì sự xâm nhập của Cộng sản tử Miền Bắc. Số tù binh Cộng sản bị bắt
cũng tăng thêm nên chính phủ VNCH đã phải xây dựng thêm 4 Trai Giam Tù Binh
Phiến Cộng ở 4 Vùng Chiến Thuật. Chế độ lao tù ở 4 Trại Giam Tù Bình Phiến Cộng
đã được công khai hóa, tù binh được đối xử tử tế đúng theo quy ước Genève như
bao hình ảnh đã được công bố.
Trở lại cái gọi là Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao
tù của LM Chân Tín thì sau khi xua quân tấn chiếm miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt
đã lùa hằng triệu Quân Dân Cán Chính VNCH vô cáí gọi là Trại Học Tập Cải Tạo
với chế độ đàn áp bóc lột vô cùng khắc nghiệt gấp ngàn lần chế độ Cải Huấn VNCH,
vậy mà LM Chân Tín nín khe không hề lên tiếng. Phải đợi cho đến khi biến cố
Đông Âu và Liên Sô xẩy ra sau năm 1991 khiến Đế Quốc Cộng Sản sụp đổ, và khi LM
Chân Tín không còn được làm Đại Biểu Quốc Hội nữa thì ông ta mới lên tiếng
chống đối CSVN về nhân quyền bị đàn áp.
Tệ hơn nữa, ông ta còn hay lên tiếng
phê bình chỉ trích Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã tỏ ra nhu nhược với
nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội. Tại sao những năm đầu sau khi tấn chiếm miền
Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã lùa hằng triệu Quân Dân Cán Chính VNCH vào các Trại
Tù khắc khắc nghiệt, thi hành chính sách đàn áp Tôn Giáo và hạn chế Tự Do Tín
Ngưỡng tối đa thì LM Chân Tín không hề lên tiếng? Phải chăng trong thời gian
hơn chục năm trời đó, LM Chân Tín còn tỏ ra ngoan ngoãn được CS ban tặng cho cái
chức Đại Biểu Quốc Hội thỉ địa vị và quyền lợi cá nhân đã khóa chặt miệng ông
lại?
Với LM Nguyễn Ngọc Lan là kẻ
đồng hành với LM Chân Tín, từng bí mật vào bưng nhận lệnh Việt Cộng, rồi trở
lại thành phố múa may quay cuồng, theo đuôi bọn phá hoại đánh phá chế độ VNCH.
Năm 1970, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang gồm Thích Huyền Quang, Thích Thiện
Minh, Thích Nhất Hạnh, Thich Minh Tâm đi dự Hội Nghị Hòa Bình Thế Giới ở Tokyo
ngày 17-10-1970 công bố lập trường 5 điểm, đòi “Đòi Mỹ phải rút quân,
đòi Chính Phủ VNCH phải thả hết tù nhân chính trị bị bắt vì hoạt động cộng sản,
và đòi đặt Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam của Việt Cộng) ngang hàng với Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.” LM Nguyễn Ngọc Lan cũng xin đi theo đám Sư
sãi Việt gian này, nhưng nhóm trí thức Công Giáo biết được đã lên tiếng phản
đối với Bộ Nội Vụ VNCH nên LM Nguyễn Ngọc Lan không được phép xuất ngoại. Sau
ngày 30-04-1975, Nguyễn Ngọc Lan xin cởi áo thầy tu ra cưới vợ thì Việt
Cộng không sài nữa.
Chúng bảo: “Anh cởi áo ra lấy vợ rồi thỉ cái mác Linh Mục
Công Giáo của anh không còn, vậy Đảng dùng anh làm gì?” Nguyễn Ngọc Lan ngậm
đắng nuốt cay, phải đi mở lớp dạy tư ngoại ngữ để nuôi vợ con, và từ đó sinh
bất mãn. Có lần Nguyễn Ngọc Lan chở LM. Chân Tín bằng xe Honda trên đường phố
Sài Gòn bị xe Công An cố tình tông vô, cả hai té xuống đường suýt toi mạng!
LM Phan Khắc Từ, thời VNCH là Tuyên Uý Thanh Lao Công, xung
phong đi làm nghề hốt rác với công nhân thuộc Sở Vệ Sinh Đô Thành Sài Gòn- Gia
Định, đã gây chấn động dư luận một thời. Nhưng nhiều người đã nghi ngờ cái ông
“Linh mục hốt rác này”. Có vài anh bạn nói thẳng với Phan Khắc Từ: “Cậu đi hốt
rác thì hay đấy.
Nhưng nói cho cậu biết trước: Cậu mà dính vào đàn bà là chúng
tớ cười đầu tiên nghe!” Phan Khắc Từ im lặng không nói gì. Sau ngày 30 tháng
Tư, Phan Khắc Từ được Việt Cộng ban thưởng cho chức Đại Biểu Quốc Hội, Chủ Tịch
Ủy ban Đoàn Kết Công Giáo mà dư luận diễu là Ủy Ban Đàn Két, điều hành tờ báo
Công Giáo và Dân Tộc cùng với các Linh mục theo Việt Cộng như Huỳnh Công Minh,
Trương Bá Cần, Trần Tam Tỉnh, Thiện Cẩm, Nguyễn Huy Lịch, Vương Đình Bích, làm
mưa làm gió ở Sài Gòn. Là Linh mục, nhưng Phan Khắc Từ lại có vợ và hai đứa
con, công khai tổ chức “ăn thôi nôi” giữa thanh thiên bạch nhật. Chính LM Chân
Tín đã tố cáo đích danh hành vi tồi bại đó của Phan Khắc Từ.
Người đàn bà ở với
Phan Khắc Từ có tên là Ngô Thị Thanh Thủy (dân Bến Tre) có bí danh là Tư Liên
cũng được gọi là “Liên béo” là cán bộ Việt Cộng cài vô, nắm đầu Phan Khắc Từ để
lèo lái ông chồng thầy tu theo ý đồ của Cộng Sản. Phan Khắc Từ lỡ đâm lao phải
theo lao, không quay trở lại được. Phần Giáo Hội Công Giáo vì “tránh bể cái
bình sành mà phải tạm lơ con chuột hôi này đi” cho đến khi Phan Khắc Từ già
cỗi, hết sài, được Việt Cộng điều ra Hà Nội đảm trách Chương Trình Hóa Trang!
Riêng hai Linh mục Huỳnh
Công Minh và Nguyễn Đình Thi hồi trước 1975 đã được Đức Tổng Giám Mục
Phaolô Nguyễn Văn Bình cho du học Pháp, nào ngờ hai ông này qua đó ngả theo
Việt Cộng. LM. Huỳnh Công Minh về nước âm thâm liên hệ với Việt Cộng. Còn
Nguyễn Đình Thi ở lại Pháp tiếp tục hoạt động. Năm 1969, LM Nguyễn Đình Thi
công khai tổ chức Lễ Cầu Hồn cho Hồ Chí Minh. Sau ngày 30-04-1975, LM.
Huỳnh Công Minh được Đảng ban cho chức Đại Biểu Quốc Hội, lại là Tổng Đại Diện
của Giáo Khu Sài Gòn nên làm mưa làm gió. Nhiều ngượi gọi ông ta là “Linh Mục
Chính Ủy”.
Tại Quốc Hội bù nhìn ở Hà Nội năm 1976,
ông ta đã lớn tiếng ca tụng công lao của Đảng Cộng Sản một cách trơ trẽn không
biết ngượng: “Con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được, nếu không có Đảng Lao Động
Việt nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân,lãnh đạo và tổ chức… Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho Đảng”. (Trích Bản tin ngày 7/7/1976 của
Thông Tấn Xã Việt nam).
Năm 2009, tức là 33 năm sau khi
tuyên bố như trên, thì trong một buổi tọa đàm vào ngày
20-21 Tháng Ba 2009 với chủ đề “Đặc điểm tư duy và lối sống của người Việt trước yêu cầu hội nhập quốc tế” tại Câu lạc bộ Nguyễn Văn Bình (cư xá Phục Hưng cũ), khiđược cử tọa hỏi về lới tuyên bố này, linh mục Minh đã phải giải thích quanh co cốt ý làm giảm nhẹ đi cái lập trường ”kiên định tin tưởng vào Đảng Cộng Sn” như thế đó. Và cuối cùng, thì ông kết luận bằng một câu xanh rờn như sau, đó là : “Nếu như hôm
nay, tôi không nói như vậy”
(Trích báo Tổ Quốc trên mạng)
Hai Linh mục Huỳnh
Công Minh và Nguyễn Huy Lịch Dòng Đa Minh chi Lyon còn mơ được phong
làm Tổng Giám Mục Giáo Khu Sài Gòn, nhưng cả hai đều bị Tòa Thánh gạch tên,
đành ngậm tăm. Cho đến năm 1991, khi Khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Sô sụp đổ
thì Huỳnh Công Minh “tỉnh ngộ” không múa may gì nữa. Có người cho biết, LM
Huỳnh Công Minh đã cải tà quy chánh, và tuy còn mang danh là Tổng Đại Diện
nhưng chỉ là người sai vặt cho Tổng Giám Mục để liên lạc với nhà cầm
quyền Cộng Sản.
Về nhóm Sư Sãi Ấn Quang là đối tượng của Cộng Sản từ lâu. Trong số đó,
những nhân vật Thích Huyền Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang đã một thời
theo Việt Minh trước 1954. Sau Hiệp Định Genève 1954, đám sư sãi này ở Miền
Nam, chưa có âm mưu động tĩnh gì, vì dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Đoàn Công Tác
Đặc Biệt Miền Trung do Ngô Đình Cẩn đứng ra tổ chức và ông Dương Văn Hiếu là
Trưởng Đoàn đã bắt hầu như trọn ổ bọn gián điệp Cộng Sản với những tên chỉ huy
hạng gộc như Đại tá Lê Câu, Trần Quốc Hương, vân vân. Phải đợi cho đến
năm 1963, khi bang giao Việt-Mỹ căng thẳng vì TT Ngô Đình Diệm chống lại việc
Mỹ muốn đem quân vào MiềnNam chỉ đạo chiến tranh. Nhóm sư sãi Ấn Quang
(lúc đó còn gọi là sư sãi Miền Trung) được CIA móc nối bắt đầu cuộc
nổi loạn trong âm mưu lật đổ chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa. Âm mưu lật đổ TT Ngô
Đình Diệm bằng việc mua chuộc nhóm tướng lãnh của CIA thành công.
Nhóm sư sãi đấu tranh thừa thắng xông lên quyết thống nhât Phật Giáo dưới danh
nghĩa là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với Hiến Chương 14-01-1964 bao
trùm tất cả các tông phái Phật Giáo ở Miền Nam kể cả Phật Giáo Hòa Hảo do Giáo
chủ Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939, nhưng bất thành. Tệ hơn nữa, nội bộ phe
Phật Giáo tranh đấu bể làm đôi vì tham vọng chính trị muốn nắm cả chính quyền
hay chính quyền phải là người của mình. Một phe là Việt Nam Quốc Tự do Thượng
Tọa Thích Tâm Châu đứng đầu vì nắm được khu chùa Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần
Quốc Toản và phe kia là nhóm Sư Sãi Ấn Quang đứng đầu là Thích Trí Quang vì trụ
trì “đóng đô” ở Chùa Ấn Quang.
Từ đó hai phe như nước với lửa. Phe Việt Nam
Quốc Tự ôn hòa với TT Thích Tâm Châu đương kim Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, và TT.
Thích Tâm Giác là Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH, được chính quyền công
nhận. Phe Ấn Quang với các TT Thích Trí Quang, Thích Pháp Tri, Thích Thiện Hoa,
Thích Huyền Quang, Thích Minh Châu, Thích Pháp Siêu, Thích Hộ Giác, Thích Đôn
Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh là những người tỏ ra cực đoan đầy tham
vọng muốn ăn tươi nuốt sống phe kia, nhưng không được chính quyền công nhận.
Qua Bạch Thư của HT Thích Tâm Châu tháng 12/1993 trang 28 cho thấy phe Ấn Quang
mà cụ thể là Thích Trí Quang đã cho người mang đến Việt Nam Quốc Tự ở đường
Trần Quốc Toản và chùa Từ Quang mỗi nơi một đĩa máu, một con dao và một huyết
thư “Yêu Cầu Các Thượng Tọa Trong Viện Hóa Đạo Không Được Theo Thượng Tọa Tâm
Châu” khiến TT Thích Tâm Châu phải lẩn trốn nay chỗ này, mai chỗ khác để tránh
khỏi bị ám sát!
Sau sự chia rẽ này, khoảng đầu tháng 7-1966,
nhóm Phật Giáo Ấn Quang bắt đầu âm mưu cấu kết với TT. Nguyễn Chánh Thi, Tư
Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I Chiến Thuật nổi loạn ở miền Trung, đặc biệt ở hai
nơi là Huế và Đà Nẵng, tổ chức Quân Đoàn Vạn Hạnh mà chủ lực là Sinh viên và
một vài đơn vị Quân đội a dua với Đại tá Đàm Quang Yêu, Tư Lịnh Lực Lượng Đặc
Biệt, Thị Trưởng Đà Nẵng Nguyễn Văn Mẫn cùng với Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh,
Tôn Thất Dương Kỵ, vân vân. Cuộc nổi loạn tưởng chừng như tách Miền Trung ra
khỏi Miền Nam thành một lãnh thổ riêng với Chính Quyền riêng.
Nhưng
lúc ấy dư luận dân chúng cũng như thế giới và Hoa Kỳ đã thấy rõ thực chất và
tham vọng của nhóm sư sãi này nên không còn ủng hộ nữa. Được thể, Chính phủ
quân nhân Thiệu Kỳ đã thẳng tay đem Quân Đội ra dẹp loạn. Trong thế bí, Thích
Trí Quang và phe nhóm đã hô hào đem cả bàn thờ Phật xuống đường làm vật cản
Quân Đội. Bất chấp những thủ đoạn tồi tệ đó, Quân Đội và Cảnh Sát dưới quyền
chỉ huy của ĐT Nguyễn Ngọc Loan, đã dẹp tan cuộc nổi loạn, bắt luôn Thích Trí
Quang đem vào Sài Gòn.
Sau thất bại thê thảm này, một số phần tử thuộc
phe nhóm Ấn Quang ở Miền Trung đã âm thầm liên hệ chặt chẽ với Việt Cộng trong
cái gọi là Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa (TCK-TKN) Tết Mậu Thân năm 1968 đưa
đến hàng vạn cái chết vô tội trong các hầm chôn sống tập thể tại Huế.
Lúc đó,
Thích Đôn Hậu và Lâm Văn Tết được Việt Cộng phong cho làm Phó Chủ Tịch Liên
Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình cùng với Chủ Tịch là Luật Sư
Trịnh Đình Thảo. Nhưng cái gọi là TCK-TKN thất bại, phe nhóm Ấn Quang như TT
Thích Đôn Hậu và người tình là bà Tuần Chi, GS Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân,
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phụ Ngọc Phan… đã trốn chạy theo Việt Cộng vào
bưng. Thích Đôn Hậu sau đó ra Hà Nội đứng canh xác Hồ Chí Minh khi họ Hồ chết
bất đắc kỳ tử sau khi cuộc TCK-TKN Tết Mậu Thân bị thất bại.
Muốn biết rõ hơn, xin mời đọc Biến Động Miền
Trung của tác giả Liên Thành, nguyên Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc
Gia Huế - Thừa Thiên, xuất bản năm 2008.
Kể từ đây, phe Ấn Quang tẩy chay và luôn tỏ thái
độ chống đối Chính quyền VNCH dù rằng về phía Chính phủ không hề làm khó dễ gì
đối với họ. Hơn nữa, họ muốn xuất ngoại hay cho Tăng chúng du học, chính phủ
đều dành cho sự dễ dàng. Vậy mà lợi dụng quyền tự do di lại, tự do ngôn luận,
phái đoàn Phật Giáo Ấn Quang do TT Thích Thiện Minh làm Trưởng đoàn đáp máy bay
sang Tokyo Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình tháng 10 năm
1970 đã công bố lập trường 9 điểm hoàn toàn có lợi cho Việt Cộng, nếu không nói
là rập khuôn lập trường của MTGPMN, công cụ của Hà Nội: chỉ đòi Mỹ rút quân,
đòi VNCH thả tù chính trị mà không hề đá động hay đòi Cộng Sản Bắc Việt và Mặt
Trận Giải Phóng phải có những hành động tương tự.
Xin hãy nghe Thích Quảng Độ ở trong nước tuyên
bố với báo Mỹ:
“Chính quyền Nam Việt Nam hiện
nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại diện cho nhân dân
chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều khiển bởi những tên
lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam trước 1954.
Nếu
chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi
muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đình
với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ”. (Ngày 18/2/1967 Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, Cao Ngọc
Phượng, New York Times 1967). “Nếu Thiệu ngoan cố không từ chức thì
Ấn Quang sẽ kéo Thiệu xuống." (Ngày 20/10/1974 Thích Quảng Độ, Washington Post 1974).
Sau mấy năm tấy chay và chống đối VNCH, phe Ấn
Quang đi vào thế tự cô lập mình, hoàn toàn bất lợi nên dịp bầu cử Tổng Thống và
bán phần Thượng Nghị Viện năm 1973 họ lại bung ra, hỗ trợ Dương Văn Minh ứng cử
Tổng Thống và lập Liên Danh Hoa Sen mà thụ ủy là GS. Vũ Văn Mẫu ứng cử Thượng
Nghị Viện. Với trò “độc diễn” của TT. Nguyễn Văn Thiệu, hai ông Nguyễn Cao Kỳ
và Dương Văn Minh phải tự động rút lui. Riêng Liên danh Hoa Sen đắc cử 1973,
nhưng vì là thiểu số ở Thượng Viên, nên cũng chẳng làm nên trò trống gì vì phe
đa số thân chính quyền đã nắm hết các chức vụ lãnh đạo. Điều làm nhiều người
ngạc nhiên: một thành viên của Liên Danh Hoa Sen là BS Nguyễn Duy Tài lại xé
rào chạy theo phe thân chính quyền và được tặng chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại
Giao.
Ở Hạ Viện, Trần Văn Đôn được Ấn Quang ủng hộ ra đăc cử Dân biểu ở Quảng
Ngãi 1971 cũng trở mặt chạy theo phe thân chính và được chức Chủ Tịch Ủy Ban
Quốc Phòng. Nhưng cũng tử đây, các Dân Biểu Nghị Sĩ không thuộc phe thân chính
đã tự ngồi lại với nhau lập các khối Đối Lập.
Ở Thượng Viên, phe gọi là đối lập
chỉ có Liên danh Hoa Sen rất yếu. Nhưng ở Hạ Viện dân biểu đối lập đông hơn đã
lập Khối Dân Tộc Xã Hội do LS. Trần Văn Tuyên (Quốc Dân Đảng) mới đắc cử pháp
nhiệm 2 (1971-1975) làm Trưởng Khối. Cũng chính tại Văn Phòng Khối Dân Tộc Xã
Hội này, phe nhóm thân Ấn Quang đã công khai đặt Văn phòng Lực Lượng Hòa Giải
Dân Tộc do Ấn Quang dựng nên chuẩn bị cho cái gọi là “Thành Phần Thứ Ba” khi có
Chính Phủ liên hiệp ba thành phần. Kết quả như đã thấy, khi Cộng Sản Bắc Việt
tấn chiếm Miền Nam thì đám Sư sãi Ấn Quang đã ra tận xa cảng Phú Lâm đón rước
Bộ đội Việt Cộng vào thành, tổ chức ăn mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, tưởng rằng
những hành động bợ đỡ đó sẽ được Cộng sản trả công. Nào ngờ khi bọn cướp đã vào
thành, chúng lập ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, một thứ Giáo Hội quốc
doanh do những sư Cộng sản nắm đầu. Những sư sãi nào không vào Giáo Hội nhà
nước liền bị chúng thẳng tay đàn áp, bỏ tủ. Đó là cái giá mà phe Phật Giáo Ấn
Quang phải trả. Phải chăng đó là nghiệp báo?
Đối tượng thứ hai: các vị Dân cử. Khi nói tới những vị dân cử, người ta liên tưởng
đến các Dân Biểu, Nghị Sĩ tại Quốc Hội trong các nước có sinh hoạt dân chủ.
Việt Nam Cộng Hòa là nước dân chủ theo khuôn mẫu của Tây phương, nghĩa là tôn
trọng quyền Tự do Dân chủ của người dân. Việt Nam Cộng Hòa được thành lập từ
khi TT Ngô Đình Diệm về chấp chánh, sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý, truất phế
Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Nhà Nguyễn. Dưới thời Đệ
Nhất Cộng Hòa, sau khi dẹp tan các Giáo phái, thống nhất lực lượng Quốc Gia thì
tình hình an ninh trở nên khả quan. Nhờ Phong Trào Tố Cộng được phát động mạnh
mẽ khắp nơi trên toàn quốc, các ổ Việt Cộng nằm vùng do Cộng Sản Bắc Việt gài
lại ở Miền Nam đã bị các cơ quan an ninh và quân sự của VNCH phát
hiện và phá tan. Tổ chức hành chánh từ Trung Ương đến địa phương đã được cải tổ
quy mô.
Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của TT. Ngô Đình Diệm đã mang một bộ
mặt mới lấn át cả bộ mặt lem luốc của Hồ Chí Minh tại Miền Bắc. Phải nói thật
rằng trong suốt hơn một thế kỷ qua tại Việt Nam, chưa có chế độ nào đem lại cho
nhân dân một đời sống thoải mái với cơm no áo ấm như thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Ít
nhất là 5 năm đầu, dân chúng Miền Nam sống trong an bình, thịnh vượng, Bởi đó,
chính quyền của TT Ngô Đình Diệm đã được dư luận thế giới rất nể trọng. Cứ cái
đà này, Miền Nam sẽ không mấy chốc từ một nước chậm tiến có thể vươn
lên thành một nước mở mang, phát triển.
Trước một Miền Nam sung túc lớn mạnh
về mọi mặt sẽ là một nguy cơ cho Miền Bắc dưới chế độ Cộng sản do Hồ Chí Minh
lãnh đạo sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất đã trở thành đói nghèo lạc hậu. Bởi đó,
tập đoàn Cộng Sản Hà Nội được lệnh quan thầy Nga Hoa âm mưu thôn tính Miền Nam bằng
chiêu bài chiến tranh giải phóng. Nhưng dù có âm mưu và được quan thầy tiếp
viện ồ ạt võ khí, súng đạn, chúng vẫn chưa gây được thanh thế như sau cuộc Đảo
chánh 1-11-1963. Bởi vì dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, an ninh được bảo đảm,
việc xâm nhập phá hoại của Việt Cộng hầu như đều bị ngăn chặn và phá vỡ kịp
thời.
Có thế nói, năm 1961, cường độ chiến tranh xâm lược của ngụy quyền Cộng
Sản Hà Nội gia tăng đáng kể, nhưng cũng lá lúc Quốc Sách Ấp Chiến Lược ra đời
và được phát động mạnh mẽ khắp lãnh thổ Miền Nam. Chỉ hai năm sau (1961-1963),
với trên 8000 Ấp Chiến Lược được thành lập trên toàn quốc, giặc Cộng coi như đã
bị cô lập chờ ngày bị tiêu diệt. Bạch Thư của Chính Phủ VNCH đã tố cáo ngụy
quyền CSHN là thủ phạm xâm lược và là cha đẻ của MTGPMN. Ủy ban Kiểm Soát Đình
Chiến gồm ba thành viên là Ba Lan, Ấn Độ và Canada thì 2 phần 3 tức
Ấn Độ và Canada đã xác nhận quan điểm và lập trường của Chính Phủ
VNCH là đúng. Riêng Ba Lan thuộc phe Cộng nên buộc phải tuân theo chỉ thị của
Liên Sô là phải chống lại.
Tại Quốc Hội, toàn thể các Dân Biểu đều là người
Quốc Gia, sinh hoạt có thể thống, hoàn toàn không có Dân biểu đối lập thân Cộng
như thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Có một số nhân vật mệnh danh là đối lập như cái gọi
là Nhóm Caravelle nhưng cũng chỉ gửi thư đề nghị cải tổ chớ chưa có hành động
chống đối nào dù nhóm này đã được CIA và Tòa Đại Sứ Mỷ liên lạc xúi
dục gây áp lực với chính phủ. Có một vài người trong số những nhân vật này,
ngay từ khi TT Ngô Đình Diệm về chấp chính 7-1954, đã được mời ra cộng tác,
nhưng vì sự hăm dọa của Bình Xuyên đả rút lui.
Khi tình hình ổn định, mấy ông
này lại thấy tiếc muốn ra hợp tác, nhưng Chính phủ Ngô Đình Diệm không dùng
nữa, từ đó nẩy sinh bất mãn. Có thể nói thời Đệ Nhất Cộng Hòa, cái gọi là “Tứ
Quý” hầu như số lượng bị Cộng sản xâm nhập, tuyên truyền, rủ rê, mua chuộc còn
ít ỏi, ngoại trừ một số trí thức ngây thơ du học bên Tây thời Pháp thuộc vốn đã
bị CS dụ dỗ, có cảm tình với chúng. Nhưng sang đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa
(1963-1975) sau khi cuộc Đảo chính 1-11-1963 do CIA và bọn tướng
lãnh “đâm thuê chém mưón” thực hiện thì hệ thống an ninh quốc gia đã bị phá vỡ
do nạn tham nhũng và sự bất lực của giới lãnh đạo mới. Dó đó, Việt Cộng được đà
xâm nhập dễ dàng vào mọi lãnh vực mà điển hình là bọn “Tứ Quý”.
Bốn năm đầu sau
cuộc đảo chánh (1963-1967), cường độ chiến tranh gia tăng với sự hiện diện của
540 ngàn quân sĩ Hoa Kỳ và 100 ngàn quân Đồng Minh (Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan,
Đại Hàn, Phi Luật Tân) nên nhóm Tứ Quý chưa xuất đầu lộ diện công khai. Trong
giai đoạn này, phía Hành Pháp thì hai phe Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ còn
đang tranh giành ảnh hưởng để nắm chức Tổng Thống nên chưa rảnh tay. Do đó có
thể nói cuộc bầu cử Quốc Hội gồm Hạ Nghị Viện (Pháp nhiệm I: 1967-1971) và
Thượng Nghị Viện (1967-1973) là trong sạch. Hơn 60 Liên danh, mỗi Liên danh 10
người, ra tranh cử Nghị Sĩ mà 6 Liên danh nào được cao phiếu nhất sẽ đắc cử.
Còn ửng cử viên Dân Biểu Hạ Nghị Viện thì vô số kể. Với 38 Tỉnh và Thị xã chỉ
lấy có 137 Dân Biểu thì trung bình mỗi đơn vị mỗi nơi có từ 10 đến 20 Ứng Cử
Viên tranh nhau. Rõ ràng là họ đổ dồn nỗ lực vào việc tranh nhau chức Nghị Sĩ ở
Thượng Nghị Viện hơn là Dân Biểu Hạ Nghị Viện. Dĩ nhiên nơi nào, địa điểm nào
các Ứng cử viên cũng phải dùng đủ mọi mánh khỏe, kể cả tiền bạc để vận động cử
tri và mua chuộc các chức sắc Tôn giáo và nhà cầm quyền địa phương.
Cái gọi là Đối Lập ở Quốc Hội trong vài năm đầu
hầu như chưa có. Nếu có cũng chỉ trong cung cách đúng đắn để tạo uy tín chứ
chưa đến độ “đối đầu” như thời Pháp Nhiệm 2. Vì lúc đó, các chức vụ trong Văn
Phòng Thượng Viện và Hạ Viện, các Chủ Tịch Ủy Ban đều được bầu theo thể thức
đơn danh. Ai có khả năng, uy tín dễ dàng được bầu vào các chức vụ của Quốc Hội.
Người ta thấy ỏ Thượng Nghị Viện, giới lãnh đạo
đưọc bầu rất là có uy tín. LS Nguyễn Văn Huyền được bầu vào chức Chủ Tịch. Các
chức vụ khác cũng được các Nghị Sĩ có uy tín đảm nhiệm theo khả năng và kinh
nghiệm. Tại Hạ Nghị Viện, Cụ Nguyễn Bá Lương được bầu làm Chủ Tịch trong 4 năm
liền. Cụ Lương là người hiền lành dễ bảo dĩ nhiên được bên Hành Pháp Nguyễn Văn
Thiệu tín nhiệm. Còn ông Nguyễn Bá Cẫn lúc đó còn hơi cứng đầu, chưa được tin
dùng. Phải qua Pháp Nhiệm 2 ông Nguyễn Bá Cẩn mới được Hành Pháp và các Dân
Biểu thân chính tín nhiệm làm Chủ Tịch mấy năm liền cho tới khi đuợc ông Thiệu
vời qua làm Thủ Tướng 8 ngày lót đường chọ họ chạy khỏi nuớc theo kế hoạch của
Mỹ.
Xin nói thêm, vào lúc mới bầu xong Quốc Hội Lập
Pháp 1967, lúc đó Liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đã được hai ông
thỏa thuận sắp xếp lại do áp lực của Quân Đội và Hoa Kỳ. Nhưng đó là Liên
danh “đồng sàng dị mộng”, sớm muộn rôì cũng bể làm hai: anh đi đường anh, tôi
đường tôi! Mới đầu, bên Hành Pháp, người của ông Kỳ còn nắm nhiều chức vụ then
chốt, nhưng dần dà, nhờ cái thế thượng phong, ông Thiệu đã thu hồi lại quyền
lực vào trong tay mình, và ông Kỳ vì non cơ đành bó tay.
Tại Hạ Nghị Viện, ông Kỳ mới đầu cũng định vận
động thành lập Khối cho phe mình nhưng lại chơi lối quân tử Tầu, mời ăn uống
thù tạc để lấy cảm tình nên kết quả không được là bao. Ông Thiệu thì thực tế
hơn: dùng tiền để mua chức, mua phiếu. Ai theo phe ông Thiệu thì có 50 ngàn
đồng tươi rói. Tiền nay do chính ông Nguyễn Cao Thăng trao tận tay ở Văn Phòng.
Ai không theo thì tay không. Kết quả cái lối hành xử của ông Thiệu tuy nắm được
đa số thân chính, nhưng lại dồn người có liêm sỉ vào cái thế đối lập. Người ta
thấy những vị thuộc phe nhóm đối lập trong giai đoạn đầu ăn nói hành xử đứng
đắn và gây được ít nhiều thiện cảm của dư luận.
Chỉ gần đến năm cuối của Pháp
nhiệm 1 thì các Dân biểu thân Cộng mới từ từ ló đầu ra, như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô
Công Đức, Phan Xuân Huy, Kiều Mộng Thu. Các Dân biểu này đều quy tụ trong Khối
Xã Hội do DB Phan Thiệp, một Đảng viên Quốc Dân Đảng làm Trưởng Khối, có khuynh
hướng thân Phật Giáo Ấn Quang . Hồ Ngọc Nhuận lúc đó được bầu làm Chủ Tịch Ủy
ban Xây Dựng Nông Thôn hoạt động mạnh nhất, liên kết chặt chẻ với nhóm thầy tu
cấp tiến như đã nói trên. Kiều Mộng Thu thì ra mặt thân Ấn Quang, vì là “người
của các Thầy” và cũng được các Thầy “yêu quý”, nhưng lại “cặp bồ” với DB Trần
Ngọc Châu.
Kiều Mộng Thu tên thật là Trương Ngọc Thu, người
An Giang (tức Long Xuyên), làm thơ lấy bút hiệu là Kiều Mộng Thu, có thi phẩm
Lá Đổ Trên Mười Đầu Ngón Tay. Vì thấy bà ta quậy quá nên báo chí đặt cho cái
tên là “Nàng Kiều Lá Đổ”. Cái mụ Dân Biểu “Nàng Kiều Lá Đổ” này nổi tiếng cướp
chồng người khác, khiến bà vợ ông Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Chức Sắc có lần ra
điên cởi hết quần áo trần như nhộng chạy ra đường! Khi DB Trần Ngọc Châu bị
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nhốt vô khám vì bí mật liên lạc với anh ruột là
tên Việt Cộng Trần Châu Khang thì Kiều Mộng Thu vật vã, khóc la inh ỏi. Báo Con
Ong (?) lúc đó có làm bài thơ nổi tiếng về “Nàng Kiều Lá Đổ”. Ông Nguyễn Trường
Đoàn, nhân viên làm việc ở Hạ Nghị Viện gặp bà Kiều Mộng Thu đi ngang qua hành
lang liền kêu:
- Bà Dân Biểu ơi. Bà làm thơ hay quá. Báo Con
Ông đăng rùm lên. Bao nhiêu người chen chúc nhau mua đọc thơ của bà đấy.
Kiều Mộng Thu liền móc bóp:
- Tiền đây, anh chạy mau ra mua dùm tôi một số.
Ông Đoàn mua báo Con Ong về, đưa cho cho bà ta
đọc:
Châu ơi ta bảo Châu này:
Châu vào trong khám, Châu cày với ai?
Và:
Châu ơi ta bảo Châu này:
Châu vào trong khám, ai cày với ta?
Kiều Mộng Thu mặt đỏ như trái cà chua, vội xé
giục vô sọt rác.
Bề mặt là như thế. Còn bề trái thì đám Dân Biểu
mệnh danh là Đối lập cũng làm nhiều trò bỉ ổi, tồi tệ. Chống đối thì cứ chống
đối, nhưng tiền thì vẫn có thể nhận ngầm của Hành Pháp. Hai tên lố lăng nhất là
Lý Quý Chung và Dương Văn Ba. Lý Quý Chung con ông Lý Quý Phát (một thời làm
Phó Đô Trưởng Sài Gòn). Lý Quý Chung bỏ dở ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, là
một tên trốn quân dịch, được Bộ Trưởng Thanh Niên Võ Long Triều thời nội các
Nguyễn Cao Kỳ, cho làm Giám Đốc Nha Thanh Niên, sau ra ứng cử Dân Biểu và may
mắn đăc cử. Là Dân biểu, nhưng Lý Quý Chung lại tổ chức sòng bạc ở nhà bên Chợ
Lớn, sát phạt nhau và lấy tiền xâu. Dương Văn Ba cũng là một tên cờ bạc, ăn
bẩn, nên bị các Đồng viện gọi là Dương Văn Bẩn. Lý Quý Chung chủ sòng bài nhưng
lại thua đậm, nợ Dương Văn Ba cả trăm ngàn. Không có tiền trao, Lý Quý Chung
viết giấy nợ đưa cho Dương Văn Ba vào phòng Phát Ngân Hạ Nghị Viện chặn lương.
Vì có thơ riêng viết tay của Lý Quý Chung nên đúng kỳ lương, Dương Văn Ba vào nhưng
lại bị Phát Ngân chặn lại đưa thơ của Lý Quý Chung viết:”Lương của tôi phải do
đích thân tôi lãnh” làm Dương Văn Ba nổi giận quát tháo om sòm “Đù cha, đù mẹ
thằng Lý Quý Chung” ngay ở Hội Trường Hạ Viện.
Nhưng vẫn chưa hết. Lý Quý Chung
theo phò Dương Văn Minh ứng cử Tổng Thống năm 1972 và huênh hoang tuyên bố nếu
ông Thiệu độc diễn sẽ từ chức Dân Biểu. Ai ngờ ông Thiệu cứ tiến tới. Lý Quý
Chung chới với, không dám từ chức, vì sợ Nha Động Viên gọi đi lính, miệng nói
không lãnh lương, nhưng tháng nào cũng lãnh đủ không thiếu một xu cho tới khi
Dương Văn Minh được trao chức Tổng Thống để đầu hàng Cộng Sản. Lý Quý Chung
được chức Bộ Trưởng Thông Tin một ngày của Nội các Vũ Văn Mẫu mà việc đầu tiên
và duy nhất là làm phóng viên phỏng vấn tên Sinh viên CS Huỳnh Tấn Mẫm ở Đài
Phát Thanh Sài Gòn sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975.
(Nguồn tài liệu: riêng của người viết và trích
từ Ghềnh Thác Đời Tôi, bản thảo Hồi ức của Cựu DB Đặng Văn Phương, pháp nhiệm I
(1967-1971) đơn vị Kiên Giang, chưa xuất bản, hiện định cư tại Hoa Kỳ)
Lúc đó (thời pháp nhiệm 2: 1971-1975), các cuộc
biểu tình chống chính phủ thường hay diễn ra công khai tại tiền đình Hạ Viện
(bây giở là Nhà hát Thành Phố của Việt Cộng). Thành phần gồm đủ thứ: Sư, cha,
trí thức, sinh viên, học sinh. Nhiều Dân biểu thuộc Khối Dân Tộc Xã Hội thân Ấn
Quang cũng nhẩy ra hợp tác. Cảnh Sát Dã Chiến lại được điều động tới để dẹp các
cuộc biểu tình bằng lựu đạn cay. Kiều Mộng Thu, Nguyễn Phước Đại, Ngô Bá Thành,
Ni sư Huỳnh Liên và một đám học sinh hùa ra làm theo. Có lần Cảnh Sát Dã Chiến
dùng vòi nước xịt ngay vào mấy mụ. Nước xịt thấm quần áo làm cho các mụ ngứa
quá, vội chạy vô Sở Công Tác Ủy Ban Hạ Nghị Viện. Nhân viên, cảnh sát, đồng bào
ngoài phố được chứng kiến một màn thoát y vũ độc đáo: các mụ tự động “cởi chuồng
một chăm phần chăm” vui đáo để. Từ đó các mụ tởn quá không dám ra mặt đi biểu
tình nữa!
Từ 1971-1975, Quốc Hội Lưỡng Viện đều theo lệnh
của Hành Pháp qua tay của Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân vừa được nâng lên thay Phụ Tá
Nguyễn Cao Thăng mới qua đời vì bịnh ung thư. Theo chỉ thị của Hành Pháp, các
Dân biểu thân chính tiến hành việc tu chính Nội Quy của Hạ Nghị Viện: việc bầu
các chức vụ Văn Phòng và các Chủ Tịch Ủy Ban theo thể thức Liên danh thay vì
Đơn danh như thời Pháp nhiệm I. Theo thể thức này, những Dân Biểu thuộc loại gà
nhà mà dư luận báo chí gọi là “Dân biểu gia nô” của Hành Pháp theo lối bầu “lấy
thịt đè người” nắm hết các chức vụ. Kế hoạch cũng vẫn là xử dụng tiền bạc để
mua chuộc, quy tụ.
Tất nhiên đa số chạy theo Hành Pháp để vừa có tiền lại vừa có
chức. Bên Thượng Viện cũng sửa nội quy, bầu các chức vụ theo thể thức Liên
Danh. Nghị Sĩ nào có uy tín và dư giả tiền bạc thì mới dám về phe Đối lập hay
Độc lập. Cụ Nguyễn Văn Huyền thụ ủy Liên Danh Bông Huệ tái đắc cử trong cuộc
bầu cử bán phần Thượng Viện năm 1973 đã từ chức để phản đối. Trong khi đó, như
đã nói trên, BS Nguyễn Duy Tài thuộc Liên danh Hoa Sen của GS. Vũ Văn Mẫu xé
rào chạy theo phe thân Hành Pháp do NS Trần Van Lắm làm Chủ Tịch Thượng Nghị
Viện để được chức Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao.
Tại Hạ Viện, Hành Pháp vẫn nắm đa số qua hai
Khối Cộng Hòa và Khối Độc Lập nhờ có tiền bạc và thế lực. Các Dân biểu khác quy
tụ trong hai khối Dân Tộc Xã Hội (Trưởng Khối là LS. Trần Văn Tuyên) và Khối
Cấp Tiến (Trưởng Khối là DB Nhan Minh Trang). Số còn lại khoảng trên chục người
thành nhóm Dân Biểu Quốc Gia cũng gọi là Dân Biểu Độc Lập. Trên hình thức
là như thế, nhưng cũng có những ông bà Dân biểu Đối Lập “ngầm” nhận tiền của
Hành Pháp để báo cáo, nên dư luận mới gọi họ là “Đối Lập Cuội”.
Lập trường của các
dân biểu Đối Lập này phần lớn là chống lại đường lối của Hành Pháp và phe thân
chính. Cực đoan và quyết liệt nhất là số Dân biểu thân Ấn Quang trong Khối Dân
Tộc Xã Hội. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, những tên Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Kiều
Mộng Thu, Phan Xuân Huy, Lý Quý Chung, vân vân chưa dám thò cái đuôi thiên Cộng
ra mà phải sau 30 tháng 4 năm 1975 mới công khai lộ diện.
Có thể Trung Ương
Tình Báo VNCH đã biết ít nhiều hành tung của chúng nhưng cứ để yên theo dõi.
Đặc biệt nhất là Đinh Văn Đệ, nguyên Tỉnh Trưởng Tuyên Đức, Dân Biểu phe thân
chính (Khối Cộng Hòa), đương kim Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng lại là tên Việt
Cộng nằm vùng khéo che giấu nhất. Đệ được người chú ruột Việt Cộng tên Đinh Văn
Út có bí danh là Chín Mẫn móc nối vào năm 1969 sau biến cố Mậu Thân để làm công
tác gián điệp cung cấp tin tức quân sự cho Cộng Sản. Phải đợi đến sau
30-04-1975, Đinh Văn Đệ mới xuất đầu lộ diện mang cấp bực Sĩ Quan thuộc Bộ Tư
Lệnh Thành Phố của Việt Cộng.
Hầu như các Dân Biểu thân Cộng khác cũng vậy,
nghĩa là chỉ được móc nối khoảng thời gian sau Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt từ
khi Hòa Đàm Ba Lê bắt đầu. Đây là thời điểm thuận lợi cho tình báo của Việt
Cộng vì Hoa Kỳ với TT Nixon đang muốn rút quân ra khỏi Việt Nam sau khi đã thỏa
thuân ngầm với Trung Cộng. Việt Cộng đưa ra chiêu bài “Thành Phần Thứ Ba’ nhưng
thực chất là Việt Cộng nắm đầu chi phối. Những thành phần chống đối chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu dễ dàng ăn vào cái bả mới đầy nguy hiểm này bởi chủ trương
hoạt đầu và cơ hội chủ nghĩa.
Họ không theo được Thiệu, càng không muốn bị chụp
cái mũ Việt Cộng nên cảm thấy hãnh diện khi tự cho mình đứng vào “thành phần
thứ ba” với hy vọng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong chính phủ “Liên hiệp
ba thành phần”. Thật ra nhóm Dân Biểu thuộc loại Tứ Quý do Cộng Sản lợi dụng
giật dây không nhiều, nhưng chúng có đất dụng võ là nghị trường (Trụ sở Quốc
Hội) và nhờ phối hợp với nhóm Truyền Thông Báo Chí nên dễ gây được tiếng vang.
Đối tượng Truyền Thông Báo Chí
Báo Chí Truyền Thông là lực lượng rất đáng kể
như ngành báo chí tại Hoa Kỳ. Truyền thống báo chí tại Hoa Kỳ phải nói thật là
đẹp vì chủ trương tôn trọng sự thật. Lực lượng báo chí ấy rất đáng được coi là
“Quyền Thư Tư” sau ba quyền Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp tại các nước
dân chủ vì báo chí đã ảnh hưởng rất nhiều đến đường lối lãnh đạo chỉ huy của
các quyền kia. Ảnh hưởng rõ nhất là trong giai đọan chiến tranh Việt Nam.
Báo chí với những tiết lộ động trời về cuộc đảo chính 1-11-1963 do
chính quyền Kennedy đạo diễn, về các bí mật quốc phòng, về vụ Watergate đến
việc từ chức của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon.
Chỉ cần một bài viết (của
Walter Lippman, Art Buchal) cũng đủ làm cho nhiều giới nóng mặt. Nhưng bên cạnh
việc tôn trọng sự thực ấy, báo chí cũng có nhiều nhược điểm và sai lầm. Cộng
Sản chỉ cần khai thác những điểm đó. Chẳng hạn về những bí mật quốc phòng và
nhiều vấn đề tế nhị khác, không nên tiết lộ hoặc tiết lộ sớm đều có hại cho
sách lược chỉ đạo chiến tranh ở Việt Nam. Vì qua báo chí, Cộng sản có thể
đo lường được cảm nghĩ và phản ứng của dân chúng để có thể khai thác thêm nhằm
thủ lợi. Mặt khác, không phải báo chí loan tin đều là sự thật. Có những bài báo
được tung ra với chủ đich xuyên tạc hoặc bi thảm hóa thực trạng để gây chấn
động dư luận. Như thời chính quyền Kennedy âm mưu lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm,
báo chí Mỹ đã đưa ra các bài viết và các hình ảnh xấu của chế độ Đệ Nhất Cộng
Hòa để lèo lái dư luận dân chúng chán ghét chế độ ở Miền Nam. Thành ra trong
cái lợi lại có cái hại.
Cộng sản thì dư biết thực chất của “tự do báo chí” nên
trong xã hội Cộng Sản, không bao giờ chúng chấp nhận cho tự do báo chí. Báo chí
và công tác văn nghệ theo quan niệm của Cộng Sản là phải phục tùng chính trị,
là công cụ của Đảng. Đảng bảo viết sao thì phải viết vậy. Báo chí và cả dân
chúng không được phép phát biểu ngược lại đường lối của Đảng. Trong các nước CS
ngay như VN hiện nay (báo lề phải), ngành báo chí tuy số lượng sau này có nhiều
hơn nhưng nội dung rất nghèo nàn. Nếu thời 1975, VNCH có tới 40 tờ nhật báo thì
Cộng sản Bắc Việt sau khi tấn chiếm Miền Nam cả nước chỉ có vài tờ Nhật Báo
(Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân ở Miền Băc; tờ Sài Gòn Giải Phóng và Tin Sáng
của nhóm Ngô Công Đức - Hồ Ngọc Nhuận ở Miền Nam.
Tờ Tin Sáng bị đóng cửa sau
đó vài năm. Đối với Cộng Sản, thời gian chiến tranh, trong nội bộ chúng không
cần quan tâm nhiều vì chúng kềm kẹp và kiểm soát toàn diện. Chúng chỉ đặt nặng
công tác khai thác tự do báo chí tại phía đối phương như Việt Nam Cộng Hòa, Hoa
Kỳ và các nước Tự do. Sách lược khai thác tất nhiên rất là rất tinh vi, linh
động tùy theo giai đoạn và hoàn cảnh đấu tranh, khai thác riêng rẽ hay vận động
liên kết.
Thời VNCH, những tờ báo thân Cộng không dám ra
mặt, nhưng lối viết đã kích chính quyền, bới móc chuyện xấu của chế độ vô tinh
hay cố ý đều làm lợi cho luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản. Trong cuộc chíến
thời đó, Cộng Sản Bắc Việt thì bưng bít cả Miền Bắc “nội bất xuất, ngoại bất
nhập”. Cộng Sản Miền Nam ở trong rừng sống như những con ma thì không
mấy ai biết những cái xấu xa tệ hại của chúng trừ nạn pháo kích bừa bãi vào dân
chúng, vào các làng mạc, thành phố. Chỉ có những gì được phô ra hiện diện ở
thành phố, làng mạc của VNCH thì người ta dễ nhận ra và lên tiếng đả kích, phê
bình. Và tâm lý chung của con người là chỉ thích nhìn thấy những cái dở, cái
xấu của chế độ để có dịp chỉ trích, phê bình hơn là để ý đến những cái hay, cái
tốt của nhà cầm quyền để ca tụng, tán thưởng.
Hãy lấy một thì dụ cụ thể: nhìn
lên tấm bảng trắng có cái chấm đen, người ta chú trọng đến cái chấm đen hơn là
nhìn cả tấm bảng trắng. Hoặc nhìn vào một người đẹp, có cái sẹo nhỏ ở cằm,
người ta chú ý đến cái sẹo hơn là cả khuôn mặt xinh xắn của cô. Cũng thế,
khuynh hướng của báo chí truyền thông là thích đưa chuyện giật gân, chuyện
riêng tư, chuyện bí mật nhằm câu tính tò mò của độc giả để bán báo kiếm tiến.
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa vì lãnh đạo yếu kém đã tạo ra muôn vàn kẽ hở và tệ đoan xã
hội, nhất là nạn tham nhũng, mua quan bán chức. Các tệ nạn này là những cớ cho
báo chí truyền thông khai thác.
Thật ra thì nạn tham nhũng và mua quan bán chức
hiện nay của Cộng sản còn tệ hại hớn gấp ngàn lần. Đàn áp, bóc lột, chiếm nhà
đất của dân xẩy ra nhan nhản khắp nước nhưng bọn chúng có thèm quan tâm đến
nguyện vọng của nhân dân đâu. Bọn Tư Bản Đỏ đã nghiễm nhiên ngự trị, phá hoại,
bóc lột nhân dân có bài bản và “lai-sân” hợp pháp. Lý tưởng Cộng sản Đại đồng
đã trở thành chế độ bóc lột hơn bao giờ hết, Đảng Cộng Sản biến thành Đảng Cộng
Hưởng. Cho nên chúng ra sức bảo vệ quyền lợi của phe đảng bằng mọi mánh khóe
thủ đoạn. Trên ăn trên, dưới ăn dưới. Cấp lớn ăn lớn, cấp nhỏ ăn nhỏ. Địa
phương nào ăn địa phương đó.
Tự do tham nhũng bóc lột nhân dân miễn là biết
chia chác và đừng bao giờ đụng tới cái ghế ngồi của cấp trên chúng là được.
Những gì chúng quai mồm tra chửi chế độ tư bản đế quốc thì nay chúng tự động
khoác vào cổ mình không chút ngượng ngùng xấu hổ! Hơn 800 tờ báo theo “lề
phải” của chúng có tờ nào dám động tới chúng chưa, hay chỉ là bọn bồi bút viết
theo lệnh đặt hàng: “Cái gì Đảng cũng đúng. Chống đối Đảng là sai!”. Hồ Ngọc
Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn
Long, Châu Tâm Luân, Trần Tam Tỉnh, Ngô Bá Thành, Thích Trí Quang, Chân Tín,
Nguyễn Ngọc Lan đâu, sao không thấy một tên nào dám lên tiếng như trước kia?
Thời Việt Nam Cộng Hòa, nhờ tự do ngôn luận, báo
chí và ngành xuất bản phát triển mạnh. Chế độ Cộng Hòa non trẻ mới được thành
lập sau Hiệp Định Genève 1954 tất nhiên còn nhiều khuyết điểm cần được xây dựng
bổ túc là chuyện đương nhiên mà bất cứ ai có khả năng nhận thức cũng có thể
hiểu và thông cảm những khó khăn đó, trừ bọn nhà báo bất lương ngoại quốc. Bọn
nhà báo này xuất thân từ xứ tự do nhưng lại là những tên bồi bút, làm công tác
tình báo, viết bài theo lệnh hay chỉ thị của chủ. Bọn này chỉ nhắm vào những
khuyết điểm của chính quyền quốc gia để viêt bài phê bình chỉ trích. Trong số
bọn này cũng có những thành phần phóng túng tự cho là cấp tiến, có khuynh hướng
thiên tả và thiên Cộng. Những cái dở, cái xấu xa của Cộng sản thì chúng làm lơ
không nói đến.
Nhưng phía quốc gia có caí gì tiêu cực là chúng nhào vô
chỉ trích quyết liệt. Vào cuối thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chúng đã làm công tác cho CIA,
ngụy tạo, vu không nhiều chuyện nhằm tạo dư luận đưa đến việc mua chuộc nhóm
tướng lãnh âm mưu lật đổ chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm để thay vào
đó là bọn đâm thuê chém mướn dễ dàng sai bảo. Rồi qua thời Đệ Nhị Cộng Hòa, bọn
này lại a dua với Cộng Sản và tay sai dựng đứng nhiều chuyện nhằm bôi bẩn chế
độ quốc gia như chuyện đàn áp tù chính trị, vụ “Chuồng Cọp Côn Sơn”, vân vân
nhằm tạo dư luận thuận lợi cho Mỹ có lý do rút quân và bán đứng Miền Nam cho
Cộng sản.
Nhưng dù là thế nào và dù có bị kiểm duyệt
ít nhiều thì thời Việt Nam Cộng Hòa cho đến nay vẫn là thời huy hoàng của báo
chí Việt Nam. Cứ bình tâm mà xét và so sánh xem suốt một thế kỷ qua thời
nào, dưới chế độ nào, báo chí và ngành xuất bản của Việt Nam được phát
triển và tự do nhất, nếu không phải là thời Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975)?
Những tờ báo thân Cộng như Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc, Đối Diện, vân vân
của Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Hồng Sơn Đông, Võ Long Triều, Lý Quý Chung,
Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung đã múa may quay cuồng như thế nào nhờ
chế độ tự do ngôn luận của VNCH ? Ai cũng biết, kể cả các đương sự đều biết rõ
rằng chế độ tự do báo chí có kiểm duyệt ấy tốt hơn vạn lần chế độ báo chí “đi theo
lề phải” hiện nay của Cộng Sản Việt Nam. Chỉ cần đọc những bài viết, những
hồi ký của chúng từ 30-4-1975 về sau đều thấy rõ tâm trạng bất mãn,
chán chường, não nề của bọn chúng.
Như đã nói trên, báo chí được coi như “Quyền Thứ
Tư” trong các quốc gia theo chế độ dân chủ. Báo chí thường phản ảnh quan điểm
và nguyện vọng của đại đa số quần chúng. Báo chí cũng là món ăn tinh thần hằng
ngày của họ. Bởi đó, Cộng Sản tìm đủ mọi cách để xâm nhập, lèo lái hoặc phổ
biến những bài vở với luận điệu tuyên truyền có lợi cho Cộng Sản, hay ít ra làm
giảm uy tín của nhà cầm quyền quốc gia. Cái tâm lý chung của quần chúng là tò
mò thích chuyện mới lạ, giật gân.
Tờ báo nào muốn sống lâu, làm ăn phát đạt
nghĩa là được dân chúng mua nhiều thì phải có những tin mới lạ, giật gân, những
thiên phóng sự hấp dẫn, những bài quan điểm hay lập trường đanh thép, nhất là
những bài viết dám đả kích chính quyền các cấp. Thường những người làm báo kinh
nghiệm phải biết đủ mánh khỏe để quảng cáo tờ báo của mình. Tất nhiên, trong số
những người làm báo không thiếu gì những phần tử lưu manh, dùng tờ báo như công
cụ để “bắt địa” (blackmail/chantage) những nhân vật có tật (tham nhũng, có bồ
nhí hay vợ lẽ…). Chúng viết phóng sự, mới đầu chỉ he hé một chút để mấy ông bà
nào đó “có tật giật mình” có cơ hội “điều đình”, khi đã ngả giá thì chúng tuyên
bố vì lý do kỹ thuật, xin tạm ngưng thiên phóng sự, vân vân và vân vân.
Những tờ báo thân Cộng vừa nói trên đây đã ít
nhiều đã làm lợi cho Cộng sản. Việt Cộng đã xâm nhập và cài được người của
chúng vào một số báo chí của Miền Nam tùy theo mức độ, trong đó có
tên Huỳnh Bá Thành tức Họa sĩ Ớt đã làm Tổng Thư Ký cho tờ Đại Dân Tộc của DB.
Võ Long Triều. Sau ngày 30-04-1975, Huỳnh Bá Thành hiện nguyên hình là một sĩ
quan Việt Cộng mang lon Thiếu Tá đeo súng ngắn và Sà cọt đi nghênh ngang giữa
Sài Gòn khiến các văn nghệ sĩ và mấy ông nhà báo thời VNCH phải rùng mình khiếp
sợ! Người ta còn nhắc đến những Vũ Hạnh, và một số những tên khác nữa đã từng
bị an ninh VNCH bắt giam tại Trung Tâm Cải Huấn Tân Hiệp, Biên Hòa, vân vân.
Như đã nói trên, khi Cộng Sản thôn tính hoàn
toàn Miền Nam thì tất cả báo chí của Miền Nam bị đóng cửa.
Thay vào đó là tờ Sài Gòn Giải Phóng một nhật báo mới của Việt Cộng được cho ra
thay thế. Tờ báo chỉ có 4 trang nghèo nàn tin tức, chẳng có gì lạ ngoài những
thông cáo và chỉ thị. Thời gian sau, nhóm nhà báo thân Cộng như Hồ Ngọc Nhuận,
Ngô Công Đức thời VNCH được Hà Nội cho phép tái bản thờ Tin Sáng vài năm rồi
cũng bị đóng cửa vĩnh viễn luôn. Để xoay sở kiếm sống. mấy anh nhà báo thân Cộng
xu thời này bắt đầu mon men viết bài ca tụng Đảng nhưng chẳng ích lợi gì cho cá
nhân. Bây giờ thì mấy anh mới mở mắt to ra mà nhận thực rằng: “Cộng Sản là loài
đểu cáng, chuyên vắt chanh bỏ vỏ. Chanh hết nước thì chúng giục vô thùng rác!”
Sinh Viên, Học Sinh, Trí Thức Nửa Vời: Đây là những thành phần tương đối
trong sạch, hăng hái đầy nhiệt huyết, ghét bất công, nhưng lại sợ đi lính đánh
giặc, dễ tin và ngây thơ. Trong cuộc chiến vừa qua, phải nói thật rằng các giới
sinh viên, học sinh trí thức ít được giáo dục về chính trị nên cũng ít nhận ra
được thực chất của Cộng sản bên kia vĩ tuyến 17. Trước mắt họ chỉ thấy những
bất công của chế độ Nguyễn Văn Thiệu nên tỏ thái độ bất mãn chống đối. Thật ra
thì đại đa số sinh viên học sinh chỉ lo học hành và chỉ có một số rất nhỏ bị
Cộng Sản xâm nhập tuyên truyền, móc nối hứa hẹn để làm tay sai cho chúng.
Trước
biến cố 1-11-1963, có thể nói là không hề có nạn sinh viên học sinh do ảnh
hưởng của Cộng sản móc nối xúi giục nổi lên đấu tranh chống chính quyền. Có
chăng chỉ một số nhỏ ở thành phố có liên hệ gia đình với một vài nhân vật thuộc
Đảng phải quốc gia âm thầm chống đối trong các cuộc đảo chính 1960 và 1963. Ví
lúc đó, Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống với BS. Trần Kim Tuyến và
Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung với ông Duơng Văn Hiếu đã tiêu diệt hầu như
toàn bộ hế thống tình báo gián điệp của Việt Cộng ở Miền Nam.
Phải đợi cho
đến sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, khi hệ thống An ninh Quốc gia bị phá vỡ
và Quốc sách Ấp Chiến Lược bị hủy bỏ do lệnh của ông Tướng “tham, hèn, ngu”
Dương Văn Minh, và khi một số tù tình báo của Việt Cộng được Đỗ Mậu, Mai Hữu
Xuân và Hà Thúc Ký ký lệnh thả vì tham nhũng hay vì áp lực thì Cộng Sản mới có
cơ hội xâm nhập phá hoại. Phần lớn các cuộc xuống đường của Sinh viên Học sinh
chống Chính phủ chỉ xẩy ra ở Sài Gòn và Huế. Sau vụ Phật Giáo Ấn Quang phe
Thích Trí Quang làm loạn ở Miền Trung năm 1966 bi Quân Lực VNCH dẹp tan, một số
đã chạy vào bưng theo Việt Cộng. Đến năm 1968 nhân cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân
do Hà Nội phát động thì chúng kéo nhau trở lại Huế làm mưa làm gió, giết hại
hàng vạn Quân Dân Cán Chính VNCH ròng rã bao tháng trời. Nhưng cuộc Tổng Công
Kích của chúng bị thất bại nặng nề. Một lần nữa, bè lũ Giáo sư, Sinh Viên ngoài
Huế như Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân,
Nguyễn Thị Đoan Trinh, vân vân cùng với Thích Đôn Hậu, bà Tuần Chi (tên Việt
Cộng nằm vùng và là người tình của Thích Đôn Hậu) lại vội vã trốn vào bưng hay
ra miền Bắc. Nạn Sinh viên Học sinh thân Cộng ở Huế hầu như không còn nữa hay
không dám xuất đầu lộ diện. Tại Sài Gòn, chúng bắt đấu ló ra từ các Trường Đại
Học để tranh các chức vụ trong Ban Đại Diện Sinh Viên, và nhất là Tổng Hội Sinh
Viên Sài Gòn. Từ tranh chấp nội bộ, gây rối trong các Trường Đại Học, sau dẫn
đến chống đối Chính quyền: chống đi lính, chống quân sự học đường, đòi quyền
lợi, đòi hòa bình. Bắt đầu là những mục tiêu do bất công gây nên, sau lan dần
qua các lĩnh vực khác: xã hội, tôn giáo, chính trị, vân vân.
Số lượng Sinh Viên Học Sinh chống đối do Cộng
sản giật dây không nhiều. Nhưng chúng làm việc có bài bản, có chỉ đạo, được các
thành phần khác trong nhóm “Tứ Quý” hỗ trợ bênh vực. Điển hình là Dương Văn
Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì không ưa ông Nguyễn Văn Thiệu đã từng bí mật
chứa chấp, bao che bọn này. Về những khuôn mặt đấu tranh xuống đường ở Sài Gòn
thì nổi bật nhất trong số đó là Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Cao thị Quế Hương,
Trương Thìn, Phạm Ngọc Cầu, Nguyễn Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng, vân vân. Những
trường Đại Học Y Khoa, Luật Khoa, Văn Khoa thường là nơi sào huyệt xuất phát
bọn chúng. Những trường như Sư Phạm, Nông Lâm Súc, Phú Thọ hay Quốc Gia Hành
Chánh có quy chế đặc biệt học để trở thành công chức sau khi ra trường có việc
làm thì hầu như không bị ảnh hưởng. Khoảng thời gian từ 1-11-1963 đến 30-04-1975,
số lượng Sinh Viên Học Sinh bị Cộng sản móc nối dụ dổ theo chúng không quá vài
chục tên, cùng một số Sinh Viên Học Sinh hùa theo nhất thời. Cái dở là Chính
quyến Quốc Gia thời Đệ Nhị Cộng Hòa với quyền hạn và khả năng lớn như vậy nhưng
đã phản ứng và đối phó thiếu quyềt liệt.
Còn “Bọn Trí Thức Nửa Vời” thì sao? Gọi là “trí thức nủa với” vì tuy
chúng có bằng cấp cao, học vị cao, tốt nghiệp từ những trường danh tiếng bên
Tây chẳng hạn, nhiều tham vọng nhưng dốt nát về chính trị, ngây thơ và dễ tin,
cho nên dễ dàng bị Cộng sản tuyên truyền mua chuộc. Cộng sản không yêu cầu đám
này theo chúng hay trở thành Đảng viên, nhưng dùng chiêu bài “thành phần thứ
ba” đề cao bọn này nhằm chia rẽ đối phương. Cộng Sản đã đánh đúng vào chỗ ngứa,
đề cao bọn này, rõ ràng không phải là Cộng sản, nhưng cũng không phải là người
của chính quyền nên chính quyền không có lý do gì bắt bỏ tù. Với chiêu bài đó,
chúng công khai hứa hẹn “Thành phần thứ ba” sẽ giữ vai trò quan trọng trong
“Chính Phủ ba Thành phần” gồm Chính phủ VNCH, Mặt Trận Giải Phóng và Thành phần
thứ ba.
Chiêu bài này quả là ăn khách và rất được bọn cơ hội chủ nghĩa đón
nhận. Những tên tuổi như Dương Văn Minh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Long, Châu Tâm
Luân, Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành và một số chính khách thân Ấn Quang càng
ngày càng lộ diện tự cho là “Thành phần thứ ba” với hy vọng sẽ nắm vai trò quan
trọng trong Chính Phủ hay Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, một thứ Chính Phủ
Liên Hiệp mà Cộng Sản sẽ nắm đàng chuôi. Cộng Sản đã lợi dụng triệt để những
tên tuổi đó cùng những tổ chức thân Cộng mà chúng nhào nặn ra để tuyên truyền,
thổi ầm lên nhằm đánh lừa dư luận. Hãy coi lại những tổ chức mà Cộng Sản nhào
nặn rồi thổi lên bằng những danh xưng to lớn kêu la inh ỏi như cái gọi là Liên
Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình của Trịnh Đình Thảo, Lể Văn Hảo,
Lâm Văn Tết, Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống của Ngô Bá Thành, Phong Trào Nhân
Dân Cứu Đói của Ni sư Huỳnh Liên, Ủy Ban Cảì Thiện Chế Độ Lao Tù của Linh mục
Chân Tín, vân vân và vân xem có bao nhiêu thành viên? Thực chất, tổ chức nào
của chúng cũng chỉ có từ một đến vài ba ngoe là cùng. Nhưng chúng ra sức tuyền
truyền triệt để và thổi um lên khiến dư luận, đặc biệt là dư luận tại các nước
Tây phương tưởng rằng tổ chức của chúng to lớn lắm, đông người lắm. Trong khi
đó, Bộ Thông Tin cũng như Bộ Ngoại Giao của VNCH đã tỏ ra yều kém (nếu không
nói là lơ là) trong công tác tuyên truyền của mình cả về hai mặt đối nội cũng
như đối ngoại. Điều đó vô tình đã tạo cho chúng được dịp múa gậy vườn hoang với
bao hậu quả tai hại không lường được cho vận mệnh dân tộc.
Nói đến Tứ Quý là nói đến 4 đối tượng hàng đầu
mà Cộng Sản nhắm tới trong cuộc đấu tranh thường xuất hiện ở các thành phố. Mới
đầu chúng hoạt động riêng lẻ, sau vì nhu cầu (có chỉ đạo hay giựt dây hay
không) chúng có thể tự động liên hết với nhau, dựa vào nhau, hỗ trợ cho nhau
làm nên một phong trào đấu tranh chung. Mặt nổi và quan trọng nhất là báo chí
vì đó là nhịp cầu liên kết và ảnh hưởng dễ dàng với quần chúng độc giả khắp
nơi. Hàng ngày chúng theo dõi báo chí và đo lường mức độ hoạt động. Dân chúng
các giới cũng theo dõi báo chí để biết tin tức. Chính quyền dù có chế độ kiểm
duyệt lại càng phải theo dõi kỹ hơn.
Nếu găp phải những trường hợp đặc biệt tất
nhiên chính quyền phải thận trọng và dè dặt khi đối phó. Vì đụng tới các phần
tử thầy tu thì chúng la lên rằng đàn áp tôn giáo. Đụng đến Sinh Viên Học sinh
là đàn áp tuổi trẻ ngây thơ. Đụng đến trí thức là đàn áp những người bất đồng
chính kiến, không tôn trọng quyền tự do dân chủ. Đụng đến báo chí là đàn áp
quyền tự do ngôn luận. Đụng đến các vị Dân cử là không tôn trọng quyền bất khả
xâm phạm. Hãy coi lại thời đó, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có dám làm mạnh với
mấy tên Sư Tăng thân Cộng thuộc phe Ấn Quang trong chùa của phe này không?
Thích Minh Châu là đảng viên Cộng Sản kỳ cựu từ khi du học bên Ấn Độ, vậy tại
sao được Nguyễn Khánh chấp nhận cho về làm Việt Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh?
Thích Thiện Minh oa trữ súng trong chùa bị bắt rồi sau lại thả? Hồ Ngọc Nhuận
được Cộng Sản “móc nối” khi đi Pháp, sao Trung Ương Tình Báo không tóm cổ?
Vân vân và vân vân.
Tứ Qúy và Mặt Trận Tuyên Truyền của Cộng sản
Như đã nói trên, bọn Tứ Quý được Cộng Sản xâm
nhập, móc nối và khai thác triệt để chì có từ sau biến cố 1-11-1963. Cũng
kể từ đó cho đến những năm cuối của nền Đệ Nhị Cộng Hòa khi chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu càng ngày càng trở nên yếu kém, nhất là sau khi Hiệp Định Paris ngày
27-03-1973 được các bên ký kết. Tuy mang danh là Hiệp Định nhưng thực chất đó
là bản án khai tử mà Hoa Kỳ đã buộc chính phủ Nguyễn Văn Thiệu phải ký vào để
Nixon thắng cử và để Mỹ rút quân khỏi Việt Nam với sự thòa thuận ngầm trước đó
gìữa Henry Kissinger với phe Cộng Sản. Từ đây, Cộng Sản được rảnh tay khỏi phải
lo đối phó với pháo đài bay B52 của Mỹ từng rải hàng vạn tấn bom xuống trên đầu
khiến chúng muốn buông xuôi đầu hàng. Nay thì chúng được tự do hoạt động tuyên
truyền đánh phá VNCH trên mặt trận thông tin và ngoại giao nhằm mục đích nâng
cao uy tín chúng lên và hạ Việt Nam Cộng Hòa xuống. Adolf Hitler lãnh tụ Đức
Quốc Xã và được coi là cha đẻ ngành tuyên truyền hiện đại đã nói: “Nhờ tuyên
truyền, chúng ta có thể làm cho người ta tin Thiên đường là Địa ngục và Địa
ngục là Thiên đường.” Cộng Sản Bắc Việt đã khai thác triệt để câu nói thời danh
ấy khi thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (12-1960) cũng như các tổ chức
liên hệ của chúng như Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình
(4-1968) và cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam
(6-1969) từ thực chất là những con ma để trở thành những thực thể sống động.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình
Diệm dã ra một cuốn Bạch Thư tố cáo Cộng sản Hà Nội là cha đẻ ra công cụ MTGP
và là thủ phạm mọi phá hoại tại Miền Nam. Bạch Thư đã được 2 trong ba thành
viên (là Ấn Độ và Canada) của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến công
nhận, ngoại trừ Ba Lan là phe Cộng sản thì chống đối. Nhưng dư luận quốc tế
cũng như quốc nội đều công nhận Chính quyền VNCH với Tổng Thống Ngô Đình Diệm
là chính quyền hợp pháp là đại diện chân chính của nhân dân Miền Nam. Suốt từ
năm 1954 đến 1963, VNCH đã được hơn 100 quốc gia công nhận và ngay cả Hà Nội
cũng phải thừa nhận điều đó. Đích thân Thủ Tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng đã
nhiều lần gửi Công Hàm vào Sài Gòn yêu cầu Chính Phủ Ngô Đình Diệm hiệp thương
với miền Bắc. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ra điều kiện để hai bên có thể hiệp
thương là Hà Nội phải tôn trọng nhân quyền và quyền tự do đi lại của dân chúng
Miền Bắc, chấp thuận cho những gia đình phân cách do hậu quả phân chia Nam Bắc
từ Hiệp Định Genève 1954 được tự do vào Nam đoàn tụ, vân vân nhưng Hà Nội không
dám nhận. Tiếc rằng chính phủ hợp pháp ấy đã bị Mỹ âm mưu lật đổ để thay bằng
một chính quyền dễ sai bảo nên VNCH đã trở thành yếu kém, phải hạ mình đứng
ngang hàng với “con ma” được gọi là Chính Phủ CMLT/CHMNVN tại hòa đàm Paris.
Trong khi đó, nhờ khai thác triệt để về tuyên truyền, Cộng Sản Hà Nội và đàn
anh Nga Hoa đã biến con ma Măt Trận Giải Phóng và cái gọi là
CPCMLT/CHMNVN thành một thực thể đứng ngang hàng với Việt Nam Cộng Hòa, để sau
cùng VNCH bị chúng nuốt trọn vào ngày 30 tháng 04 năm 1975.
Trong một bài có tựa đề là: “Vài chuyện mắt thấy
tai nghe: Phe Cộng Sản nghĩ sao về Tổng Thống Ngô Đình Diệm?” đăng trong Tâp
San của Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tại Nam Cali, nhân
kỷ niệm 50 năm Hiến Pháp VNCH: 1956 - 2006, từ trang 97-102, GS. Tôn Thất Thiện
có nhắc đến bài điểm sách “The Year of the Hare” của GS Francis Xavier Winters
năm 1999 trong tạp chí Ấn Độ “World Affair”: Một quan điểm mới về vụ đảo chánh….”,
Giáo sư Tôn Thất Thiện đã ghi lại:
“Khi được tin ông Diệm bị lật đổ, Hồ Chí Minh
nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid Burchett: “Tôi không thể ngờ rằng
tụi Mỹ ngu đến thế.”
Cũng trong bài viết cho Tâp San này, GS. Tôn
Thất Thiện ghi lại cuộc gặp mặt bà Hồ Thị Mộng Chi, một người bạn thân tử khi
Giáo sư còn du học ở London. Bà Chi là người thân Cộng cư ngụ ở Paris,
nhưng sau đã vỡ mộng. Bà chi kể lại:
“… Trong thời gian gần đây tôi may mắn gặp được
một ngươì từ Hà Nội, mà tôi quen khá thân trước năm 1954. Và cũng rất may,
người này là một người hiếm có đã được chính tai mình nghe Ông Hồ nhận định về
vụ đảo chánh 1963. Người này tuyệt đối cấm tôi tiết lộ tên trong khi y còn
sống, vì đây là một “bí mật thâm cung”, nên tôi chỉ gọi là “Cán bộ X”. Cán bộ X
đã kể cho tôi nghe câu chuyện như sau: Y là một người có mặt tại Phủ Chủ Tịch ở
Hà Nội xẩy ra đảo chính ở Sài Gòn. Y thuộc một nhóm được Ông Hồ cho gặp
chiều 2/11/1963. Khi vào Phủ Chủ Tịch thì Ông Hồ đang bận tiếp một phái
đoàn gì đó. Y phải đợi ngoài hành lang. Đang đợi thì thấy có người mang một bao
thơ vào cho Ông Hồ. Nhìn vào, thấy Ông mở thơ ra đọc, xong, không nói gì, bỏ
thơ vào túi, rồi tiếp tục tiếp khách.
Một lúc sau khách di rồi, Ông cho gọi nhóm của
Cán bộ X vào, và nói: “Lúc này người ta báo cho Bác biết là Diệm vừa bị lật đổ.
Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhứt của Bác. Nay ông đã bị loại rồi, thì chiến
thắng chắc chắn sẽ về tay ta rồi.”
Lật đổ một nhân vật, một chế độ mà tập đoàn Cộng
Sản Việt gian phải khiếp sợ, để rồi VNCH phải ngồi ngang hàng với con ma Giải
Phóng, một công cụ bù nhìn của Hà Nội thì thiết tưởng không có gì ngu dại hơn
bọn đâm thuê chém mướn!
Cộng Sản xử dụng Tứ Qúy như thế nào?
Tứ quý là đối tượng tranh thủ của Cộng Sản trong
cuộc xâm lăng nen chúng đã nghiên cứu kỹ càng và dư biết thực chất của bọn Tứ
Quý để lợi dụng chúng theo từng giai đoạn. Bản chất của Tứ Quý là tự cao, bất
mãn, ngây thơ, ham địa vị, quyền lợi và danh vọng. Giai đoạn đầu chưa chiếm
được lãnh thổ và chính quyền thì Cộng Sản ra sức đề cao, tâng bốc, khai thác
bất mãn, rủ rê, mua chuộc bọn này. Khi đã thuận theo chúng thì chúng dành cho
Tứ Quý những địa vị cao, những danh xưng rất kêu trong những tổ chức do chúng
nặn ra mục đích chỉ để tuyên truyền và làm những việc có lợi cho chúng. Những
tổ chức này chỉ có danh và không có thực. Bọn Tứ Quý ham danh được đề cao mặt
nổi, trong khi thực chất thì người của chúng (CS) nắm trọn quyền bên trong. Tứ
Quý chỉ là bọn bù nhìn mà không biết. Bọn này đứng làm vì, ngồi chơi sơi nước
hay được Cộng Sản cho đóng kịch. Nếu bọn này có thắc mắc, Cộng Sản giải thích
là vì hoàn cảnh chiến tranh nên cần giữ bí mật và giới hạn việc liên lạc.
Hãy
nhìn lại những tên tuổi nổi của bọn Tứ Quý như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình,
Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Nguyễn Văn Hiếu, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết,
Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hồ Văn
Bửu, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, vân vân trong những tổ chức gọi là Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và
Hòa Bình, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để xem bọn
này đã giữ những vai trò gì và làm gì? Tất cả chỉ là công cụ bù nhìn và đóng
kịch cho chúng tức Cộng Sản Bắc Việt để chúng sai bảo, không có chút thực quyền
ngay tại chức trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lúc đó, bọn này được đưa vào ở
những khu bí mật trong rừng sâu, có nhà tranh, nhà lá để ở với nhiều tiện nghi
hơn bộ đội. Lâu lâu được CSHN bí mật đưa ra Miền Bắc hay sang các nước Cộng sản
để làm công tác tuyên truyền. Công việc của chúng chỉ có bấy nhiêu. Tại Hòa Đàm
Ba Lê thì Cộng sản Hà Nội đã dàn dựng bài bản đầy đù, cứ việc nghe theo mà đóng
kịch. Rồi sau khi tấn chiếm được Miền Nam, bọn này đã làm gì? Cũng chỉ
tiếp tục đóng vai trò bù nhìn với danh xưng khác còn thực chất vẫn chỉ là bù
nhìn không hơn không kém. Xin điểm mặt một vài tên tiêu biểu trong Tứ Quý:
Trước hết là Nguyễn Hữu Thọ, CSBV
phong cho làm Chủ Tịch Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTGP) 1960, rồi
Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt
Nam (CPCMLT/CHMNVN) 1969. Sau 30-04-75 Thọ được phong làm “Phó Chủ Tịch Nước
thứ 2” trong chính phủ Cộng Sản ở Hà Nội, một chức Phó thứ 2 thêm vào mà chỉ
dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam mới có. Thường các nước chỉ có một Phó Chủ Tịch
hay Phó Tổng Thống. CSVN bày lắm trò thêm chúc Phó Chủ Tịch Nước thứ 2 vào để
Nguyễn Hữu Thọ “ngồi chơi sơi nước” .
Chuyện xẩy ra như thế này do người thân của Lâm
Văn Tết, Phó Chủ Tịch cái gọi là LMCLL/DTDCVHB kể lại cho Đại Đức Nhật Thường
và người bạn của người viết nghe. Sau khi Cộng Sản tấn chiếm Miền Nam, nhóm
Miền Nam gồm Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, vân
vân họp bàn với nhau tại Sài Gòn. Câu hỏi đươc đặt ra để thảo luận là: Nay mai
ra Hà Nội họp, nếu Bộ Chính Trị Đảng CSVN hỏi bao giờ thực hiện thống nhất hai
miền Nam Bắc thì trả lời như thế nào? Sau khi bàn qua tán lại, tất cả đồng ý
Nguyễn Hữu Thọ đại diện anh em Miền Nam trả lời là sau 5 năm. Chuyện
xẩy ra đúng như dự liệu. Trong buổi Tiếp Tân do Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản
khoản đãi phái đoàn Miền Nam ở Hà Nội, Lê Duẩn Tổng Bí Thư Đảng đã
hỏi: “Quý anh nghĩ liệu trong bao lâu hai Miền Nam Bắc sẽ thống nhất với một
chính phủ đại diện duy nhất cho Việt Nam?” Nguyễn Hữu Thọ ngay tình trả
lời là 5 năm như đám MiềnNam đã đề nghị. Nghe Nguyễn Hữu Thọ trả lời
như vậy thỉ Lê Duẩn mở miệng cưởi hô hố một cách rất đểu khiến mặt Nguyễn Hữu
Thọ sụ xuống trông rất thảm hại. Từ đó, đám Miền Nam thất vọng, nhưng
câm như hến, không anh nào dám có ý kiến ý cò gì cả và bài bản thống nhất của
Hà Nội cứ như thế mà tiến hành.
Thực tế thì ngay sau ngày 30-04-1975, Hà
Nội đã ồ ạt tung Cán bộ Đảng viên từ Bắc vào Nam để nắm mọi cơ cấu tổ
chức địa phương. Địa phương nào, cấp nào cũng có cán bộ Đảng viên gốc Bắc hay
Trung vào nắm mọi vị trí then chốt về an ninh, quân sự và kinh tế. Thực
tế, người dân Miền Nam ai cũng biết và chính Trương Như Tảng trong
hồi ký Mémoire d’un Vietcong đã xác nhận điều đó. Còn các Cán bộ Đảng viên miền Nam chỉ
được đóng vai trò thứ yếu hay phụ tá. Thật ra thì các cơ sở Đảng và Tình báo
của Cộng sản ở Miền Nam đã bị phá vỡ và tiêu diệt từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa qua
Phong Trào Tố Cộng. Sau này, nhờ cuộc Đảo chánh 1-11-1963, khi hệ thống an
ninh Ấp Chiến Lược của VNCH bị Dương Văn Minh phá vỡ, nên các cơ sở nằm vùng
mới có cơ hội được xây dựng trở. Tiếp theo, khi Mỹ rút quân thì CS Bắc Việt đã
tung rất nhiều đơn vị Bộ Đội vào Miền Nam để thay thế đám địa phương
đã bị Quân Lực VNCH tiêu diệt. Chứng kiến thấy việc Hà Nội đưa Cán bộ Đảng viên
từ Miền Bắc vào nắm mọi cơ sở địa phương nên các anh chị Mặt Trận Giải Phóng
cay cú lắm, nhưng không dám hé môi. Bây giờ các anh chị mới biết Cộng Sản Bắc
Việt là bọn chuyên dối trá, lừa bịp và đểu cáng thì mọi sự đã quá muộn!
Thực chất như đã nói trên, bọn Tứ Quý và nhất là
mấy anh chóp bu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay cái gọi là Chính Phủ Cách
Mạng Lâm Thời CHMNVN toàn là những tên ngây thơ đến độ ngu si đần độn. Trương
Như Tảng là một thí dụ điển hình.
Trường Như Tảng là con nhà giàu, từng được gia đình cho du
học bên Pháp. Tốt nghiệp xong về nước, có lúc đã làm Tổng Giám Đốc Công Ty
Đường Việt Nam tại Sài Gòn. Khi còn học ở Pháp, Tảng đã trót dại nghe
Việt Cộng rủ rê và khi về VN thì bí mật hoạt động cho chúng. Năm 1966, Trương
Như Tảng bị Cảnh sát Quốc Gia dưới quyền TT Nguyễn Ngọc Loan bắt giam ở TTCH
Chí Hòa. Sau mấy năm khi Hoa Kỳ cần trao đổi với Việt Cộng, đã áp lực VNCH mượn
Tảng rồi thả ra. Tảng liền vô bưng và được phong làm Bộ Trưởng Tư Pháp của cái
chính phủ ma CMLT/CHMNVN cho đến 30-04-1975. Trong buổi diễn binh mừng
chiến thắng giải phóng hoàn toàn Miền Nam trên Đại Lộ Thống Nhất rước Dinh Độc
Lập ngày 15 tháng 05 năm 1975, chứng kiến các đon vị diễn hành đi ngang qua
khán đài toàn là Bộ Đội Miền Bắc mà không thấy Bộ Đội Giải Phóng đâu cả, Trương
Như Tảng đã hỏi Văn Tiến Dũng các đơn vị bộ đội giải phóng đâu thì Văn Tiến
Dũng thản nhiên trả lời: “Thì hai bên đã thống nhất rồi cỏn gì nữa”.
Nguyên văn tiếng Anh:
“ At last, when our patience had almost broken,
the Vietcong units finally appeared. They came marching down the street,
several straggling compaìes, looking unkempt and ragtag after the display that
has preceded them, Above their heads flew a red flag with a single yellow star
– the flag of the Democratic Republic of North Vietnam.
Seeing this, I experienced almost a physical
shock. Turning to Van Tien Dung who was standing next to me, I asked quietly,
“Where are our divisions one, three, five, seven, and nine?”
Dung stared at me a moment, the replied with
equal deliberatness: “The Army has already been unified.” As he
pronounced these word, the corners of his mouth curled up in a slight…”
Vietcong Memoir trang 264-265.
Mấy tháng sau Hà Nội đã thực hiện thống nhất
toàn bộ trong một Hội Nghị mà thực chất là sát nhập hay khai tử Mặt Trận Giải
Phóng, đưa vào Mặt Trận Tổ Quốc và Chình Phụ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN vào
Chính Phủ Cộng sản Miền Bắc. Từ đó Trương Như Tảng mới nhận thức được mặt thật
của Cộng sản và âm thầm chạy trốn. Ngày 25 tháng 08 năm 1978, Tảng đã bí mật xuống
tàu vượt biển, hơn một tuần sau thì được tàu hàng Singapore vớt chở
tới đảo Galang, thuộc Indonesia. Tại đây, Tảng xin Cao Ủy cho định cư ở
Pháp. Nhờ có thì giờ và được tự do thong thả, Tảng viết hồi ký Mémoire d’un
Vietcong bằng tiếng Pháp để tố cáo CSVN trước dư luận quốc tế.
Tiếp theo là Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH).
Dương Quỳnh Hoa cũng là con nhà giàu được du học Pháp đậu bằng Bác sĩ Y Khoa.
Thời gian ở, Pháp Dương Quỳng Hoa đã bị rủ rê và y thị đã gia nhập Đảng Cộng
sản. Năm 1957, DQH về Sài Gòn vừa làm việc trong ngành Y tế vừa làm gián điệp
cho Cộng sản. Năm 1960, Vìệt Cộng cho Dương Quỳnh Hoa với bí danh Thùy Dương là
một trong những thành viên của MTGP. Sau cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968,
DQH vô bưng được phong làm Bộ Trưởng Y Tế trong cái chính phủ ma CMLT/CHMMNVN.
Sau 30-04, khi CSBV đã tấn chiếm miền Nam, liền giải tán Chính Phủ ma của Việt
Cộng và hạ DQH xuống hàng Thứ Trưởng Y Tế. Sau đó ít lâu, Hà Nội lại cất chức
và cử y thị làm Giám Độc Bệnh Viện Chợ Rẫy. Dương Quỳnh Hoa bất mãn, than thở
với Nguyễn Hữu Thọ: “Chúng ta chỉ là lũ bù nhìn.”. Dương Quỳnh Hoa đem trả lại
thẻ Đảng. Mới đầu Hà Nội muốn cho y thị qua Pháp, nhưng sau nghĩ lại thấy nguy
hiểm nên đã bắt y thị phải câm miệng 10 năm. Có lần được một phóng viên ngoại
quốc phỏng vấn, Dương Quỳnh Hoa đã không ngần ngại nói huỵch toẹt:
”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân,
sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi,
đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn.” Và khi nhận định về bức tường
Bá Linh, Bà nói: “Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại.” Cũng trong bài viết
của TS. Mai Thanh Truyết trên trang mạnh do Châu Xuân Nguyên đưa lên ngày 30-03-2013,
còn ghi như sau: Vào tháng 7/75, Hà Nội
chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển
Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình,
Nguyễn Thị Định…
Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả
Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả
Nguyễn Thị Bình theo Cộng Sản từ lâu, được cử làm Phó Chu
Tịch Hội Phụ Nữ Giải Phóng sau là Bộ Trưởng Ngoại Giao của cái gọi là
CPCMLT/CHMNVN, dự Hội Đàm Paris. Sau 30 tháng 4 được cử làm Bộ Trưởng Giáo Dục,
rồi Phó Chủ Tịch Nước thứ 2 bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ.
Nói chung, tất cả những nhân vật thuộc MTGP,
Liên Minh CLL/DTDCHB, và cái gọi là Chình Phủ CMLT/CHMNVN khi bị giải tán
hay sát nhập vào chính quyền Cộng Sản Bắc Việt thời chỉ được những chức “Phó”
ngồi chơi sơi nước. Tất cả là một lũ bù nhìn. Những thành phần nổi tiếng hay
tạm đưọc coi là có công khéo đóng kịch cho Đảng Cộng Sản thì được cho làm Đại
Biểu Quốc Hội qua chủ trương “Đảng cử, Dân bầu”. Thí dụ: Đảng Cộng Sản và Mặt
Trận Tổ Quốc đưa ra danh sách sẵn 11 người thì dân chọn 10. Vì Dân Chủ của Cộng
sản là “Dân Chủ Tập Trung” Đảng năm hết mọi quyền hành, Đảng chỉ ai thì dân bầu
người đó. Thành phần ít nổi tiếng hơn, thì được cho làm Đại Biểu Nhân Dân ở cấp
dưới như Tỉnh, Huyện, Thành phố. Vai trò Đại Biểu là vai trò trang trí, bù nhìn.
Khi họp là phải tuân theo lệnh Đảng. Đảng bảo sao làm vậy. Cả đám “Nghị gật”
này chỉ có nhiệm vụ là “giơ tay”. Bởi thế mà có bài thơ diễu:
Đảng chỉ tay
Quốc Hội giơ tay
Mặt Trận vỗ tay
Công an còng tay
Nhân dân trắng tay…
Chủ trương của Cộng Sản trước sau như một là
“Hồng hơn Chuyên” và “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Đừng tưởng
rằng những khẩu hiệu này chi áp dụng cho thời kỳ “Cải Cách Ruộng Đất” ở Miền
Bắc từ 1953-1956, nhưng là áp dụng triệt để suốt trong thời gian Cộng Sản cầm
quyền từ khi thành lập đến nay, nghĩa là phải tiêu diệt giới giàu có và trí
thức. Nếu có dùng thì chỉ dùng giới hạn và giai đoạn khi những thành phần này
biết lột xác, và đạt tiêu chuẩn là triệt để trung thành và tùng phục Đảng cách
thành khẩn. Và nếu muốn được như vậy thì trước hết phải biết chia động từ “SỢ”
như Nguyễn Tuân từng tâm sự. Nhìn lại khoảng thời gian khoảng trên 60 năm qua,
từ khi Cộng sản nổi lên nắm chính quyền, xem chúng đã áp dụng phương châm này
ra sao?
Tại Miền Bắc thì những nhân vật trí thức như Nguyễn
Mạnh Tường, Trần Đức Thảo bị đì trối chết! Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt bớ,
tù đày. Hàng trăm ngàn người bị quy là phú nông, địa chủ dù chỉ có vài mẫu
ruộng đã bị đem ra đấu tố. Những người giàu và có công với Đảng như bà Cát
Thanh Long ở Thái Nguyên đã bị đấu tố chết! Ngây thơ như Nguyễn Khắc Viện từ
Pháp về VN phục vụ Đảng cũng chỉ cho làm chuyên viên!
Còn tại Miền Nam, thời thế thay đổi, Cộng Sản
không dám áp dụng Cải Cách trắng trợn như tại Miền Bắc, nhưng chiến dịch “Đánh
Tư Sản Mại Bản” đã làm nhân dân cả nước đói khổ. Cả bọn chóp bu của MTGP,
LMCLL/DTDCHB, và cái chính phủ ma CMLT/CHMNVN chỉ được ban cho chức “Phó” ngồi
chơi sơi nước hay những ông bà Đại biểu chi biết gật và giơ tay, đi đâu cũng có
Công an “bảo vệ” (nghĩa là theo dõi, kiểm soát). Đảng viên trung thành
lâu năm như Trần Bạch Đằng đặc trách trí vận Sài Gòn Chợ Lớn cũng không được
tin dùng, chỉ cho làm Ủy Viên Trung Ương để dễ bề kiếm soát. Vợ Trần Bạch Đằng
là dân i tờ rít từng bị Cảnh Sát Quốc Gia của VNCH bắt giam từ trước Tết Mậu
Thân 1968. Sau đó lại được Tòa Đại Sứ Mỹ mượn để trao đổi với Việt Cộng. Sau
30-04-1975, vợ Trần Bạch Đằng được Đảng ban cho chức Thứ Trưởng Tư Pháp Miền
Nam để gật đầu, giơ tay và lãnh lương! Bởi thế Trần Bạch Đằng cay cú viết cuốn
Kẻ Sĩ Gia Định than thở đủ điều! Riêng Trịnh Đình Thảo may mắn sao vớ được “cô
đầm lai” trẻ trung tối ngay đi dung dăng dung dẻ mà không sao cả! Có lẽ
Thảo già rồi, sắp xuống lỗ nên Đảng lờ đi để khóa mõm và bắt tiếp tục đóng
kịch.
Riêng thành phần Tứ Quý tại Sài Gòn và Huế thì
còn rõ hơn. Anh chị nào ngoan ngoãn, biết vâng lời thì cho ra làm Đại Biểu Quốc
Hội như Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Chân Tín, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ,
Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm. Còn những tên khác như Trần Thúc Linh, Hồ Ngọc
Nhuận, Lý Chánh Trung, Ngô Bá Thành, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng, vân vân
chỉ được tham gia Mặt Trận Tổ Quốc cấp Quận, Huyện hay Thành phố. Thực chất như
bao người biết Mặt Trận Tổ Quốc chỉ là cái lồng, cái rọ để Đảng CS buộc các
đoàn thể và Tôn giáo tham gia để chúng dễ bề kiểm soát. Nếu thời gian đầu thử
thách, ông bà anh chị nào tỏ ra ngoan ngoãn thì sẽ cho làm Đại Biểu Quốc Hội.
Trường hợp Ngô Bá Thành là điển hình nhất. Vì những ngày cuối
tháng 4 năm 1975, Ngô Bá Thành cho mình là trí thức thuộc “thành phần thứ ba” với
Dương Văn Minh. Y thị còn hy vọng sẽ có Chính phủ ba thành phần và đã cực
lực phản đối việc Dương Văn Minh nhận chức Tổng Thống VNCH từ tay Tổng Thống
Trần Văn Hương. Y thị thổ lộ với Đại Đức Nhật Thường (một ông sư duy nhất được
phép cưới vợ để nối dõi tong đường vì thuộc gia đình con một) và các bạn khác
rằng: “Ông Dương Văn Minh nhận như vậy tất nhiên mất tư cách Thành phần thứ ba”
là hỏng rồi! Ngô Bá Thành tuy là trí thức có bằng Luật sư nhưng cũng rất ngây
thơ và nông cạn. Y thị đâu có biết mình chỉ là con rối và Dương Văn Minh
chỉ là một tên tướng tham, hèn, ngu mà Mỹ đã dùng chỉ để phá đổ chế độ Đệ Nhất
Cộng Hòa (1963) và để hốt rác dùm Mỹ: đuổi Mỹ và đầu hàng Cộng Sản (1975)!
Cho nên mới đầu Cộng Sản không cho Ngô Bá Thành chức vụ gì cả. Sau này y
thị tỏ ra ngoan ngoãn mới được Đảng cho làm Đại Biểu Quốc Hội vài ba khóa chỉ
để “giơ tay”!
Nói chung, trước 30-4-1975, được sống trong
tự do, bọn Tứ Qúy múa rối làm loạn cả Sài Gòn.
Sau 30-04-1975, Cộng Sản vào đàn áp, tịch
thu tài sản của nhân dân, cả lũ im như thóc. Bởi vây mới có thơ rằng:
Tranh đấu đâu rồi chẳng thấy la?
Năm năm giải phóng kiếm không ra!
Cô đòi Quyền sống, đòi đầu nhỉ?
Cụ chống Lao tù, chống thế a?
Cứu đói nhân dân chờ rã họng,
Cầu no Tổ quốc muốn trầy da.
Mới hay tranh đầu buồn như thế,
Sĩ khí tâm can rõ khéo là!
Tại sao Cộng Sản đối xứ với cánh Miền Nam như
vậy?
Bởi vì CSBV dư biết rằng trong một thể chế tự do
dân chủ như tại Miền Nam mà bọn này còn bất mãn và dễ dàng nghe lời dụ dỗ để
theo chúng mà chống lại VNCH thì làm sao bọn này có thể sống dưới chế độ kiềm
kẹp của Cộng Sản mà không bất bình uất ức? Cho nên Cộng Sản chỉ lợi dụng mà
không tin dùng bọn này có lòng trung thành như những anh “bần cố nông” thứ
thiệt từ trong rừng chúng nhào nặn ra như Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Võ Văn
Kiệt, Phan Văn Khải và sau này như Nguyện Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, vân vân. Ngay
như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Trần Bửu Kiếm đã theo
Đảng từ lâu mà chúng có tin dùng đâu (Chỉ dành cho chức Phó hay Đại Biểu Quốc
Hội). Huống chi có học như Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, hay
những anh Việt Cộng non trẻ và ngây thơ như Nguyễn Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng,
Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh, vân vân. May lắm
thì bọn này được chúng cho chức Uỷ viên Mặt Trận Tổ Quốc cấp Quận, Huyện hay
Thành phố. Có lẽ duy nhất Nguyễn Đăng Trừng được chức “Bí Thư Chi Bộ Đảng trong
Đoàn Luật Sư Thành Phố Hồ Chí Minh”. Đây chỉ là thế kẹt phải làm, chảng lẽ lại
đưa một anh hay một chị thuộc loại i tờ rít làm Bí Thư giữa những anh chị Luật
sư có học ở Miền Nam thì kỷ quá. Nhưng biết đâu, bên cạnh Bí Thư
Nguyễn Đăng Trừng lại có một “Siêu Bí Thư” thuộc loại i tờ rít để kiểm soát Bí
Thư thì sao? Câu chuyện tiếu lâm sau đây có thể giải thích cho cái nghịch
lý này:
Tại chợ HÀNG CHIM ở Hà Nội, có ông bán Vẹt biết
nói (trong Nam gọi là con Két).
Khách đến mua, đưa tay chỉ vào con số 1: “Giá
bao nhiêu?”
Chủ trả lời: “5 ngàn vì nó biết hô to: Hồ Chủ
Tịch Muôn Nam!”
Khách chỉ vào con số 2: “Giá bao nhiêu?”
Chủ trả lời: “10 ngàn vì nó biết nói: Mao Chủ
Tịch Muôn Nam!”
Khách chỉ tiếp vào con số 3: “Bao nhiêu?”
Chủ trả lời: “15 ngàn vì nó biết hô to: Đả Đảo
Đế Quốc Mỹ!”
Khách lại chỉ vào con số 4: “Bao nhiêu?”
Chủ trả lời: “20 ngàn vì nó nói được câu: Tình
Hữu Nghị Việt Hoa Nồng Khắm!”
Khách chỉ vào con số 5: “Bao nhiêu?”
Chủ trả lời: “Con này giá đặc biệt 50 ngàn,
nhưng nó không biết nói.”
Khách ngạc nhiên hỏi lại chủ: “Không biết nói sao
lại đắt thế?”
Chủ trả lời: Nó không biết nói, nhưng nó chỉ huy
được những con kia!”
Hình ảnh mấy đàn Két (hay Vẹt) đó chính là hình
ảnh của Đảng Cộng Sản, của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đảng viên cán bộ
gồm toàn những con vẹt. Con vẹt khôn, biết nói thì luôn phải làm cấp dưới. Chỉ
những con không biết nói, không biết suy nghĩ mới có thể đứng đầu tức là Lãnh
Tụ Đảng, là Chủ Tịch, Tổng Bí Thư Đảng! Cho nên không lạ gì Cộng Sản luôn
luôn kỵ trí thức, nhất là trí thức được giáo dục, được đào luyện dưới chế độ
Việt Nam Cộng Hòa hay tại các quốc gia có tự do dân chủ. Còn trí thức xã hội
chủ nghĩa của Đảng phải xuất thân từ bần cố nông, là “con ông cháu cha”, biết
vâng lời, tùng phục và nhất là biết sợ. Cứ nhìn vào con các ông lớn Việt Cộng
hiện nay thì đủ rõ: học hành láo lếu, dốt dặc cán mai, chỉ lo ăn chơi đàng
điếm, phung phí tiền bạc với gái. Vậy mà lại được cha anh chúng cắt cử vào
những chức vụ cao trong chính quyền theo kiểu phong kiến vua chúa ngày xưa.
Chúng có làm bậy, phạm lỗi cũng không ai dám đuổi. Vì thế mới có 5 C và 5 Đ.
Năm (5) C tức là “Con Cháu Các Cụ Cả” và năm
(5) Đ: Đếch Đuổi Đi Đâu Được”.
Tâm trạng và phản ứng của Tứ Quý:
Khi Sài Gòn mới được “giải phóng” thì các anh
chị Tứ Quý hồ hởi ra mặt, tìm đủ cách để tâng công với hy vọng Đảng sẽ đãi ngộ
xứng đáng. Nào ngờ, chỉ sau vài tháng khi tình hình đã ổn định, đặc biệt sau
khi chúng đã lùa xong hằng triệu Quân Dân Cán Chính VNCH vào các trại Học Tập Cải
Tạo (nhà tù Việt Cộng) thì gọng kìm an ninh bắt đầu khép lại. Báo chí bị đóng
cửa hết. Mấy anh nhà báo thân Cộng bây giờ đói vêu mõm, vì không có việc làm.
Mấy anh Dân Biểu đối lập trước kia thì hầu hết vô các trại tù ngoại trừ mấy anh
có công đếm trên đầu ngón tay như Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Ngô Công Đức,
Phan Xuân Huy.
Lúc ấy, người dân Sài Gòn nhìn thấy các anh chị ăn mặc xuề xòa
kiểu Bộ đội xa hội chủ nghĩa với áo để ngoại quần, đi đôi dép râu, đạp xe cọc
cạch trông thật là thảm hại! Còn mấy ông Sư Ấn Quang có công đã ra tận Xa Cảng
Phú Lâm đón rước Bộ Đội Cộng Sản vào thành ăn mừng giải phóng, cũng biết thân
bìêt phận âm thầm về Chùa tụng kinh gõ mõ chờ Đảng cho ra cái gọi là Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam và dẹp luôn GHPGVNTN. Chín chục phần trăm (90/100) sư sãi đã
gia nhập Giáo Hội quốc doanh của Nhà Nước. Ông Sư bà Vãi nào cứng đầu thì cho
đi tù! Đó là cái giá mà phe Phật Giáo Ấn Quang phải trả. Thích Minh Châu là
Đảng viên, nhưng mất chức Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Mấy đệ tử đi theo
cũng chung số phận, về vườn hay đi tù cả lũ! Thích Huyền Quang bị giam lỏng.
Thích Quảng Độ bị lôi ra tòa và tống cổ ra miền Bắc ở Thái Bình. Thích Trí
Siêu, Thích Tuệ Sỹ còn bị lên án tử hình sau đưọc giảm án nhờ biết thay đổi lập
trường và hối cải (?).
Bây giờ các ông bà Tứ Quý mới mở mắt ra và mới
biết Độc Lập, Thống Nhất, Tự Do, Dân Chủ kiểu Cộng Sản là gì? Là đi theo bánh
xe lịch sử của Đảng, phải tùng phục vâng lời và phải biết sợ, đừng có dại dột
mà xuống đường biểu tình như trước. Xin hãy đọc các hồi ký hay hồi ức hoặc các
bài viết, bài phát biểu riêng tư của mấy anh Tứ quý Miền Nam: Hồ Ngọc Nhuận, Lý
Quý Chung, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, vân vân
thì sẽ thấy tâm trạng chán chường, não nề của mấy anh chị.
Nhưng những năm từ
1975 đến 1991, khi chế độ Cộng Sản còn đứng vững ở nhiều nơi trên thế giói,
nhất lại các nước Á Phi và Châu Mỹ La Tinh như Việt Nam, Cu Ba, Đông Âu, Đông
Đức… thì không anh nào dám ho he. Anh nào khôn thì kiếm đường vượt biên. Không
vượt biên được thì nằm im chịu trận. Chỉ từ sau 1991 khi Khối Cộng Sản Đông Âu
và Liên Sô sụp đổ thì các anh mới bắt đầu rục rịch. Trung thành như Hồ Ngọc
Nhuận mà cũng còn tìm cách cho con qua Pháp. Ngang ngược như Khối Ấn Quang với
Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Đôn Hậu cũng phải nằm im, chẳng ma
nào dám nhúc nhích, cựa quậy. Nhờ biến cố Đông Âu, Thích Huyền Quang mới dám
công bố Tuyên Ngôn 9 điểm, nhưng có một điểm rất dở là nói “Đảng Cộng Sản đã ưu
đãi Thiên Chúa Giáo” thật sai lầm! Đoàn kết chưa thấy đã thấy thái độ hẹp hòi
thiếu khôn ngoan. Đáng lý ra Hòa Thượng Huyển Quang nên lợi dụng cơ hội này nói
lên tinh thần đoàn kết Liên Tôn thì hay biết mấy thay vì đẩy Tôn giáo bạn đứng
xa Phật Giao Ấn Quang. Vì từ năm 1977, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã
mạnh dạn lên tiếng bênh vực Phật Giáo Ấn Quang tại Hội Nghị do Thành Ủy Huế -
Thừa Thiên tổ chức vậy mà sao không thấy Hòa Thượng Huyền Quang nhắc tới?
Thời gian trôi qua, nhờ công nghệ thông tin qua
các trang mạng toàn cầu và nhất là Phong Trào Dân Chủ trên thế giới như một xu
thế của thời đại, thổi bay các chế độ độc tài, không có gì cản lại được. Nhiều
Đảng viên CSVN đã thức thời, tỉnh ngộ, nhận ra sự thật và dám lên tiếng nói đòi
Tự Do Dân Chủ thay vì nằm im chịu trận như trước. Những Bùi Tín, Dương Thu Hương,
Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn
Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Hộ, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyên Huy Thiệp, Nguyễn
Khắc Toàn, vân vân bắt đầu lên tiếng mạnh mẽ.
Nhiều tài liệu và tác phẩm của họ
đã được công khai đưa lên các trang mạng toàn cầu hay được ấn hành ở nước ngoài
như tại Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Âu châu. Đến nay sau 38 năm ngày CSBV tấn
chiếm Miền Nam (1975-2013) thì hầu như cả nước đều thấy rõ giữa hai miền Nam
Bắc, giữa hai chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1946-1975) tức Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975) chế độ nào văn minh, tôn
trọng nhân quyền và quyền Tự do của người dân hơn? Chế độ nào làm cho nhân dân
hạnh phúc hơn? Chế độ nào dân chủ hơn? Chế độ nào bán nước cho giặc
phương Bắc? Chế độ nào thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Cộng? Chế độ
nào là Viêt gian tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế? Vân vân và vân vân.
Đặc biệt bây giờ thì giới trẻ còn can đảm hơn
nữa, họ đã mạnh dạn đứng lên bày tỏ quan điểm, lòng yêu nước và quyền tự do của
mình cách công khai trên các trang mạng cũng như giữa thành phố đông đúc dầy
đặc công an canh giác. Bởi vì bộ mặt thật của chế độ Cộng Sản Việt Nam đã bị
lột trần qua các hành vi ác ôn và tệ hại của chúng. Đó là chế độ Việt gian chỉ biết
làm tay sai cho ngoại bang, hèn với giặc ác với dân. Bọn này đã tự nguyện dâng
đất dâng biển cho Tàu Cộng rồi dùng bạo lực để cướp đoạt ruộng đất của dân
nghèo.
Tử vụ Văn Giang (Hưng Yên) đến vụ Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng, Hải Phòng)
và Đặng Ngọc Viết (Thái Bình), khi người dân đã phải dùng đến vủ khí, súng đạn,
dao búa để tự vệ và tự sát thì đủ biết sự uất hận của họ đã lên đến tột đỉnh
đối với chệ độ độc tài toàn trị. Họ nghĩ rằng chỉ có sức mạnh kể cả bạo lực mới
giải quyết được nguyện vọng chân chính của họ. Vì họ đã và đang bị dồn đến
đường cùng nên phải vùng lên tranh đấu đòi quyền sống. Thật đúng như câu nói “Ở
đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”.
Câu hỏi được đặt ra là trong thời gian qua nhóm
Tứ Quý ở Miền Nam có làm gì không? Thưa rằng có. Họ có lên tiếng, nhưng rất lẻ
tẻ. Lớp già như Nguyễn Hộ đã lên tiếng nhưng nay đã mai một chết dần chết mòn
cả rồi. Lớp trẻ hơn như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi thì có bất mãn nhưng vì có
tật (vợ làm ăn bê bối, giựt nợ, phá sản) nên biết thân phận nằm im. Chỉ có Lê
Hiếu Đằng trong lúc bệnh nằm nhà thương, tưởng sắp phải đi về chầu Các Mác, Lê
Nin nên mới dám bày tỏ quan điểm, đòi nhân quyền, đòi tự do dân chủ, đòi đa
nguyên đa đảng, kêu gọi lập Đảng Dân Chủ Xã Hội.
Tiếp theo, Hồ Ngọc Nhuận viết
bài phụ họa “Phá Xiềng, Lập Đảng Mới”. Nhiều người đã tỏ ra nghi ngờ Lê Hiều
Đằng đang đóng vai trò cứu Đảng? Thực hư thế nào thì cũng chỉ là chuyện nghi
ngờ. Vì dưới chế độ Cộng sản ác ôn dân Việt mình đã phải ăn quá nhiều “quả lừa”
rồi!
Tuy vậy, nếu chịu đọc kỹ các bài viết, các hồi
ký, hồi ức, và nhìn vào cuộc sống của họ từ 38 năm qua, từ khi chế độ Cộng Hòa
ở miền Nam bị bán đứng cho đến ngày hôm nay, ta có thể thấy được tâm trạng bất
mãn, chán chường của bọn Tứ Quý, trong đó có Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận. Họ
mong muốn tự do dân chủ, nhưng 38 năm qua chỉ là con số không và là cái bánh vẽ
to tướng. Họ đã lầm lỡ theo Việt Cộng, đã lỡ chửi bới, đả kích chế độ tự do dân
chủ của Việt Nam Cộng Hòa, nay thì há miệng mắc quai. Họ không dám ra mặt khen
chế độ tự do ở Miền Nam, nhưng gián tiếp cho thấy họ tiếc nuối nhưng không đủ
can đảm lên tiếng. Nói chung là họ hèn. Tứ Quý là bọn hèn dù đó là Sư, Cha, Dân
Biều hay Trí thức, Sinh Viên. Tất cả là một lũ ngây thơ, tham, hèn, ngu. Cơm
không ăn mà lại đi ăn cám!
Hồ Ngọc Nhuận viết hối kỳ Đời năm 2003 dày 617
trang, gồm 18 chương, nhưng không được phép xuất bản, hiện đã được phổ biến ít
nhiều trên các trang mạng. Quý độc giả có thể mở coi để thấy tâm trạng bất mãn,
chán chương của một ông Dân biểu chỉ vì thiếu suy nghĩ, đã lầm lỡ theo voi
(Cộng sản) mà kết quả chỉ được ăn bã mía!
Qua bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm
bệnh”, Lê Hiếu Đằng tự xưng là “Luật gia”, không biết Đằng đã tốt nghiệp Trường
Đại Học Luật Khoa hay chưa? Nhưng với tư cách là Giảng Viên Triết Học Mác
Lênin, 45 tuổi Đảng, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố Hồ Chí Minh
thì Đằng tất phải biết tường tận Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa như thế nào rồi,
nhất là khi pháp chế ấy nói về quyền Tự do.
Trong cuốn Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa bằng
tiếng Nga do Hà Nội dịch và ấn hành năm 1980, Frederik Engels viết về quyền Tự
do: “Nhà nước chỉ là một công cụ của giai cấp này để đàn áp giai cấp khác.
Nhà nước được lập nên không phải vì tự do. Nói cách khác, có Nhà nước thì không
có Tự do; mà có Tự do thì không có Nhà nước”.
Là giảng viên triết học Mác Lenin, chắc chắn Lê
Hiếu Đằng phải biết và thuộc nằm lòng câu nói trên của Engels. Câu nói ấy đem
áp dụng vào chế độ XHCN Việt Nam thì quá rõ ràng:
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là công cụ của
Đảng Cộng sản Việt Nam để đàn áp mọi từng lóp dân chúng Việt Nam, đàn áp các
Tôn giáo, đàn áp mọi tổ chức không thuộc Cộng sản. Nhà nước CHXHCNVN được lập
nên không phải vì Tự do cho Dân tộc. Bởi đó, có Nhà Nước XHCNVN thì không có Tự
do Dân chủ. Mà có Tự do Dân chủ thì không có Nhà Nước XHCNVN.
Vậy mà tập đoàn Cộng sản Hà Nội cứ ngoạc mồm ra
mà hô to khẩu hiệu: “Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc”. Trên nửa thế kỷ lừa bịp, bóc
lột dân chúng suốt hai miền Nam Bắc, chúng không hề biết ngượng miệng là gì.
Lại còn hô to khẩu hiệu Dân Chủ Tập Trung. Dân chủ tập trung kiểu gì mà kỳ vậy?
Thưa rằng đối với Việt Cộng không kỳ đâu! Câu trả lời của bọn Việt gian Cộng
Sản là: “Chúng mày (dân chúng) là dân, còn tao (Đảng) là chủ tức là Dân Chủ
đấy!”
Giảng viên triết học Mác Lê- Nin Lê Hiếu Đằng chắc
phải biết câu nói của Engels về Tự do và Nhà Nước chớ? Nếu Lê Hiếu Đằng không
biết thì Lê Hiếu Đàng đúng là một con Vẹt biết nói ở chợ Hàng Chim Hà Nội. Suốt
38 năm chỉ biết hô to những khẩu hiệu: “Hồ Chủ Tịch Muôn Năm. Đảng Cộng sản VN
Muôn Năm…” Còn nếu Lê Hiếu Đằng biết mà phải câm họng suốt 38 năm qua thì quả
thật Đằng và bọn Tứ Quý ở Miền Nam như những Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Hồ
Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Chân Tín, Thích Trí Quang, vân vân chỉ toàn là
những tên tham, hèn và ngu, không đáng xách dép cho giới trẻ đáng tuổi con cháu
mình như Việt Khang, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Đỗ Thị Minh Hạnh,
Huỳnh Thục Vy, Lê Quốc Quân, vân vân. Người ta nói chó ba ngày mở mắt. Bọn Tứ
Quý tay sai của Việt Cộng ở Miền Nam phải mất 38 năm mới dám mở miệng! Đọc các
bài viết của Lê Hiều Đằng và Hồ Ngọc Nhuận rõ ràng người đọc thấy Đằng và Nhuận
đã bóng gió xa gần tỏ ra nuối tiếc cái không khí tự do dân chủ và nhân đạo của
Miền Nam Quốc Gia. Lúc đó Hồ Ngọc Nhuận làm Dân Biểu được tự do biểu tình phản
đối, tự do viết. Và tên Việt Cộng Lê Hiếu Đằng ở tù mà vẫn được cho ra thi Tú
Tài.
Cho nên, khi nhìn lại bọn Tứ Quý củng những hành
động tay sai phá hoại của chúng, nhiều người đã thốt lên: “Đó là hạng người
không biết ăn cơm !” Câu chuyện tiếu lâm sau đây đã diễn tả đúng cái tâm trạng
của hạng người đó.
Cạnh bức tường Bá Linh, chó Đông Đức gặp chó Tây
Đức, than thở:
- Các anh ở Tây Đức được ăn uống thế nào mà cười
nói vui vẻ nhỉ?
- Tây Đức là xứ tự do dân chủ nên chúng tớ được
ăn no, chơi bời thỏa chí. Muốn cười, muỗn dỡn thì dỡn, chẳng ai cấm. Thế còn
các cậu ở Đông Đức thì sao?
- Bên Đông Đức, chúng tớ ăn xong rồi nằm im cả
ngày, chán lắm. Các anh có cách gì giúp chúng tớ chạy qua bên đó không?
- Chán thật à. Da dẻ các cậu cũng hồng hào, lông
cũng mượt đấy chứ.
- Nhà nước cho ăn và bắt phải nằm im. Nhưng
chúng tớ lại thèm sủa. Chó mà không được sủa thì còn gì khổ hơn?
Kết luận:
Luợc qua những nét đại cương như trên, có lẽ bạn
đọc cũng hiểu được ít nhiều vai trò của Tứ Quý trong cuộc chiến vửa qua. Miền
Nam bị rơi vào tay Cộng Sản một phần cũng là do bọn chúng chỉ vì tham vọng, cao
ngạo, ngây thơ, dễ tin bị Cộng sản lừa bịp đưa vào cái rọ để làm tay sai cho
chúng đánh phá chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Lợi dụng xong rồi, mục tiêu tấn chiếm
để nhuộm Đỏ miền Nam đã đạt, Cộng Sản Hà Nội cho bọn Tứ Quý ngồi chơi sơi nước
đúng với bài bản của phong kiến Tầu xa xưa: “Giảo thố tử, cẩu tẩu phanh. Cao
điểu tận, lương cung tàn. Địch quốc phá, mưu thần vong”. (Được thỏ giết chó.
Được chim bẻ ná. Thắng địch rồi dẹp tay sai).
Nằm trong cái rọ rồi, bọn Tứ Quý mới biết
thân biết phận, nhưng không dám nhúc nhích, cựa quậy. Bây giờ tỉnh ngộ và hối
hận thì đã quá muộn.
Năm 1954, qua Hiệp Định Genève, Cộng Sản chiếm
được nửa nước. Ngót một triệu người đã chạy vô Miền Nam để tìm tự do. Năm 1975,
chúng chiếm nốt Miền Nam thì hằng triệu người dân đã chạy thục mạng ra nước
ngoài bằng đường biền, đường bộ để tìm tự do bất kể bao hiểm nguy đến tính
mạng. Hơn nửa triệu người cũng đã làm mồi cho tôm cá ở đáy biển! Cộng Sản là gì
mà người dân lại sợ đến thế? Đến nỗi cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng
tự động nhổ lên mà đi.
Nhưng với Cộng Sản thì cái chủ trương rủ rê, mua
chuộc, xâm nhập, nuôi dưỡng Tứ Quý để làm tay sai cho chúng vẫn không ngừng
theo đuổi. Trong nước, chúng đã dùng bọn Tứ Quý xong rồi dẹp bỏ. Bây giờ, chúng
lại nhòm ngó Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại, “Khúc ruột ngàn dặm của Quê hương
Việt Nam thân yêu” nghe sao mà tha thiết hấp dẫn đến thế. Gần ba chục năm
trước, khi chế độ Cộng Sản đưa đất nuớc đến chỗ nghèo đói mạt rệp, Hà Nội đã
phải “lạy Mỹ cứu Đảng” xin lập quan hệ ngoại giao vì “Đồng Đô La hơn đồng chí
Liên Sô” và tìm đủ cách ve vãn “khúc ruột ngàn dặm” mà bao năm chúng đã nguyền
rủa, chửi bới là bọn theo chân Đế quốc! Chúng đã dành ra ngân khoản hằng trăm
triệu cho công tác kiều vận nhằm thực hiện Nghị quyết 36. Dân cả nước đều biết
rõ Cộng sản là bọn đểu cáng, tráo trở, chuyên lừa bịp, dối trá, thứ Việt gian
tay sai bán nước cho đế quốc thực dân Đỏ. Vậy mà vẫn có một dúm Việt kiều sống
nơi xứ tự do, được ăn sung mặc sướng đã vội quên cuộc chạy trốn Cộng sản đầy
máu và nước mắt, nhắm mắt nghe lời rủ rê của chúng.
Một Trịnh Vĩnh Bình, vua chả giò Hòa Lan, đem
bạc triệu về đầu tư suýt nữa mất mạng!
Một Trần Trường ngây thơ trưng ảnh Hồ Chí Minh
bị đả đảo, về VN cũng thân tàn ma dại.
Một Nguyễn Cao Kỳ về nịnh bợ ve vãn lập công để
kiếm ăn cách nhục nhã sống sượng.
Một Đỗ Mẫu tên lừa thẩy phản bạn xin làm tay
sai.
Một Phạm Duy bán rẻ nhân cách, từng viết tục ca
nổi tiếng “Cầm cụ:
Cầm cụ cho nói đái, nói đái lên đầu bay.
Cầm cụ cho nói chơi, nó chơi vào mặt mày.
Cầm cụ cho nó đụ nó đụ cho mày coi.
Cầm cụ cho nó bơi, hễ qua sông là thôi”
thế mà ông nhạc sĩ tài ba lại mon men về “cầm cụ
cho Việt Cộng” khiên cả Cộng Đồng phải lắc đầu!
Một “Thiền sư” Nhất Hạnh về lập Chúa Bát Nhã ở
Lâm Đồng bị lừa cả bạc triệu.
Chưa kể những anh chị không tên tuổi mon men vè
làm ăn bị lột hết cả quần áo!
Vân vân và vân vân.
Đúng là một lũ “chó mửa ra rồi, chó lại ăn”.
Những cái gương tày liếp như vậy mà vẫn có kẻ tự
xưng là trí thức, bác sĩ, luật sư, nghị viên, vân vân không biết mở mắt ra
nhìn, cũng lại mon men về nước xin làm đầy tớ cho chúng. Cộng Đồng phản ứng.
Bao nhiêu người lên tiếng chỉ trích. Mấy anh trí thức nửa vời lại mặt trơ trán
bóng nói rằng về nước để truyền dạy con đường dân chủ hóa cho nhà nước Cộng
sản! Thật là ghê tởm, điếm non mới ra lò đòi dạy tổ sư điếm già Cộng sản mà
không sợ chúng cười vào mũi? Có ngon thì về ở luôn trong nước! Nhà nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sẵn sàng đón tiếp nồng nhiệt!
Chó ba ngày mới mở mắt. Bọn tứ quý tân thời ở
hải ngoại 38 năm vẫn chưa mở mắt. Phải ví bọn này với loại chó nào đây?
Xin trả lời bằng chuyện cười sau đây:
Chó Việt kiều gặp chó Việt Cộng bày tỏ ước vọng
muốn về Việt Nam.
Chó Việt Cộng hỏi:
- Các cậu ở Hoa Kỳ ăn no ngủ kỹ sướng nhỉ. Về
Việt Nam làm gì cho khổ? Chúng tớ muốn sang Mỹ lắm đây mà không được.
Sao các cậu lại muốn về?
- Cậu nói đúng. Ở Mỹ cái gì cũng có, không thiếu
cái gì kể cả tự do. Muốn ăn thì ăn, muốn nói gì cũng được, muốn chửi cũng không
sao. Tối ngày ăn uống no say, phủ phê lắm. Nhưng ăn nhiều món ngon quá rồi,
chán lắm. Bây giờ chúng tớ chỉ thèm ăn cứt thôi, mà ở Mỹ không có cứt. Chỉ Việt Nam mới
có.
Chó Việt Cộng khuyến khich:
- Ừa, về luôn đi các cậu. Bảo đảm các cậu sẽ tha
hồ mà ăn cứt.
San Jose ngày 16 -10-2013
Phạm Quang Trình
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết