On Sunday, 2 March 2014 4:01 PM, binh an <>
wrote:
Câu chuyện Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa Di Tản năm 1975
Đinh Mạnh Hùng
Gần đây, Dân Sinh Media phát hành một DVD
kể lại câu chuyện di tản của Hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, đi từ đảo Côn
Sơn sang vịnh Subic, Phi Luật Tân. Cuốn DVD “Chuyến Hải Hành Cuối Cùng” (CHHCC)
đã đưa lên khung cảnh hỗn loạn tại Việt Nam vào những ngày cuối tháng 4 năm
1975. Qua các phỏng vấn và hình ảnh, DVD cũng đã cho ta thấy tình trạng lo
lắng, hoang mang, bất an của thủy thủ đoàn và “tình hình trên các chiến hạm căng
thẳng như thùng thuốc súng sắp nổ tung”. Riêng câu hỏi “ai đã khéo chỉ huy, lèo
lái tình hình, hướng dẫn đoàn tàu ra đi trong trật tự và bình yên” thì có lẽ
chưa thấy được giải đáp thỏa đáng.
Về câu hỏi này, là một thành phần trong bộ tham
mưu di tản, người viết xin đóng góp một số nhận xét như một chứng nhân của cuộc
hành trình lịch sử này. Tất cả những gì trình bày sau đây cũng đã được tóm lược
trong cuốn Hải Sử Tuyển Tập do Tổng Hội Hải Quân VNCH phát hành năm 2004, từ
trang 523 đến trang 530.
Các nhận xét về chuyến đi này được chia làm hai
phần:
Phần 1: Diễn tiến cuộc di tản
Phần 2: Các nhân vật điều động
Phần 1 – Diến tiến cuộc di tản
Khởi hành từ Sài Gòn lúc 7:00 giờ tối ngày 29 tháng
4 năm 75, các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Hòa tập trung tại Côn Sơn từ
chiều ngày 30 tháng 4. Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, Phi Luật Tân trưa ngày 1
tháng 5 và đến Phi Luật Tân vào chiều ngày 7 tháng 5.
Các diến tiến sau đây bắt đầu từ lúc hạm đội hình
thành tại Côn Sơn và được phân thành các tiểu đoạn như sau:
1.1 Bộ tham mưu
1.2 Vấn đề truyền tin
1.3 Đi hay ở lại
1.4 Hành trình
– Làm gì bây giờ?
– Đi đâu?
– Ngày giờ khởi hành
– Hải hành
1.5 Đến bến
– Chuẩn bị vào bến
– Đến bến
1.1 Bộ tham mưu
Năm 2001, Ban Hải sử Tổng hội Hải quân Việt Nam
Cộng Hòa có hỏi tôi một số câu hỏi, trong đó có câu sau: “Xin Đề đốc cho
biết, khi rời Sài Gòn, Bộ Tư Lệnh nổi trên đường di tản được tổ chức ra sao?
Một cách cụ thể, bên dưới Đô Đốc Cang, các giới chức Hải quân trên HQ 3 đã được
phân nhiệm như thế nào?” Tôi đã trả lời như sau: “Bây giờ thì gọi là Bộ
Tham Mưu chứ trên thực tế lúc đó thì tùy cơ ứng biến. Có việc gì thì họp nhau
cùng bàn, sau khi có sự đồng ý của Đô đốc Cang thì chia nhau mà làm, miễn sao
có kết quả êm đẹp”.
Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Trên HQ 3 – Tuần
dương hạm Trần Nhật Duật – mà Hạm trưởng là HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu, ngoài
thủy thủ đoàn, thành phần BTL/HQ gồm có, theo thứ tự thâm niên: Phó Đô
đốc Chung Tấn Cang, Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, Phó
Đề đốc Hoàng Cơ Minh và HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn. Về sau, có Phó Đề đốc Đặng
Cao Thăng đến từ Vùng 4 Sông ngòi, Phó Đề đốc Nghiêm Văn Phú từ Lực lượng Tuần
thám.
Bây giờ nghĩ lại, thấy có vẻ khôi hài. Người thì
ít mà toàn là tướng không, vậy ai làm lính. Cũng may là công việc làm không
dùng đến cơ bắp, chỉ cần có cái miệng, nhưng lại phải trực phiên 24 tiếng đồng
hồ, ăn ngủ tại chỗ, cũng khá mệt nhọc. Chắc có người thắc mắc nhân viên đâu cả?
Xin thưa: họ cùng với gia đình ở rải rác trên các chiến hạm khác. Đây cũng
chứng tỏ sự linh động và nhân hậu của cấp lãnh đạo.
Sau buổi họp tham mưu cao cấp trên HQ 3 chiều ngày
30 tháng 4, khi giải tán, các giới chức đến họp đã trở về chiến hạm chở gia
đình họ. Như vậy mặc nhiên ngầm có sự đồng ý để các nhân viên ở gần gia đình
họ. Biết rằng hầu hết các sĩ quan đều mang theo gia đình họ nên không ai có ý
nghĩ gọi họ lại nhiêm sở. Tôi nghĩ rằng, nếu không vì gia đình, chắc chắn mọi
người sẽ tự động trở về nhiệm sở của mình.
1.2 Vấn đề truyền tin
Kể từ lúc Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố hạ súng vào sáng ngày
30 tháng 4 thì hệ thống truyền tin như một cái chợ vỡ. Đủ mọi chuyện được đem
ra trao đổi hỏi han, nhất là các đề tài sau: bàn về tình hình, hỏi han tin tức
gia đình, bàn chuyện di tản hay không, than van về tình cảnh cá nhân v.vv…,
chứng tỏ một tình trạng lo lắng hoang mang cực độ của các thủy thủ đoàn. Tình
trạng này nếu tiếp tục thì thật là nguy hiểm vì có thể đem lại sự phân hóa
trong hạm đội. Mặt khác nếu ngăn chặn thông tin thì làm sao hiểu được tình hình
mà trù liệu công việc. Đó là chưa kể các mối lo khác như bị xâm nhập và phá
rối, khuyến dụ của Việt cộng.
Để giải quyết tình hình này, Phó Đề đốc Hoàng Cơ
Minh được chỉ định đảm trách điều hành hệ thống liên lạc, chỉ huy và là người
độc nhất được sử dụng hệ thống truyền tin để tránh khỏi bị cướp phá. Tóm lại,
Phó Đề đốc Minh thường trực đích thân theo dõi hệ thống truyền tin để: bảo đảm
an ninh truyền tin, theo dõi tình hình, giải quyết các vấn đề có thể giải quyết
ngay, nêu lên các vấn đề cần giải quyết, chuyển các quyết định của BTL cho các
đơn vị và theo dõi thi hành.
Trong thư trả lời ban Hải sử, tôi đã tóm tắt vấn
đề như sau: “Chỉ huy chiến thuật đòi hỏi 4 điều kiện khi liên lạc: An toàn chính
xác về truyền tin, nắm vững tình hình, tiếng nói của thẩm quyền. Trong khi
triệt thoái, binh sĩ hoang mang dao động, các điều kiện trên lại càng quan trọng.
Phó Đề đốc Minh đã có nhiều kinh nghiệm điều quân trong sông nên ông rất hữu
hiệu trong trách vụ liên lạc chỉ huy…” Đúng vậy, Phó Đề đốc Minh đã hoàn thành
nhiệm vụ này một cách tối hảo. Tiếng nói của ông vang vang trên hệ thống truyền
tin suốt ngày đêm cũng như sự duy trì được kỷ luật và an ninh truyền tin trong
suốt cuộc hành trình là một kỳ tích ít người làm được. Và là một đóng góp quyết
định vào sự hoàn thành tốt đẹp của cuộc di tản. “Ngoài việc bảo đảm được sự
vận hành của hệ thống truyền tin, các đóng góp của Phó Đề đốc Minh vào sự giải
quyết các công việc khác cũng đáng được ca ngợi” (Hải sử Tuyển tập trang
527).
1.3 Đi hay ở lại?
Đối với hầu hết các thủy thủ đoàn, khi các chiến hạm thi hành lệnh
tập trung tại Côn Sơn thì việc đi hay ở lại chưa thành một vấn đề. Nhưng từ lúc
Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố buông súng thì tình hình trở nên sôi động.
Chuyến đi này trở thành chuyển đi sau cùng và một chiều của hạm đội. Sẽ không
có ngày trở lại. Trong suốt đêm 30 tháng 4, giải quyết vấn đề đi hay ở lại là
công việc chính của bộ tham mưu. Vấn đề này bao gồm hai mặt: mặt cá nhân và mặt
chiến hạm.
Về mặt cá nhân tương đối dễ giải quyết. Từ chập
tối 30 tháng 4, đã có những cá nhân tỏ ý không muốn rời Việt Nam và muốn trở
lại Sài Gòn. Đến trưa hôm sau thì số người muốn trở về Sài Gòn mỗi lúc một đông,
trở thành một vấn đề cần phải được giải quyết. Để trấn an mọi người, quyết định
cung cấp phương tiện cho những ai muốn về lại Sài Gòn được ban hành và thông
báo ngay đến toàn thể chiến hạm. Một hỏa vận hạm được chọn và đến từng tàu bốc
người muốn trở về. Ngoài chiếc hỏa vận hạm, một số tuần duyên đỉnh (PCF) cũng
xin về theo… Kể đến lúc Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, tất cả những ai không
muốn di tản đã được thỏa mãn nguyện vọng và được chuyển vận trở về Vũng Tàu.
Về mặt chiến hạm, vấn đề không còn là cá nhân mà
trở thành tập thể. Vì chiến hạm gồm thủy thủ đoàn sẽ không di tản, mà ở lại Việt
Nam. Giải quyết các trường hợp này thì dễ hay khó tùy thuộc vào mức độ phân vân
của đơn vị liên hệ. Đa số trường hợp được giải quyết thỏa đáng qua thảo luận
trên hệ thống truyền tin giữa đơn vị trưởng và Phó Đề đốc Minh hoặc đại tá Sơn.
Điển hình là trường hợp HQ Thiếu tá Vương Thế Tuấn, Hạm trưởng HQ 229
(DVD CHHCC).
Tôi chỉ biết một trường hợp khó khăn, được giải
quyết vào giờ phút cuối cùng, trước khi hạm đội lên đường. Sáng ngày 1 tháng 5,
trong khi chuẩn bị khởi hành, thì có một chiến hạm báo cáo không muốn di tản và
thủy thủ đoàn không muốn rời Việt Nam. Trên chiến hạm chỉ huy, Phó Đô đốc Cang
nhìn chúng tôi dò hỏi. Đại tá Sơn đề nghị cho tàu đó cặp vào HQ 3 và để ông đi
qua giải quyết. Rất lâu không thấy ông trở về. Đô đốc Cang sốt ruột và lo lắng
ra mặt. Tôi lên tiếng đề nghị cho tôi sang đó xem xét tình hình. Sau một lúc
ngần ngừ, Phó Đô đốc Cang bảo để ông cho cận vệ đi cùng tôi. Tôi suy nghĩ thật
nhanh, là có cận vệ với tình hình này chưa chắc đã an toàn hơn nên từ chối và
rời đài chỉ huy.
Bây giờ hồi tưởng lại lúc đó, tôi cũng thấy là
lạ. Bước qua hạm kiều, ngoài mấy thủy thủ đứng gác, chiến hạm thật vắng lặng,
có lẽ tất cả thủy thủ đoàn đang hội họp với đại tá Sơn. Càng lạ hơn là không
thấy dân chúng hiện diện. Có thể tàu này đang công tác ngoài biển và được lệnh
đến thẳng đây. Sau khi chào hỏi, một thủy thủ đưa tôi xuống phòng ăn đoàn viên.
Bước vào, không khí thật kỳ lạ. Đại tá Sơn ngồi bàn chủ tọa, thủy thủ đoàn ngồi
đối diện. Không ai nói năng gì. Một sự im lặng hoàn toàn. Trước tình hình đó,
tôi chỉ biết nhìn thủy thủ đoàn rồi quay sang đại tá Sơn nói: “Đã đến giờ khởi
hành, phải về tàu”. Nói xong tôi rời phòng hội, trở về HQ 3. Ít lâu sau đại tá
Sơn cũng về tàu chỉ huy. Hạm đội lên đường đúng giờ ấn định.
Đến nay thì tôi vẫn không biết chuyện gì xảy ra
trên chiến hạm đó. Qua đây, tôi có vài dịp gặp lại đại tá Sơn mà quên hỏi. Sự
việc này đã được tôi trình bày ngắn gọn trong tập Hải Sử đề cập trên.
1.4 Hành trình
Làm gì bây giờ? Kể từ lúc đại tướng Minh ra lệnh đơn phương
ngừng bắn thì công cuộc di tản đã trở thành rõ rệt. Đây là chuyến đi một chiều
của Hải quân VNCH, không có ngày quay trở lại. Nhưng làm gì tiếp thì chưa biết,
ngoại trừ một nguyên tắc đã được Phó Đô đốc Cang đề ra trong khi chuẩn bị: “Nếu
có làm gì thì cũng làm như một tập thể”.
Chiều ngày 30 tháng 4, ngay sau khi đến Côn Sơn,
một buổi hội đã được triệu tập trên HQ 3 gồm các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp
có mặt tại điểm tập trung. Buổi hội tương đối ngắn và không có gì phải thảo
luận và bàn cãi nhiều. Sau khi xem xét tình hình chính trị và tình trạng hạm
đội, mọi người đồng ý là phải liên lạc ngay với Hoa Kỳ. Đến đây gặp khó khăn là
không ai có tần số hay hay biết cách liên lạc với Hoa Kỳ. Trong khi mọi người
đang suy nghĩ thì đại tá Sơn lên tiếng than phiền mình bị cách chức Tư Lệnh Hạm
Đội một cách bất công. (Uẩn ức này kéo dài đến ngày nay và tôi sẽ trở lại vấn
đề này sau). Không đợi Phó Đô đốc Cang giải thích, đại tá Sơn cho biết luôn là
ông có tần số liên lạc với Hoa Kỳ. Trở ngại được giải quyết và buổi họp chấm
dứt. Các giới chức trở về chiến hạm có chở theo gia đình mình….
Đi đâu? Sáng sớm ngày 1 tháng 5, ông Armitage đại diện Bộ Quốc Phòng Hoa
Kỳ đến HQ 3. Ông ngỏ lời là Hoa Kỳ đồng ý tiếp nhận hạm đội Việt Nam và đề nghị
hạm đội di chuyển đến Căn cứ Hải quân Hoa Kỳ tại đảo Guam. Khi duyệt lại tình
trạng hạm đội, thấy rằng nếu đi Guam xa gần 2 ngàn 500 hải lý thì nhất định sẽ
gặp một số trở ngại quan trọng, đáng kể là tình trạng kỹ thuật của một số chiến
hạm không được khả quan và hạm đội phải đi theo vận tốc của chiến hạm có tình
trạng máy tệ nhất là là khoảng 5 gút (hải lý/giờ), thời gian hải hành quá lâu.
Thêm nữa các chiến hạm chở quá đông dân chúng di tản, ước lượng khoảng 30 ngàn
người, chắc chắn là sẽ gặp nhiều khó khăn về ăn uống. Do đó Bộ tham mưu đề nghị
đưa hạm đội đến Subic Bay xa chỉ khoảng trên 900 hải lý. Mặc dù ông Armitage
luôn luôn nhấn mạnh đến mong muốn của Hoa Kỳ là phải đi Guam, Phó Đô đốc Cang
vẫn nhất định đi Phi Luật Tân…
Ngày giờ khởi hành. Sau khi cân nhắc tình hình chung, Phó Đô
đốc Cang cho lệnh khởi hành di tản ngay sáng ngày 1 tháng 5. Có nhiều lý do đưa
đến quyết định này. Một là để mọi người có việc làm, chấm dứt bàn tán, từ đó
những hoang mang dao động sẽ tan dần, tinh thần trở nên ổn định. Hai là nếu ai
còn do dự chuyện đi hay ở, sẽ đương nhiên chấm dứt và trở lại sinh hoạt bình
thường. Ba là Côn Sơn trở nên không còn an toàn dưới áp lực tù cộng sản được
giải thoát, chính quyền mới có thể gây khó khăn cho hạm đội (Hải Sử trang
527-528). Quyết định khởi hành sớm này dù đã không thỏa mãn được yêu cầu của
một số cá nhân, như trường hợp đại tá Đỗ Kiểm còn thất lạc gia đình và dù phải
bỏ lại một vài đơn vị như Vùng 5 Duyên Hải, nhưng cho thấy là một quyết định
đúng, đem lại sự an toàn và thành công của chuyến di tản.
Hải hành. Nhờ thời tiết thật tốt, sóng yên biển lặng, nên chuyến di tản
thuận buồm xuôi gió. Hạm đội sắp thành đội hình hai hàng dọc, tốc độ trung bình
5 gút.
Trên phương diện tiếp vận, các tàu đã được cung
cấp đầy dầu nước và thực phẩm trước khi rời Sài Gòn. Tuy vậy, vì số dân di tản
quá đông nên vấn đề ăn uống cũng gặp một số trở ngại. Nhờ óc sáng tạo và tinh
thần kỷ luật cao của các thủy thủ đoàn, mỗi chiến hạm đã tự giải quyết các khó
khăn. Hải quân Hoa Kỳ trợ giúp phần thực phẩm và y tế trong trường hợp thật cần
thiết…
Nhìn chung, đối với tập thể thì các trắc trở không
có là bao. Sau vài ngày hải hành, không tuần Hoa Kỳ cho biết là hạm đôi không
còn giữ được đội hình hai hàng dọc, các chiến hạm cũng không giữ khoảng cách
đều nhau. Để chấn chỉnh, Phó Đô đốc Cang chia hạm đội thành 2 phân đội và Đề
đôc Lâm Ngươn Tánh đi trên HQ 1 được chỉ định chỉ huy phân đội 2. Từ đó đội hình
hải hành được duy trì tốt đẹp. Vài biến cố nhỏ xảy ra trên chính chiếc
soái hạm HQ 3. Một đám cháy trên sân thượng và cả hai máy chánh bất ngờ đều hư
hỏng khi đến gần lảnh hải Phi nên phải cần đến tàu kéo của Hoa Kỳ.
Đối với từng cá nhân thì chuyến đi vất vả đau buồn.
Có người gặp phải hoàn cảnh nan giải thương tâm. Cũng có người phải gánh chịu
những hoàn cảnh đau xót riêng tư cần sự trợ giúp của đồng đội. Một số các trường
hợp này- trường hợp Dương vận hạm HQ 502, Hải vận hạm HQ 402, Giang pháo hạm HQ
329 – đã được nhắc đến trong tập Hải Sử…
1.5 Đến bến.
Chuẩn bị vào bến. Khi sắp gần đến Phi Luật Tân thì nhận được tin
là chính phủ này không chấp thuận cho hạm đội VNCH vào vịnh Subic. Bộ tham mưu
họp bàn tìm giải pháp. Quả là một trường hợp ngoại giao phức tạp, không dễ dàng
giải quyết. Giải pháp đưa hạm đội đi Guam được đề cập, cân nhắc. Hoa Kỳ lãnh
trách nhiệm đưa 30 ngàn đồng bào đến Guam bằng các tàu dân sự để hạm đội dễ
điều động cho một hải trình tiếp tục dài này. Trong lúc còn đang thu xếp thì
Phó Đô đốc Cang đưa ý kiến là với tình hình hiện tại, Hạm đội của Hải quân VNCH
nên được trao trả cho Hải quân Hoa Kỳ vì trên danh nghĩa đó, các chiến hạm Hoa
Kỳ sẽ vào căn cứ Hải quân Subic của mình.
Ý kiến này được chuyển đến giới chức Hoa Kỳ. Một
vài giờ sau, hạm đội được thông báo là giải pháp được chấp thuận với điều kiện:
- Tất cả đạn dược phải được ném xuống biển.
- Cờ VNCH phải được thay bằng cờ Hoa Kỳ. Để thi
hành điều kiện này, mỗi chiến hạm sẽ tiếp nhận một toán sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ
và thực hiện lễ hạ quốc kỳ VNCH và trương quốc kỳ Hoa Kỳ. Lễ hạ cờ VNCH được cử
hành cùng một lúc trên tất cả chiến hạm vào đúng 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm
1975. Buổi lễ hạ cờ lịch sử trong không khí trang nghiêm và đầy xúc động, đã
được kể lại trong nhiều bài viết trong mấy chục năm qua…
- Xóa bỏ danh hiệu và danh số Việt Nam. Để thực
hiện công việc này, trong lúc thủy thủ đoàn Việt Nam vận chuyển con tàu theo
khẩu lệnh của sĩ quan hải hành Hoa Kỳ, các tiểu đỉnh Hoa Kỳ chạy cặp sát sườn
chiến hạm để sơn lấp bỏ các danh số và danh hiệu VN dọc hai bên hông.
Đến bến. Chiều ngày 7 tháng 5, hạm đội VNCH vào thả neo trong vịnh Subic.
Chuyến di tản an toàn, bình yên và đầy đủ. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Sau khi
tàu bỏ neo thì việc điều hành lên bờ thuộc phía Hoa Kỳ. Vị sĩ quan liên lạc yêu
cầu các sĩ quan cấp tướng rời tàu trước vì lý do an ninh. Theo kinh nghiệm,
trong trường hợp triệt thoái như thế này có thể có những binh sĩ uất ức, gây gổ
với giới lãnh đạo, làm mất trật tự. Dĩ nhiên ta phải nghe theo nhưng để thủy
thủ đoàn đỡ xôn xao thắc mắc, hai Phó Đề đốc Nghiêm Văn Phú và Hoàng Cơ Minh tự
nguyện ở lại.
Đồng bào được các viên chức Hoa Kỳ thu xếp và hướng
dẫn sang các thương thuyền để chuyển sang đảo Guam. Họ làm việc có tổ chức cao,
lớp lang, khoa học và thực tế. Vì vậy công tác di chuyển rất tốt đẹp. Hai vị
Phó Đề đốc cùng với đồng bào sang tận Guam và chỉ trở lại cùng gia đình khi mọi
người được tiếp nhận.
Phần 2 – Các nhân vật điều động cuộc di tản
Trong bất cứ hoạch định nào, luôn có hai nhân vật
trọng yếu quyết định sự thành bại của công cuộc. Đó là người lãnh đạo và người
chấp hành. Nếu người lãnh đạo suy tính sáng suốt và đưa ra các quyết định hợp
lý thì triển vọng thành công đã được một nửa. Phần còn lại tùy năng lực của
người chấp hành. Nhưng thường, người chấp hành có xuất sắc lắm thì mức thành
công cũng chỉ đạt được 80% của triển vọng.
Trong chuyến di tản của hạm đội VNCH, Hải quân
may mắn có được hai nhân vật xuất sắc nắm giữ hai vai trò này. Đó là Phó
Đô đốc Cang trong cương vị chỉ huy và Phó Đề đốc Minh trong cương vị điều hành.
Và Phó Đề đốc Minh điều hành tận tụy đến nỗi mọi người đều nghĩ ông chính là
người chỉ huy toàn bộ cuộc di tản. Sẽ là một bất công đối với Phó Đô đốc Cang
nếu sự ngộ nhận tiếp tục kéo dài. Người viết xin nêu lên sự phân công rõ rệt…
2.1 Phó Đô đốc Chung Tấn Cang:
Phó Đô đốc Cang mới trở lại chức vụ Tư lệnh Hải
quân một thời gian ngắn trước ngày 30 tháng 4. Ngoài công tác yểm trợ cho việc triệt
thoái miền Trung, phần nhiệm cuối cùng của vị này là lo duy trì hải lực trong
thời kỳ suy yếu của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Quan trọng hơn cả là sự trù liệu
cho hạm đội di tản khỏi Sài Gòn khi thành phố bị cộng quân đe dọa.
Trong việc này, có hai quan niệm khác nhau đưa
đến việc cách chức Tư lệnh Hạm Đội của Hải quân Đại tá Nguyễn Xuân Sơn.
Theo nhãn quan của một số sĩ quan trong đó có thể
lấy đại tá Sơn và đại tá Kiểm làm thí dụ điển hình. Theo sự trình bày công khai
quan điểm của hai ông trong cuốn DVD “CHHCC”, thì:
1. Tình hình quân sự tại miền Nam là vô vọng, sự
sụp đổ của VNCH là tất yếu.
2. Hoa Kỳ đã sẵn sàng giúp Hải quân triệt thoái
khỏi Việt Nam. (Ông Armitage đề nghị với đại tá Kiểm và Đề đốc Holloway gián
tiếp đề nghị với đại tá Sơn).
3. Như vậy phải chuẩn bị Hạm đội để di tản và mang
theo tối đa dân chúng. Chính từ quan điểm này đã dẫn đến việc đại tá Sơn ra
công điện chính thức cho gia đình thủy thủ đoàn đi theo tàu khi đi công tác để
tránh trở ngại trường hợp có lệnh di tản. Quan niệm này được các sĩ quan cấp
dưới tán thành vì hữu lý và cảm thông.
Tuy nhiên trên cương vị cấp lãnh đạo, Phó Đô đốc
Chung Tấn Cang nhìn vấn đề không hoàn toàn thuần quân sự mà qua nhiều yếu tố
trong đó quan trọng nhất là yếu tố chính trị quốc tế và một giải pháp chính trị
dung hòa có thể được hình thành. Tình thế này đã được trình bày trong Hải sử
Tuyển tập, trang 525: “…Trong buổi họp này, các công việc chuẩn bị đã được
thảo luận và quyết định. Tôi không nghĩ là đã có một kế hoạch viết về dự trù di
tản này. Vấn đề di tản dân chúng cũng không thấy được đặt ra. Chỉ nêu việc di
tản hạm đội. Bao giờ di tản thì tùy tình hình quân sự quyết định. Còn làm gì
tiếp sau thì tùy nhiều yếu tố chính trị phức tạp. Một số tình huống có thể xảy
ra: Rút về Vùng 4 Chiến thuật và tiếp tục chiến đấu. Hoặc chia cắt đất hoặc lập
chính phủ liên hiệp, chính quyền tan rã. Lúc bấy giờ không ai nghĩ đến việc đại
tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng!”
Theo Đề đốc Trần Văn Chơn thì ông không di tản
vì “còn nước còn tát”. Các tướng lãnh đều tán thành quan niệm này. Nhưng sáng
29 tháng 4, Phó Đô đốc Cang được Đại tướng Minh cho biết là: “Nước đã cạn rồi,
đi đi…” Cho tới lúc này, quan niệm của Bộ Tư Lệnh Hải quân vẫn là di tản khỏi
Sài Gòn để bảo toàn lực lượng chớ không phải để tỵ nạn ngoại quốc. Vì vậy mọi
hành động bất thường đưa đến suy diễn có ý định đào thoát đều không được chấp
nhận. Những hành động bất thường này có thể dẫn đến tình trạng hoảng loạn trong
các đơn vị. Ngay cả các sĩ quan cao cấp trong Bộ tư lệnh cũng rất thận trọng
khi di chuyển gia đình xuống tàu vào giờ chót.
Trong tình huống chưa ngã ngũ, việc đại tá Sơn
chính thức gửi công điện cho phép thủy thủ đoàn đưa gia đình xuống tàu là một
hành động tự tiện, vô nguyên tắc. Việc cho phép thân nhân xuống tàu sẽ kéo theo
việc cho phép thân nhân vào các căn cứ trên bờ, và như thế sẽ tạo cơ hội cho
Việt cộng trà trộn, xâm nhập toàn bộ các đơn vị Hải Quân. Vì vậy sự việc ông bị
cách chức Tư lệnh Ham Đội là điều dễ hiểu. Quyết định dứt khoát, cứng rắn của
Phó Đô đốc Cang có thể đã giúp ngăn ngừa được các hành động dẫn đến rối loạn,
thiếu an toàn trong vòng đai Hải quân.
Quan trọng nhất là việc cách chức cũng là để phòng
ngừa trường hợp Tư lệnh Hạm Đội bất tuân lệnh Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tự mình dẫn
Hạm đội rời Sài Gòn khi tình hình chính trị chưa ngã ngũ.
Tôi mong Đại tá Sơn đọc được những dòng này mà
thông cảm với Phó Đô đốc Cang và bớt nỗi bực dọc ở trong lòng. Cũng chính nhờ
bộ óc nhạy bén của Phó Đô đốc Cang đưa ra các quyết định đứng lúc kịp thời mà
chuyến di tản được an toàn đến bến bờ tự do…
2.2 Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh
Tôi đã có dịp ghi trong Hải Sử Tuyển Tập: “Phó
Đề đốc Hoàng Cơ Minh là một tướng lãnh giỏi, lanh lẹ, tháo vát, lại có sức bền
bĩ không mệt mõi nên ông đã đóng góp nhiều trong chuyện di tản. Nhờ ông mà hệ
thống truyền tin không bị phá rối, các chỉ thị chuyển đi được kịp thời, các tin
tức thu nhận được đầy đủ giúp việc đánh giá đúng mức. Tiếng nói của ông đủ thẩm
quyền để đem lại sự tin tưởng và an tâm cho mọi người. Ngoài ra, bất kể lúc
nào, khi có đơn vị nào cần ông có mặt tại chỗ là ông lấy tiểu đỉnh đến tận nơi
tìm hiểu giải quyết.
Tóm lược, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh đã hoàn thành
mỹ mãn nhiệm vụ được giao phó trong chuyến di tản là duy trì an ninh truyền
tin, trật tự đội hình và giải quyết khó khăn trở ngại cho hạm đội và cá nhân.
Lấy trường hợp HQ Thiếu tá Vương Thế Tuấn, Hạm
trưởng HQ 229; HQ Thiếu tá Nguyễn Văn Phước, Hạm trưởng HQ 231 (như trong DVD)
làm thí dụ. Cả hai Hạm trưởng đều ở trạng thái hoang mang bất định và muốn trở
về Sài Gòn.
Chính Phó Đề đốc Minh đã can gián, khuyên giải
nên họ đồng ý di tản. Đây chỉ là hai trường hợp điển hình. Còn vô số rắc rối từ
cá nhân thủy thủ đoàn… Nhờ kiến thức sâu rộng, nhờ tài năng ăn nói của mình,
Phó Đề đốc Minh đã duy trì được kỷ luật và trật tự giúp cuộc hành trình êm
xuôi… Cũng nhờ khả năng thu thập và phân tích tình hình, ông đã giúp Phó Đô đốc
Cang đưa ra các quyết định nhanh chóng, hữu hiệu…
Sau nữa, nhưng không phải là sau cùng là vấn đề
oai quyền của người ra lệnh. Bình thường người quân nhân được huấn luyện để tuân
hành mệnh lệnh. Tuy nhiên mức độ tuân hành cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh. Trong
trường hợp nguy biến cấp bách, cấp bậc của người ra lệnh càng cao thì mệnh lệnh
càng có uy lực và dễ được tuân phục. Ta gọi đó là “lấy lon đè người”. Đấy là lý
do tại sao Phó Đề đốc Minh được chỉ định phụ trách hệ thống liên lạc mà không
phải là đại tá Sơn.
Mặt khác, ngoài uy quyền của một tướng lãnh, cá
tính của Phó Đề đốc Minh cũng rất đặc biệt và dễ ảnh hưởng mạnh mẽ đến người
đối thoại. Trong mọi hoàn cảnh, ông rất bình tĩnh, tự tin, lưu loát và thuyết
phục mà không có tính cách ép buộc hay áp chế. Hơn nữa, Phó Đề đốc Minh rất dai
sức, bền bĩ. Ông có thể làm việc ngày đêm không nghỉ mà vẫn minh mẫn, không tỏ
vẻ mệt nhọc. Trong suốt cuộc hành trình, Phó Đề đốc Minh luôn luôn hiện diện
tại nhiệm sở. Đêm như ngày, tiếng nói của ông vang vang trên hệ thống chỉ huy
đã mang lại cảm giác bình an cho mọi người. Với một cá tính như vậy, dù không
là một tướng lãnh, Phó Đề đốc Minh vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một
cách hoàn hảo. Nhưng có lẽ cũng chính nhờ vậy mà ông được thăng lên hàng tướng
lãnh một cách nhanh chóng, trước các bạn đồng khóa….
2.3 Đại tá Nguyễn Xuân Sơn
Trong DVD “Chuyến Hải Hành Cuối Cùng”, Đại tá Nguyễn
Xuân Sơn tỏ ra không nhớ lại những gì ông đã làm trong chuyến di tản. Hoặc giả
ông đã chóng quên, hoặc giả ông coi những gì ông làm trong khi di tản chỉ là
công việc bình thường của người quân nhân nên không đáng ghi nhớ.
Điều động một hạm đội triệt thoái không phải giản
dị mà rất phức tạp. Nếu không nắm vững tình hình hạm đội về khả năng từng chiến
hạm, tình trạng kỹ thuật, mức độ khiển dụng sẵn sàng, tình trạng nhân viên,
tính tình cấp chỉ huy… thì rất dễ đưa ra các quyết định khiếm khuyết gây khó
khăn cho sự điều hành và ảnh hưởng đến sự hoàn tất của công việc.
Vì nguyên là Tư lệnh Hạm Đội, đại tá Sơn là người
độc nhất trong Bộ tham mưu hiểu thấu đáo tình hình Hạm đội và đã thực sự có
những đóng góp đáng ghi nhận vào cuộc di tản.
Như ở phần tiểu đoạn Làm gì bây giờ, tôi
đã kể đại tá Sơn là người duy nhất biết cách và đã liên lạc ngay với Hoa Kỳ.
Nếu không nhờ ông, do tình hình biến chuyển mau lẹ, kết quả việc di tản không
biết ra sao. Nên ghi nhận là vào ngày 29 tháng 4 đã có chiến hạm tự động cho
tan hàng mà không về điểm tập trung. Hai chiến hạm đã bỏ ý định này để gia nhập
hạm đội di tản.
Trong sự hoạch định công việc, các ý kiến của đại
tá Sơn đều được lưu ý và tôn trọng như khi:
- Cứu xét tình trạng hạm đội để đưa đến quyết định
đi Subic Bay thay vì đi Guam.
- Chọn lựa các chiến hạm đi trợ giúp các chiến
hạm gặp khó khăn hay đi cứu vớt đồng bào tỵ nạn.
- Ấn định đội hình, vận tốc và lộ trình hải hành
di tản.
- Sau hết, không nhớ rõ là trong những trường hợp
nào, quá một lần người viết vẫn hình dung thấy bóng đại tá Sơn đi tới với câu
nói” xong rồi” như khi vừa hoàn tất một công việc.
Kết
Gần 40 năm đã trôi qua kể từ ngày 30/4/1975, bây
giờ hồi tưởng lại chuyện cũ, chỉ là những hình bóng lờ mờ trong tâm trí; kể lại
những gì đã qua như trong một giấc mơ, đúng sai không chắc. Nếu có gì sai sót
không đúng, xin độc giả cứ tự nhiên lên tiếng, không cần tham khảo với người
viết.
Xin đa tạ.
Đinh Mạnh Hùng
Vu That
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết