Ai
cho chú mày làm vua? Chính đáng và chính đáng hóa
(Tham luận viết cho Hội Thảo Hè, 12-13 tháng 8-2013, Singapore)
Cao Huy Thuần
Tôi mượn một trang sử của Pháp để mở đầu câu chuyện giải trí
này. Chẳng phải vì tôi mê gì nước Pháp, nhưng quả thật, động đến chuyện hiến
pháp, dù chỉ để giải trí, không đâu giàu hiến pháp bằng nước Pháp, bởi lẽ không
đâu có 1789. Cách mạng rồi phản cách mạng, cực đoan rồi phản cực đoan, từ tả
qua hữu rồi từ hữu qua tả, 1789 là nguồn sáng tạo cho nhiều bản hiến pháp chết
non, chết trẻ, chưa sống đã chết, làm giàu cho tư tưởng chính trị, không riêng
gì cho nước Pháp.
Vậy thì tôi mượn một trang sử của Pháp, hồi bắt đầu hình thành
nước Pháp. Như ai cũng biết, trước khi thành hình như các quốc gia có chủ
quyền, châu Âu sống một thời gian dài dưới chế độ phong kiến trong đó quyền lực
của vua bị chèn ép giữa hai quyền lực, ở trên và ở dưới. Trên là Hoàng đế. Dưới
là quý tộc. Rất chậm, chậm hơn nhiều so với ta, các quốc gia ở châu Âu mới
thành hình, sau khi các ông vua đánh bại được thế lực ở trên và ở dưới, xác
nhận chủ quyền toàn vẹn của mình.
Bởi vậy, cho đến năm 987, nước Pháp chưa thành hình mà cũng chưa
có vua. Do con cháu của Hoàng đế ở bên trên suy yếu, chư hầu ở bên dưới của
vùng lãnh thổ mà ngày nay ta gọi là nước Pháp, họp lại để bầu. Ấy, để bầu. Họ
bầu. Trong giới quý tộc, họ bầu một ông bá tước lên làm vua. Đó là Hughes
Capet, lấy vương hiệu là Hughes Đệ Nhất. Hai ngàysau, Nhà thờ làm lễ đăng
quang cho vua.
Với vương miện trên đầu, do bàn tay của đại diện Thượng đế đặt
lên, vua chính thức là vua. Nhưng dù vậy, cùng với cái mũ, vua cũng phải cầm
khí giới trong tay để chống lại các ông quý tộc lăm le chống đối. Một trong
những ông bá tước bất trị như vậy đã bị tân vương hạch hỏi:
–Ai cho chú mày làm bá?
Câu đó hay, nhưng câu trả lời của ông bá tước cứng đầu còn hay
hơn, lưu danh trong lịch sử:
–Ai cho chú mày làm vua? Qui t’a fait roi?
Câu trả lời hàm ý, như ai cũng thấy: “Tao! Tao cho chú mày làm
vua. Chú mày được làm vua là do chúng tao bầu lên. Không có chúng tao thì chú
mày đếch có cái ngai”. Trong thời đại phong kiến, vua đầu tiên của nước Pháp là
một lãnh chúa được các lãnh chúa khác bầu lên. Bầu cử đó tạo ra nguồn gốc và tính
chính đáng cho tước vị và quyền lực của ôngvua, cùng với cái mũ của
Nhà thờ.
Trong một thời gian vài thế hệ, hậu duệ của “chú mày” Huyghes Đệ
Nhất này giữ đúng luật lệ bầu cử, nhưng khéo léo làm đủ mọi cách để cho trưởng
tử của mình được bầu lên khi ông vua còn tại vị. Riết một hồi, mánh lới này
không còn cần thiết nữa, thực tế cha truyền con nối trở thành thông lệ. Hai thế
kỷ sau, vương quyền được củng cố, ông vua bỏ lửng chuyện bầu bán, con trưởng
của vua cứ vô tư lên ngôi, thông lệ trở thành nguyên tắc từ năm 1223. Nguyên
tắc ấy ban tính chính đáng cho quyền lực quân chủ.
Cho đến thế kỷ 18, nguyên tắc ấy chắc như chân lý bất di bất
dịch, tuy rằng trong học thuyết không thiếu gì các tác giả nêu lên câu hỏi: thí
vua vì vua tàn bạo có chính đáng hay không? Ở phương Đông, câu hỏi đó cũng được
đặt ra và Mạnh Tử được xem như người có ý tưởng táo bạo đáng kính. Nhưng đó là
tính chính đáng trong việc hành xử quyền lực.
Còn tính chính
đáng về nguồn gốc của quyền lực thì ai cũng đinh ninh như thế:
quyền lực là do Thượng đế ban cho một dòng họ, con tiếp nối cha. Đinh ninh ấy,
cũng giống như đinh ninh về Thượng đế-tác giả, bị lung lay tận gốc khi gió bão
triết lý bắt đầu báo trước cách mạng 1789. Hobbes, Locke, rồi Rousseau gieo một
tư tưởng mới vào trí óc con người, tống Thượng đế ra khỏi vai trò người ban chủ
quyền, đặt vai trò ấy vào đoàn thể các cá nhân tập hợp thành quốc gia.
Nguồn
gốc của quyền lực từ nay là cái hợp đồng trong đó người chủ thể của quyền lực
là dân và dân cai trị thông qua các người đại diện được bầu lên. Trên thực tế,
cách mạng 1789 thổi bay hai chỗ tựa của tính chính đáng cũ: bay cái đầu của vua
Louis 16 và bay luôn cái mũ của Nhà thờ.
Thế nhưng không phải dễ gì mà tất cả mọi thành phần xã hội đều
chấp nhận tư tưởng mới, thực tế mới. Hai tính chính đáng, cũ và mới, va chạm
nhau, gây nên bất ổn chính trị và xã hội trong suốt mười năm đầu sau cách mạng.
Trong vòng mười năm, nước Pháp thay đổi hiến pháp bốn lần, không lần nào mang
lại kết quả ổn định. “Cách mạng ăn thịt con ruột của mình”
là câu nói bất hủ diễn tả rất đúng tình trạng tương tàn tương sát giữa phe cách
mạng với nhau, giữa cánh cực đoan và cánh ôn hòa, để giữ vững quyền lực chống
lại khuynh hướng phản cách mạng níu chặt lấy quân quyền, củng cố lại tính chính
đáng cũ đã ăn sâu trong đầu óc của một thành phần xã hội.
Trên đây là tôi chỉ mới vào đề. Bây giờ tôi mới nói đến chỗ muốn
nói: giữa cơn hỗn loạn chế độ đó, tay hảo hán nào hứa hẹn được ổn định sẽ phất
lên như diều gặp gió. Ổn định vốn là tâm lý chung của người người, xưa cũng như
nay. Đánh đúng tâm lý đó, nay là đảng, xưa là người hùng. Nói chung, xưa nay
gì, người hùng thường là một ông tướng. Sau 1789, đúng là một ông tướng, một
tướng quân, chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, mới 30 tuổi uy danh đã lừng lẫy
khắp Âu châu. Đó là tướng Bonaparte, kẻ đã đánh bại đế quốc Áo, chiếm nước Ý,
thắng Ai Cập, một mình từ xa quyết đoán vận mệnh Âu châu, bất chấp ý kiến của
chính quyền cách mạng ở thủ đô. Năm 1799, Bonaparte hãy còn là Bonaparte, trên
ngưỡng cửa để trở thành Napoléon, trở thành vua. Nhưng… “Ai cho chú mày làm
vua?”
Là con đẻ của cách mạng, ông giương cao ngọn cờ chính
đáng của cách mạng. Phe cách mạng cần ông để giữ quyền lực. Ông cần
phe cách mạng để mưu đồ thăng tiến. Nhưng một phần của quần chúng và quý tộc
còn sót vẫn còn tha thiết với vương quyền. Thì ông tạo ra vương quyền! Thì ông
xây dựng chiếc ngai của ông trên cả hai tính chính đáng! Chuyện
ấy, ông phải mượn tay của nhà tư tưởng cừ khôi nhất của thời 1789, người đã tạo
cơ sở lý thuyết cho bản hiến pháp đầu tiên: Sieyès. Tài của Sieyès là trộn được
nước với dầu.
Ngày 18 Hạ Thu 1799, Bonaparte làm đảo chánh. Soạn hiến pháp
mới, Sieyès tưởng tượng ra một sự phân quyền nữa ngay giữa lòng cơ quan lập
pháp và giữa lòng cơ quan hành pháp. Quốc hội bị chia ra nhiều thành phần, có
thành phần chỉ lo việc soạn thảo luật, có thành phần thảo luận dự luật nhưng
không biểu quyết, có thành phần biểu quyết mà không thảo luận: một viện nói và
một viện câm.
Chính phủ cũng chia ra thành hai đầu, hai quốc trưởng, một ông lo
việc nội trị, một ông lo việc ngoại giao, mỗi ông có một nội các riêng biệt.
Trình dự thảo hiến pháp lên Bonaparte, tướng quân sổ toẹt cái mục quốc trưởng
hai đầu, thế vào bằng ba đầu, hai cái đầu hữu danh vô thực, chỉ đóng vai trò
cho ý kiến, thực quyền dồn cả vào một đầu thôi, là ông.
Miễn cho tôi đi vào chi tiết của bản hiến pháp nhiêu khê này mà
ý đồ lúc đầu của Sieyès là chia quyền lực ra như thế để tránh cả hai mối hiểm
nguy đã vấp phải: hiểm nguy từ Quốc hội độc tài, hiểm nguy từ hành pháp độc
tài. Nhưng, với Bonaparte đầy tham vọng, hành pháp làm sao không độc tài được?
Quốc trưởng ba đầu chỉ là tạm thời, tướng quân sửa hiến pháp ba lần trong vòng
bảy năm để: lần thứ nhất, phong Bonaparte làm quốc trưởng trọn đời, có quyền
chỉ định người kế vị; lần thứ hai, biến quốc trưởng thành Hoàng Đế, biến
Bonaparte thành Napoléon.
Cả hai lần, Bonaparte đều “trưng cầu dân ý”, cũng như
đã “trưng cầu dân ý” để chấp thuận hiến pháp. Ba triệu dân chấp thuận. 1500
chống. Nhưng 4 triệu dân không bỏ phiếu. Đâu có hề chi khi Bonaparte chỉ là kẻ
tiếm quyền bằng sức mạnh. Ông lên ngai bằng sức mạnh, cũng sức mạnh sẽ đẩy ông
ra khỏi ngai. Như thế, mặc dù ông đã khôn ngoan đặt cái ngai của ông lên cả hai
tính chính đáng và đây mới là chuyện đáng nói của tôi.
Trước hết là tính chính đáng mới mà cách mạng vừa đem lại, chính
đáng dân chủ. Ông tuyên bố: “Hiến pháp được xây dựng trên những nguyên tắc thực
sự của chính thể đại diện…”. Nghĩa là quyền lực của ông là do từ dân, chứ không
phải do đảo chánh, do bạo lực. Hơn thế nữa, dân đang muốn chấm dứt tình trạng
hỗn loạn, ông là người sẽ thực hiện khao khát đó, đưa cách mạng đến hồi kết
thúc. Cho nên ông kêu gọi: “Hỡi công dân, cách mạng đã được gắn chặt vào những
nguyên tắc lúc khởi đầu: cách mạng đã chấm dứt”. Bonaparte tiếp nối cách mạng
và khép lại cách mạng: tính chính đáng của cách mạng đã gắn chặt vào ông. Bởi
vậy, ông làm gì cũng là do ý của dân. Hiến pháp là do ý của dân. Làm quốc
trưởng trọn đời cũng là ý của dân. Lên ngôi hoàng đế cũng là do ý của dân, vì
tất cả đều thông qua trưng cầu dân ý.
Chuyện lạ đời chưa bao giờ thấy trong
lịch sử: điều 1 của hiến pháp được sửa đổi lần thứ hai tuyên bố: “Chính quyền
của Cộng hòa được giao cho một hoàng đế”. Như vậy còn là Cộng hòa? Như vậy là dân
chủ hay quân chủ? Là Cộng hòa quân chủ? République monarchique? Là quân chủ
cộng hòa? Monarchie républicaine?
Ông nói: Napoléon là vua trong một nước Cộng
hòa bởi vì Cộng hòa của ông là tiếp nối Cộng hòa đã được khai sinh sau khi vua
Louis 16 bị xử trảm. Ông là tiếp nối, nên một mặt ông phải tuyên thệ trung
thành với những nguyên tắc của 1789: tự do, bình đẳng, quyền tư hữu. Ông phải
chấp nhận những cơ quan lập pháp được xem như biểu hiện ý muốn của dân. Là vua,
ông không rời tính chính đáng dân chủ.
Nhưng, mặt khác, ông là vua, ông là hoàng đế. Là vua, ông phải
cư xử giống như các vua trong lịch sử lâu đời, giống như các vua tại vị trong
các nước lân bang. Cho nên ông phải để vợ cũ, lấy vợ mới là công chúa, lại phải
làm lễ cưới ở Nhà thờ, phải nhận vương miện từ Thượng đế.
Lễ lược, cưới hỏi,
đăng quang, diễn xuất như vua… ông làm tuốt như truyền thống vua chúa, ông
tưởng ông khoác được lên vai cả hai tính chính đáng. Nhưng chẳng
hoàng hậu, chẳng giáo hoàng, chẳng diễn xuất nào thay thế được sự công nhận tự
nhiên của lịch sử lâu đời. Diễn xuất tài tình đến đâu đi nữa, Napoléon vẫn hiện
nguyên hình là con của một thứ dân đảo Corse, một kẻ tiếm vị, một vua tân
trang, một tay cách mạng giả.
Thế còn ba cuộc trưng cầu dân ý thì thế nào? Chẳng phải là ý dân
đó sao? Sách luật của Pháp phân biệt hai thứ trưng cầu dân ý, một thứ chân
thật, có lựa chọn thực sự, thì gọi là référendum, một thứ giả hiệu,
bắt buộc không có lựa chọn nào khác, thì gọi là plébiscite. Ba
cái plébiscite của Napoléon chụm lại chỉ làm nên hòn núi giả –
hòn giả sơn. Các viện trong cơ quan lập pháp cũng vậy, chỉ là những con rối
trong sợi chỉ của phù thủy.
Gián tiếp, Napoléon cử vào đấy bộ hạ tay chân,
chẳng dính dáng gì với dân, chẳng chút hào khí để chống đối, bảo vâng gọi dạ
thì mau, nói ngược thì ngọng. Chính phủ thì là quái thai, chẳng phải quân chủ,
chẳng phải cộng hòa, chẳng phải quý tộc, chẳng phải thứ dân. Cái chính phủ ấy
dọa nạt, dọa nạt nước Pháp và dọa nạt cả Âu châu. Lời thề chưa ráo nước bọt,
Napoléon, ngay khi mới được bầu lên Đệ nhất Quốc trưởng, đã dẹp tất cả những tự
do mà Sieyès hy vọng sẽ được gìn giữ.
Cướp chính quyền mà lên, Napoléon chỉ có thể giữ được chính
quyền bằng bạo lực. Chế độ của ông dần dần đi vào con đường độc tài rất chi là
chuyên chính. Hoàng đế không chấp nhận một dấu hiệu chống đối nào, dù cho tất
cả mọi cơ quan đều được sắp đặt để tung hô. Một mình ông thay thế tất cả, lãnh
đạo tất, trái luật cũng bất cần, hiến pháp cấm thì ông ra luật bằng sắc lệnh.
Báo chí? Ồ, báo chí, cái lũ ấy thì phải bịt mồm cho kỹ, rất kỹ. Ông để lại cho
các hậu thế độc tài câu nói để đời: “Nếu ta thả lỏng dây
cương cho báo chí, ta sẽ không ở được trong chính quyền quá ba
tháng”. Ông có lý: tuyết nhẹ thế kia, nhưng tuyết có thể làm rơi núi đá. Để
giữ núi đá, ông tái lập quân quyền, giảng hòa với lớp dân còn tin ở vua chúa,
tạo ra một giới quý tộc mới cha truyền con nối, cưỡng hôn giữa chủ quyền của
dân và chủ quyền của trời. Ông lấy danh hiệu Hoàng đế do ân sủng của Thượng đế
và chủ quyền nhân dân”. Quái đản cái ý thức hệ con lai cha gà mẹ vịt.
Nói gì thêm? Thôi thì thế này: dân chúng có thể lầm củ cà rốt
với củ sâm nhưng không ai lầm tính chính đáng thật với tính chính đáng giả cầy.
Kẻ độc tài nào cũng bắt buộc phải tạo chính đáng cho mình bằng cáchchính
đáng hóa quyền lực. Nhưng bản tâm đã độc tài thì cái gì nhắm đến cũng
chỉ là quyền lực mà thôi, càng chính đáng hóa càng lộ ra tính bất chính, thủ
thuật. Trong trường hợp Napoléon, cái giả lộ ra ở cả hai mặt, mặt vua và mặt
dân, dơi không nhận ra ông mà chuột cũng không rúc rích với ông được.
Đó là chuyện bên Tây. Bên Tàu có hào kiệt nào đánh đu với hai
tính chính đáng như vậy không? Có, mà không chừng còn lý thú hơn. Cứ đọc hiến
pháp thì biết. Điều 1, ngay từ điều 1: “Cộng hòa Nhân dân TrungHoa là một
nước xã hội chuyên chính nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo… ”. Ông
Mác chễm chệ ngồi ở trên ngai. Ông Mao xen vào ngồi ké: “… và xây dựng
trên liên minh giữa công nhân và nông dân”. “Ai chonị làm vua?”. Cả
ông Mác và ông Mao cùng đáp một lần: “Ngộ!”. Nhanh tay hơn, ông Mao hích ông
Mác, giơ quyển sách đỏ lên.
Đâu phải! Đâu phải! Có người lên giành cái ngai. Đó là ông
Rousseau, xin lỗi, ông Lư Thoa. Ông Lư Thoa la lớn: “Không phải toa! Moa!”. Và
ông chỉ tay vào cái điều 2: “Mọi quyền lực trong Cộng hòa nhân
dân Trung Quốc thuộc về nhân dân”. Các ông ấy cãi nhau như vậy từ 1954. Cãi
bên ấy chưa đủ, họ đem nhau qua cãi ở bên ta.
Trước hết, phải chân thành công nhận rằng ông bạn lớn của ta có
lý khi khẳng định ngay từ trên chóp bu hiến pháp nguồn gốc chính đáng nguyên
thủy nơi quyền lực của ông ấy là ý thức hệ. Khác với ta, ông ấy đã vạn lý
trường chinh với cái ý thức hệ đó nhiều năm trước khi cắm được ngọn cờ trên
Thiên An Môn. Bắt đầu của họ khác với bắt đầu của ta: nguyên thủy của Nhà nước
độc lập của ta không mang cái tính chính đáng ý thức hệ ấy. Còn họ, Mao đánh
nhau với Tưởng, quân đội đánh nhau với quân đội, đảng Cộng sản đánh nhau với
Quốc dân đảng, ý thức hệ cộng sản đánh nhau với ý thức hệ chủ nghĩa tam dân.
Chuyên chính vô sản thắng, lên nắm quyền. Quyền ấy đương nhiên là chuyên chính
vô sản. Bình minh của họ là chuyên chính vô sản. Còn bình minh của ta thì bầu
trời xanh lơ, đâu có đỏ như thế. Nơi bầu trời xanh lơ ấy, không có chuyên
chính, không có vô sản, chỉ có hạnh phúc, chỉ có dân tộc.
Ta có tính chính đáng
của ta, họ có tính chính đáng của họ. Cái tính chính đáng nguồn gốc ấy, họ phải
bảo vệ là chuyện của họ và họ có lý, họ không bảo vệ thì quyền lực của họ mất
tổ tiên. Cho nên họ sì sụp hương khói ông Mao. Nhưng cả ông Mao lẫn ông Mác đều
phải biết rằng cái tính chính đáng ấy càng ngày càng chỉ là giấy tờ. Trên thực
tế, nghĩa là trên cái ngai, nó chỉ là con mèo, con mèo giấy, không bắt được
chuột. Tuy vậy, cái chữ “chuyên chính”của hai ông lại là nanh vuốt phải thờ bởi
vì nó hợp với truyền thống của tổ tiên để lại từ hồi cụ tổ Tần Thủy Hoàng đốt
sách. Không thờ thì cái tên Lư Thoa kia sẽ chiếm ngai mất.
Vậy thì hóa ra ông Lư Thoa vẫn sống dai, vẫn trường thọ, ngay cả
trên đất của quyển sách đỏ, vệ binh đỏ. Vẫn cứ oang oang “mọi quyền lực thuộc
về dân”. Cái ấy thì ta cũng nói, ai cũng nói, ông Napoléon cũng bập bẹ. Có điều
là, ông Lư nói là nói thiệt, nói như mục đích, nói như cứu cánh. Nói rằng đấy
là mục đích, đấy là cứu cánh, đấy là chính đáng. Còn về sau, nhiều kẻ cũng nói,
nhưng nói như đầu lưỡi, nói để cúng cụ. Ông Lư nói là chỉ đích danh cái tính
chính đáng. Còn về sau, nhiều kẻ vái ông ba xá để mượn câu nói của ông mà đóng
vở kịch chính đáng hóa một tình trạng chính đáng lung lay.
Bởi vì, trong thời đại ngày nay, dù độc tài bao nhiêu cũng không
né tránh được sự thật hiển nhiên này: không có dân thì không có tính chính
đáng. Trước sau gì, nhiều ít gì, rồi cũng phải chính đáng hóa quyền lực, nhất
là khi quyền lực ấy công khai mang tính chuyên chính. Chuyên chính đến bao
nhiêu đi nữa, không quyền lực nào phô trương thân hình trần trụi của mình. Văn
minh thì phải bận áo. Vấn đề là: bận áo vì thật tâm thấy đó là văn minh hay bận
áo để che mắt cái bản chất man rợ. Vấn đề là: thật tâm thấy ông Lư như lý tưởng
hay bản tâm mượn ông Lư để trường tồn. Thấy ông ấy như lý tưởng thì là dân chủ.
Thấy ông ấy như phương tiện thì là… Napoléon.
Cãi nhau trên lý thuyết thì gần 60 năm rồi vẫn chưa hết cãi. Một
bên nói rằng nếu thật tâm dân chủ thì phải hỏi cái lá phiếu và minh bạch gắn
tính mạng chính trị của mình vào lá phiếu. Một bên nói: ta có trăm cách để dân
chủ gấp ngàn lần, nào là thương thảo với dân, nào là hỏi ý kiến, cứ gì cái mảnh
giấy cỏn con ấy. Tính chính đáng đâu có phải chỉ đo bằng lá phiếu! Đem lại cho
dân phồn vinh kinh tế chẳng phải là chính đáng sao? Ổn định chính trị chẳng
phải là chính đáng? Tính chính đáng tìm ở đâu nếu không phải là nơi tâm lý thỏa
mãn của người dân? Chính đáng không phải chỉ nằm nơi lá phiếu, nhưng, được rồi,
nếu phải bầu cử để chứng minh tính chính đáng thì ta bầu cử. Sợ gì! Bầu phiếu
cũng là nghề của ta! Khổ nỗi, có lá phiếu và lá phiếu, lá phiếu này không giống
lá phiếu kia. Lá phiếu, ôi lá phiếu, ở nơi này ngươi là giáo dục, ở nơi kia
ngươi là xảo trá. Phất phơ giữa chợ, ở nơi này em là tấm lụa đào, ở nơi kia em
đi vào lầu xanh.
Thế giới bàn tán không ngớt về lụa đào hay lầu xanh từ khi cái
quận Buyun (Bộ Vân) đưa lá phiếu vào chính trị địa phương năm 1998. Đây là cuộc
đầu phiếu trực tiếp đầu tiên bầu thủ lãnh ở cấp quận. Tham nhũng, lộng quyền
thì trên dưới gì cũng đều có, nhưng phép vua vẫn cứ thua lệ làng, ở cấp dưới,
các tiểu vương nhũng nhiễu quá đến nỗi dân quê phải nổi loạn. Dân nổi loạn thì
tính chính đáng nằm đâu? Thỏa mãn hay bất mãn? Buyun sẽ trả lời. Buyun sẽ chứng
minh: lá phiếu ở đây là lụa đào chính hiệu.
Buyun có 16.000 dân. Mười sáu ngàn dân sẽ đi bỏ phiếu trực tiếp.
Nhưng dân chủ ở đây là “dân chủ với màu sắc Trung Quốc”, cho nên cái gì
cũng đặc biệt và hãy tìm cái mới trong cái đặc biệt ấy. Cái mới trước tiên là
có nhiều ứng cử viên. Ba mươi chữ ký giới thiệu của cử tri là đủ. Nhiều, cho
nên phải giới hạn. Thế là phải tổ chức một cuộc bỏ phiếu hạn chế ở vòng loại để
giới hạn số ứng cử viên còn 15 người. Mười lăm người vẫn là nhiều.
Thế là đến
lượt một “hội nghị liên tịch tuyển cử” (xuanju lianxi huiyi) được tổ chức, gồm
162 vị chức sắc của các làng và quận, để chọn ra 2 người trong số 15 người ấy,
bằng phiếu kín hẳn hoi, để đưa ra tranh cử chức chủ tịch Ủy ban nhân dân. Hai
người này có một tuần để vận động, để trả lời chất vấn của cử tri. Thế nhưng,
không cần phải qua vòng loại vì được hưởng một điều khoản đặc biệt của luật lệ
bầu cử địa phương, một nhân vật thứ ba xuất hiện để tranh cử. Ứng cử viên ấy
tên là Tan Xiaoqiu, phó bí thư đảng ủy Buyun. Ngày 31-12-1998, toàn thể cử tri
bỏ phiếu, thế là trực tiếp, đúng là dân ý. Tan Xiaoqiu thắng cử. Đúng là dân
chủ, nhất là lại có cái mới này nữa: chàng thắng cử với tỷ số 50, 29 % mà thôi.
Ba năm sau, cuối tháng 12-2001, hết nhiệm kỳ, Buyun lại tổ chức
bầu cử. Cũng vòng loại. 14 người lọt sổ. Hai người bị loại nữa vì lý do hình
thức. Một người tự ý rút tên. Hội nghị liên tịch tuyển cử họp lại, lần này gồm
165 người, đại biểu của các làng và quận. Bầu phiếu. Kín. Chọn ra 2 người tranh
cử. Một trong 2 người là… Tan Xiaoqiu. Cử tri bỏ phiếu. Trực tiếp. Người thắng
cử là Tan Xiaoqiu.
Tha hồ bình luận, cả thế giới bình luận, người tỉa ra cái hay,
người thọc vào cái dở, ai cũng có lý. Người nào là cảm tình viên của chế độ thì
hoan hô: Trung Quốc đi vào con đường dân chủ. Người nào thiếu hồng huyết cầu
lạc quan thì lắc đầu: nào là sàng lọc, nào là lựa chọn, cái lưới an ninh không
để lọt qua bất cứ một bất ngờ nào. Người nào ba phải thì tủm tỉm: “thà chút
chút còn hơn không”, “chút chút để ổn định hơn nhiều nhiều mà bất ổn”.
Chút chút để ổn định, để anh nông dân xả uất khí trước tham
nhũng, để đưa ra trước dư luận và thế giới bằng chứng cụ thể về tính chính đáng
của chế độ, ở tận gốc rễ làng xóm, thế là gì nếu không phải là chính
đáng hóa cơ sở? Nếu anh nông dân bằng lòng thì chính đáng
hóa ấy là hay lắm chứ, là đáng làm. Nhưng nếu dư luận cho là thủ thuật, thì sao?
Thay vì chính đáng hóa, phải chăng mục đính cốt lõi chỉ là khí cụ hóaanh
nhà quê, phương tiện hóa người dân? Con người, rốt cục, vẫn là
dụng cụ, không phải chủ thể.
Trong hàng trăm bài báo, hàng chục quyển sách viết về những thử
nghiệm bầu cử tương tự như kiểu Buyun, tôi nhặt ra đây cái lý luận bênh vực tính
chính đáng – hành xử ấy của một cảm tình viên ở Mỹ: dân chủ không phải
là mục đích, không phải là cứu cánh nhắm đến; dân chủ chỉ là phương tiện để giữ
vững chính quyền. Ông ấy dám nói thêm: ở đâu cũng vậy, không riêng gì Buyun.
Chẳng lẽ ở ông Lư Thoa cũng vậy sao? Ở phong trào Ngũ Tứ cũng mắm sốt? Ở nơi xe
tăng Thiên An Môn cũng thế thôi?
Ông ấy viết: “Bao nhiêu nhà nghiên cứu Tây phương, đầu óc bị
ô nhiễm vì những lý thuyết tự do về tính chính đáng, đã gặp khó khăn để hiểu
cách chính đáng hóa trong chính thể cộng sản, nhất là trong bối cảnh văn hóa và
lịch sử chính trị của Trung Quốc”. Và ông cắt nghĩa: Nhà lãnh
đạo chính đáng là “một nhà lãnh đạo nhận được Thiên mệnh, nhân từ và biết
tôn trọng thần dân, ban phát lợi tức quốc gia một cách công bằng, và được dân
chúng thương mến, dù không bày tỏ. Một người lãnh đạo phải biết không được làm
hại dân, trái lại, có chính sách làm lợi, làm giàu cho dân và để cho dân làm
những gì họ cho là tốt”.
Nói cách khác, thế là minh quân trong đạo Khổng. Ngày nay, được
như thế cũng là may rồi. Nhưng, thứ nhất, ông ấy quên lửng cái điều 2 trong
hiến pháp Bắc Kinh! Nếu chỉ muốn minh quân thì vứt cái điều 2 ấy đi. Vả chăng,
thứ hai, minh quân là gì trong học thuyết chính trị Tây phương? Là despotisme
éclairé, độc tài sáng suốt. Là Frédéric II của nước Phổ. Là Cathérine II
của nước Nga. Cũng không phải là cái lý tưởng chính đáng của điều 2. Điều 2 đã
gửi trả lại cái thiên mệnh của đức Khổng về cho ông trời rồi. Đố ông tác giả ấy
trả lời được câu này: tại sao một minh quân như vậy, được dân thương như vậy,
lại còn sàng lọc đủ trò để kiếm cho được cái lá phiếu của anh nông dân? Phải
chăng, vì ở thời đại này, dù là anh nhà quê ít học đi nữa, cũng biết đứng lên
mà hỏi: “Ai cho chú mày làm vua?”
Có lẽ chuyện Buyun đã cũ quá rồi, không diễn tả đúng thực tế
sinh động dân chủ ngày nay. Thì tôi xin mượn chuyện mới hơn. Chuyện sửa đổi
hiến pháp gần đây nhất, thực hiện năm 2004. Cũng là điều 2 đấy!
Bộ Chính trị quyết định sửa đổi hiến pháp 1982. Một nhóm quan
chức được chỉ định để soạn thảo. Họp lần đầu ngày 27-3-2003. Bộ Chính trị vạch
ra nguyên tắc. Tham khảo ý kiến trong vòng hạn chế. Dự thảo thành hình tháng 8
năm ấy. Khi đó cái chuyện sửa đổi mới được chính thức công bố. Dự thảo đưa ra
Quốc hội. Như thường lệ, Quốc hội biểu quyết nhanh, gọn, ngày 14-3-2004. Xong.
Tuy chỉ được chính thức công bố vào tháng 8, báo chí đã biết vào
tháng 6. Nhiều nhà nghiên cứu danh tiếng cũng đã được tham vấn trước đó. Giới
đại học mở nhiều thảo luận. Đại học Thanh Đảo. Đại học Thượng Hải. Nhiều giáo
sư đại học được Bộ Chính trị hỏi ý kiến. Giáo sư Jiang Ping (Giang Bình). Giáo
sư Wu Jinglian (Ngô Kính Liễn). Giới đại học xôn xao, hồ hởi. Không lâu! Một
chỉ thị mật ra lệnh ngưng thảo luận, ngưng xuất bản bài viết của đại học. Vài
nhà kinh tế, vài luật gia từng phát biểu ý kiến được công an hỏi chuyện. Truyền
thông tuyên bố: sửa đổi hiến pháp đã được tổ chức một cách dân chủ và trong
khuôn khổ một cuộc tham khảo ý dân rộng rãi.
°°°
Napoléon đem lại nhiều thành tựu tích cực cho nước Pháp. Nhưng
ông độc tài thì người Pháp nói ông độc tài. Ông bóp nghẹt tự do thì người Pháp
nói ông bóp nghẹt tự do. Nước Pháp có sách vở mà ta khâm phục. Thứ văn hóa ấy
tỏa sáng văn minh. Đức Khổng có nhiều ý kiến chính trị không hợp thời nữa.
Nhưng chỉ một chữ của ngài thôi, mà ngài để trên đầu mọi sự mọi vật, chữ Nhân,
cũng đủ để người Việt Nam tôn thờ ngài như Thầy. Chữ Nhân ấy đã bị truất phế,
thay thế trên bàn thờ cụ tổ Thủy Hoàng bằng chữ lợi, chữ tham, chữ dối, chữ thủ
đoạn, chữ xảo trá.
“Ai cho chú mày làm vua?” Cái văn hóa ấy.
C. H. T.
Chú thích
1. Về Buyun và những thử nghiệm bầu cử tương tự, bình luận đầy
dẫy trong các sách báo đại học Mỹ. Trình bày tổng kết rất gọn trong: Gunter
Schubert, La démocratie peut-elle coexister avec le Parti unique?Perspectives
chinoises, n° 77, mai-juin 2003.
2. Ông tác giả nói ở cuối bài là: Guo Baogang (Quách Bảo Cương), China’s
Quest for Political Legitimacy: The New Equity-Enhancing Politics, Lanham
Lexington Books, 2010.
3. Về sửa đổi hiến pháp 2004, xem: Chen Jianfu (Trần Kiến Phúc),
La dernière révision de la Constitution chinoise. Grand bond en avant ou simple
geste symbolique, Perspectives chinoises, n° 82, mars-avril 2004.
© Thời Đại Mới
Chuyện cũ nói lại
NHÀ NƯỚC: ÔNG LÀ AI?
Cao Huy Thuần
Ngày xưa, ta gọi là “Quốc gia”. Quốc gia Việt Nam. Gia là nhà, quốc là nước.
Bởi vậy, ai cũng hiểu như là hiển nhiên: Quốc gia là Nhà nước. Nhà nước ấy,
theo định nghĩa pháp lý mà mọi người trên thế giới thường học, gồm ba yếu tố
căn bản: một lãnh thổ, một dân số, một tổ chức chính trị. Việt Nam là một Nhà
nước vì Việt Nam có một lãnh thổ hình chữ S, một dân số gồm nhiều thành phần
dân tộc, một chính thể đóng đô tại Hà Nội. Thế giới hiểu Nhà nước Việt Nam là
vậy. Nhưng người Việt Nam hiểu như vậy thì lầm to ! Đọc Hiến pháp 1980,
rồi Hiến pháp 1992, rồi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hiện nay, “Nhà nước” trong
đó không phải là Quốc gia. Không phải là... Nhà nước ! Không gồm ba yếu
tố như ta thường học. Nó là cái gì đó không chính xác, và nó không chính xác
vì ngôn ngữ đẻ ra nó không phải là ngôn ngữ pháp lý mà là ngôn ngữ chính trị.
Ngôn ngữ chính trị khai sinh ra nó nằm trong Hiến pháp 1980, tức là Hiến pháp
chấm dứt Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thiêng liêng của thời Tuyên Ngôn
Độc Lập, chấm dứt Hiến pháp 1946 mà ngôn ngữ rất pháp lý, chính xác. Nói lại
chuyện cũ may ra hiểu được chuyện mới chăng.
Trong “Lời Nói Đầu” của bản Hiến Pháp 1980 ấy có câu chỉ đạo như sau: “Nó
(tức là Hiến pháp) thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam”. Quái, Quốc gia Việt Nam chạy đi đâu
mà bây giờ chỉ còn “xã hội Việt Nam” ? Trong cái “xã hội” ấy, “Nhà nước”
chỉ còn là một trong ba thành phần, đứng đàng sau rốt, như cái đuôi con voi.
Vậy thì “Nhà nước” này đâu có phải là khái niệm pháp lý mà ai cũng hiểu ? Nó
là cái gì mà vai trò được giao phó là công việc của một anh quản lý ?
Hiến pháp 1992 hiện hành và Dự thảo sửa đổi không lặp lại nguyên văn câu
tuyên bố chỉ đạo ấy nữa, nhưng tinh thần là y chang, một sợi chỉ hồng ấy thôi
xuyên suốt từ đầu đến cuối. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Đảng và Nhà nước
là hai. Đảng là ai, mọi người đều thấy cụ thể. Nhưng “Nhà nước”, thực thể là
thế nào, có thực thể hay không, khi Quốc hội cũng là đảng viên, khi Chính phủ
cũng là đảng viên, khi đâu đâu cũng là đảng viên ? Nếu Đảng và “Nhà
nước” là hai thì ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không phải là Nhà nước ?
Thế tại sao khi ông đi thăm nước này nước nọ, họ tiếp ông như đại diện của
Nhà nước Việt Nam ? Trong đầu của mọi người trên thế giới, ông là Nhà nước
Việt Nam ! Họ trương cờ đỏ sao vàng của Nhà nước Việt Nam để tiếp ông. Ông
đứng nghiêm trang nghe quân nhạc của họ cử hành bài quốc ca của Nhà nước Việt
Nam. Họ đâu có tiếp “xã hội Việt Nam” ! Họ tiếp “Nhà nước Việt Nam” !
“Xã hội Việt Nam” đâu có quốc kỳ, quốc ca ? Quốc kỳ ấy, quốc ca ấy có từ
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập lại Nhà nước Việt Nam đã bị xóa bỏ trên
bản đồ thế giới như một quốc gia độc lập. Trước đó, vẫn có “xã hội” nhưng
không có Nhà nước ! Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chữ S độc lập,
một con Hồng cháu Lạc độc lập, một chính quyền độc lập trong đó đảng
Cộng sản tham gia như một thành phần. Như vậy, đảng Cộng sản nằm trong
chính quyền, ở trong Nhà nước, cùng với nhân dân nằm trong bụng của Nhà nước,
đâu có nằm lên trên ? Dù cho sau đó, Hiến pháp 1980 ban cho đảng Cộng sản
quyền lãnh đạo, và nếu nhân dân chấp nhận quyền đó, thì đó hiển nhiên là lãnh
đạo trong chính quyền, lãnh đạo chính quyền, chứ sao lại lãnh đạo
Nhà nước ?
Vậy thì “Nhà nước” được đẻ ra từ 1980 không phải là Nhà nước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh rồi ! Vì vậy, khái niệm lẫn lộn như chỉ rối. Chẳng hạn, khi điều 9
đoạn 2 của Dự thảo sửa đổi viết: “Mặt Trận (Tổ Quốc) cùng Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân”, chữ“cùng” trong đó thật
là bí hiểm. Sao lại “cùng” ? Nếu anh ở trong Nhà nước thì anh không thể
“cùng” được. Anh chỉ “cùng” với một cái gì hay với ai là khi cái đó, người
đó, ở ngoài anh, chẳng hạn anh “cùng” với vợ anh. Vậy Mặt Trận ở ngoài Nhà
nước à ? Lại cũng chẳng hạn khi điều 29 của Dự thảo sửa đổi viết: “Nhà nước
tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý Nhà nước...”, quái, ấy là một Nhà
nước hay hai Nhà nước ? Nhà nước nào tạo điều kiện ? Nhà nước nào được quản
lý ? Nếu là hai thì vô lý, vì làm gì có hai Nhà nước, cũng như làm gì có hai
mặt trời ! Nếu là một thì lại không chính xác vì cái việc “tạo điều kiện” là
việc của các cơ quan Nhà nước, của chính quyền,
trong đó đáng lẽ có cả đảng Cộng sản như đã nói.
Hãy đọc lại Hiến pháp 1946: làm gì có chữ “Nhà nước” ! Bởi lẽ Nhà nước
1946 là nước, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và trong nước ấy chỉ có một
chính quyền thôi, gồm: Nghị Viện (Quốc Hội), Chính phủ, cơ quan tư pháp, Hội
đồng nhân dân và Ủy ban hành chánh ở các cấp địa phương. Đó là các cơ
quan của chính quyền Nhà nước mà Hiến pháp quy định quyền hạn và
trách nhiệm cụ thể cùng các mối tương quan qua lại. Lúc đó cũng có đảng chứ,
và đảng cũng chi phối chính quyền chứ, có thể lãnh đạo nữa trên thực tế,
nhưng dù lãnh đạo đi nữa, đảng cũng là một bộ phận của chính quyền Nhà nước,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lui nhắc tới hoài mãi: “Đảng ta là đảng
cầm quyền”. Cầm quyền là cầm chính quyền trong Nhà nước, chứ đâu có đặt
bày ra một khái niệm “Nhà nước” mông lung rồi giao cho nó cái phận sự của anh
quản lý, làm việc dưới một thế lực lãnh đạo không pháp lý hóa được và cũng
không muốn pháp lý hóa vì pháp lý hóa thì hóa ra nó ở dưới luật mất rồi, đâu
còn tối cao nữa ! Tất cả nhập nhằng mà ai cũng biết và cũng nói từ lâu trong
quan hệ giữa đảng và “Nhà nước” là do ở chỗ ấy: dẹp bỏ ngôn ngữ pháp lý của
Hiến pháp 1946 và thay vào đó hai khái niệm chính trị bằng ngôn từ chính trị:
“lãnh đạo” và “quản lý”. Chừng nào hai khái niệm chính trị ấy chưa làm đề tài
để thay đổi tư duy, sửa đổi Hiến pháp chỉ là thay đổi văn bản chính trị này
bằng văn bản chính trị khác, không ảnh hưởng thực sự gì đến đời sống pháp
luật.
Vậy thì Nhà nước là gì, và vai trò đích thực của Nhà nước là gì ? Phe tự do
nói: Nhà nước là trọng tài. Phe mác xít nói: là bộ máy nằm trong tay một giai
cấp để bóc lột giai cấp khác. Gác ra ngoài tranh luận lý thuyết ấy, điều chắc
chắn là lúc nhân loại đang còn ban sơ thì Nhà nước chưa có. Xã hội đầu tiên
của loài người chắc hẳn là xã hội gia đình. Sau đó là thị tộc, đẳng cấp, bộ
lạc... Nghĩa là Nhà nước không phải là cách tổ chức chính trị duy nhất của xã
hội trong lịch sử nhân loại, nhưng là cách tổ chức chính trị mới mẻ nhất,
hoàn hảo nhất. Nhà nước xuất hiện sau một quá trình tiến triển dài của những
cấu trúc xã hội ; những cấu trúc này càng ngày càng trở nên phức tạp và càng
được phân biệt với nhau. Nhà nước là sản phẩm của quá trình đó. Durkheim nói
như vậy. Thuyết mác xít thì giải thích: Nhà nước xuất hiện lúc mà những mâu
thuẫn giai cấp không thể dung hòa được nữa. Dưới cái nhìn này hay cái nhìn
kia, Nhà nước đều xuất hiện ngay khi có một đầu não chính trị tách ra khỏi xã
hội và làm nhiệm vụ tạo lập trật tự. Trong học thuyết mác xít, quyền hành từ
xã hội mà ra nhưng lại có vẻ đứng lên trên xã hội để ngăn chận không cho
những mâu thuẫn giai cấp đi đến mức làm tiêu diệt cả xã hội. Trong tư tưởng
Durkheim, Nhà nước là một cơ quan có lý tính, có khả năng vượt qua những lợi
ích và tranh chấp cá nhân.
Dù thế nào đi nữa, bản chất của Nhà nước là thống trị, thống trị bằng cách
ban hành những quy tắc mà công dân phải tuân theo, nếu không thì sẽ bị trừng
trị. Mà sự trừng trị của Nhà nước thì hiệu nghiệm lắm, bởi vì Nhà nước có độc
quyền cưỡng chế bằng quân sự. Cưỡng chế, đó là đặc tính của Nhà nước. Lịch sử
của Nhà nước là lịch sử của sự tập trung dần dà quyền hành cưỡng bức vào tay
những người cai trị, và Nhà nước được đẻ ra lúc nó trở thành nguồn gốc chính
đáng duy nhất của quyền lực và bạo lực. Nói một cách khác, Nhà nước chưa bao
giờ chỉ làm công tác của một anh quản lý tính sổ tính sách. Nhà nước làm ra
luật, Nhả nước ban hành luật, Nhà nước tạo ra các cơ quan để thi hành luật,
Nhà nước trừng trị sự vi phạm luật, Nhà nước giải quyết những phân tranh xã
hội, Nhà nước duy trì trật tự: đó không phải là quản lý, đó là cai
trị, và Nhà nước nào cũng cai trị, kể cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù
chỉ là trên danh nghĩa thôi, ai dám bảo Quốc hội của ta không cai trị ? Ông
là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” mà. Ai dám bảo ông thủ tướng hiện
nay không cai trị ? Cai trị, không có gì khác hơn là soạn luật, làm ngân
sách, thảo kế hoạch, bảo vệ trật tự an ninh. Dù cho ông làm dưới sự lãnh đạo
của điều 4, bản chất của công việc ông làm là chính trị, không phải hành
chánh. Dù có điều 4 đi nữa, khi ông làm những công việc có bản chất chính trị,
bản chất quyền lực, bản chất cai trị rồi, thì ông không phải là anh quản lý
nữa. Cho dù có lúc ông đội cái mũ quản lý, lúc nào ông cũng cai trị, hoặc là
cai trị thông qua bộ máy của đảng, hoặc là cai trị thông qua bộ máy Nhà nước,
hoặc là, nói cho chính xác, thông qua bộ máy của Đảng - Nhà nước. Nói Nhà
nước không cai trị cũng như nói thiên lôi không có sét. Thiên lôi không quản
lý sét cho ai ở trên đầu, thiên lôi đánh là đánh.
Bởi vì không có Nhà nước nào quản lý cả, bởi vì đã là Nhà nước thì là cai
trị, là sử dụng quyền hành chính trị, quyền hành ý thức hệ, cho nên vấn đề cố
hữu đặt ra là: Vậy thì đảng làm gì ? đảng ở đâu ? đảng “lãnh đạo” như thế nào
?
Chỉ có hai cách để giải quyết vấn đề. Một là đảng trực tiếp nắm hẳn quyền chính
trị, sử dụng trực tiếp mọi quyền hành Nhà nước, và như vậy thì đừng phân biệt
“lãnh đạo” và “quản lý” nữa trong đầu óc và trên giấy tờ, vì cả hai đã chính
thức nhập làm một. Hai là tách đảng ra khỏi Nhà nước như đã từng tuyên bố lâu
nay, và như vậy thì Nhà nước sẽ nắm thực quyền và khái niệm “lãnh đạo” phải
quan niệm lại. Trong cả hai trường hợp, trường hợp nào cũng cần có con gà và
nắm xôi để cúng tiễn đưa hương hồn anh quản lý về nơi chín suối.
*
Chuyện đã cũ, nói đi nói lại sợ nhàm mà chẳng được lợi lộc gì. Thế nhưng, mới
cách đây mấy ngày thôi, hồi đầu tháng 11 này, báo Tuổi Trẻ có đăng bài phỏng
vấn TS Nguyễn Sĩ Dũng, phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, mà nhan đề làm tôi giật
mình: “Đổi mới là mệnh lệnh của thời đại”. Dù đã từng nhiều lần lạc quan, rồi
thời đại vẫn qua mà đổi mới vẫn cứ là mệnh lệnh, tôi vẫn muốn tiếp tục lạc
quan khi đọc đoạn cuối của bài phỏng vấn, trong đó ông phó chủ nhiệm kể lại
lần gặp cố thủ tướng Võ Văn Kiệt vài tuần trước khi ông mất:
“Lúc bấy giờ tôi có nói rằng cần phải hết sức tránh việc hình thành hai nhà
nước trong một đất nước. Chúng ta có thể nghiên cứu nhất thể hóa sâu rộng
hơn, như Singapore chẳng hạn, để Đảng lãnh đạo thật sự “hóa thân” vào Nhà
nước... Tôi cho rằng hiện nay đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất để
đổi mới nền quản trị quốc gia của chúng ta”.
Nói với ông Kiệt thì chỉ cần nửa lời ông cũng hiểu, vấn đề là có ai khác nữa
hiểu như ông ? Ông phó chủ nhiệm nói thêm: “Thật ra, nhất thể hóa cũng đã
được Đảng ta đề ra, chứ không phải là điều gì mới mẻ cả”. Đúng vậy, không có
gì mới. Bản thân tôi cũng đã nói cách đây hơn hai mươi năm. Nhưng nói mà ai
nghe ?
Dù vậy, mấy lời tâm huyết của TS Nguyễn Sĩ Dũng là tiếng nói của trí tuệ thức
tỉnh, buộc trí thức phải lưu tâm. Cảm tạ lời nói đó, tôi nghĩ rằng: giá như
Quốc hội chỉ đem vấn đề trọng yếu đáng nói này ra bàn thôi và gác qua một bên
mọi chuyện hoa lá cành khác trong Dự thảo thì quả thật thời đại sẽ ăn mừng
cho Việt Nam. Dù ăn mừng quá muộn.
Tác giả gửi ngày 16-11-13
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết