GIỚI THIỆU SÁCH “SMALL IS BEAUTIFUL” BÀI 2
Tác giả : E F Schumacher
( xuất bản lần đầu : Năm 1973)
Như đã có dịp trình bày nơi bài 1 trước đây, cuốn
sách “Small is Beautiful” đã được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách
có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai ( the most influential books). Và
sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, thì đã lưu hành được tới trên một triệu
cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn
ngữ khác trên thế giới.
Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đã từng làm việc
lâu năm trong ngành quản lý về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lãnh vực
thống kê, nên ông đã đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa
cho lý luận của mình. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đã lần lượt
trình bày suy nghĩ và tìm kiếm của mình trong suốt 40 năm vừa học tập, làm
việc, trao đổi và nghiên cứu của mình về những vấn đề căn bản của nhân sinh
trên phạm vi tòan cầu.
Người đọc có thể thấy tác giả đã gửi gấm vào tác phẩm
tất cả tài năng trí tuệ và tấm lòng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của
con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm vì
coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh
tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại.
Có thể coi cuốn
sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân
lọai ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc tìm kiếm một lối
thóat khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn
(underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào lọai “ đang phát triển”
( developing countries)
Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is
Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rõ ý nghĩa nữa : “ Economics
as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quý”. Và riêng
trong ấn bản năm 1999, thì lại còn kèm theo nhiều bình luận của các thức giả
đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa
vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.
Sách được trình bày thành 4 phần trong 19 chương
như sau :
Phần 1 : Thế giới hịên đại (Chương
1-5)
Phần 2 : Tài
nguyên
(Chương 6-10)
Phần 3 : Thế giới thứ ba
(Chương 11-14)
Phần 4 : Tổ chức và Sở hữu (Chương 15-19).
Nói chung thì sau trên 30 năm, các luận đề do
Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn còn giữ được tính cách thực tiễn khách
quan và được coi như những gợi ý rất sâu sắc cho sự thảo luận và tìm kiếm của
giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con
người trong bối cảnh văn hóa xã hội của thế kỷ XXI hiện nay.
Nhằm trình bày
sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy
luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây :
1/ Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ
ba : Làm sao mà phát triển?
Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng
trong thế giới thứ ba mà gồm các quốc gia đang phát triển, với bình quân mỗi
làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, thì có đến 2000 triệu
người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào
thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này.
Tình trạng sinh sống của người
dân tại các vùng quê như ở Ấn độ đã được Schumacher rất lưu tâm quan sát, tìm
hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lý, hợp tình nhất để gây
ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ
tầng cơ sở các địa phương đó.
Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có
đã đề ra các chương trình viện trợ khi thì đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc,
khi thì song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thóat được cảnh bần hàn khốn
khổ.
Nhưng Schumacher đã chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem
lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đã không nắm bắt
được tâm lý và hòan cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa
bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại
không thích hợp với hòan cảnh văn hóa xã hội và tâm linh truyền thống tại miền
nông thôn địa phương. Vì thế mà Schumacher đã mạnh dạn đưa ra những đường hướng
quyết liệt là : “ Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid),
viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng
vật chất. “
Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và
không còn bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp mãi của thứ “con bò sữa” như vẫn
thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm
mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có lòng
tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân mình. Đây mới đích thực là cách thức
hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản
thân họ” ( Helping the people to help themselves).
Muốn đảy mạnh phong trào như vậy, thì phải lôi
cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary
agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lãnh
(donor/recipient countries); chứ không thể hòan tòan do hai bên chánh phủ độc
quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo
ngôn ngữ hiện nay, thì là : “Phải vận động Xã hội Dân sự từ cả hai nước cùng
dấn thân nhập cuộc vào tiến trình phát triển và xây dựng tòan diện và điều hòa
này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như
được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của mình (Mass fermentation
and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics)
nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương
(self-sustaining community development).
Xin trích nguyên văn một đọan cuối của “ Chương
13 : Two million villages ” như sau : “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành
công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng rãi dấn thân vào
công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung
chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của
tất cả mọi người trong công đồng…Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá
trình phát triển bao gồm cả trình độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật
của tòan thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, thì
chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi “ ( trang 171).
2/ Đi tìm lọai kỹ thuật thích hợp
nhất ( Appropriate Technology AT)
Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương
cần phải phát triển lọai “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với hòan cảnh kinh
tế xã hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này
với nhan đề như sau : “ Social and Economic Problems
Calling For The Development Of Intermediate Technology ” (Những Vấn Đề Xã Hội
và Kinh Tế Đòi Hỏi Phải Phát Triển Lọai Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn
hai lý do chính yếu sau đây : Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến thì
lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng rãi khắp nơi
được. Thứ hai là trình độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ
dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển
đề xuất ra. Do đó mà cần phải tìm kiếm cho ra được lọai “kỹ thuật thích hợp” mà
thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là
thứ kỹ thuật đứng giữa lọai kỹ thuật lạc hậu cổ truyền (mà rất rẻ tiền)
với kỹ thuật hiện đại ( mà rất là đắt tiền ).
Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương
này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để
nghiên cứu và thử nghiệm lọai kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là
“The Intermediate Technology Development Group” ( ITDG). Cụ thể như : Nếu dùng
kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), thì phải tốn phí hết
70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy thì các nước nghèo
khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử
dụng lọai kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động,
thì với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và
rõ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ
ba vậy. Cho đến nay ITDG đã phát triển và phổ biến khá rộng rãi tại nhiều nước
trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.
Cũng vì nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm
ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn
nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong
quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không
thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó
Schumacher đã khẳng định rằng “ Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho
những người cần được giúp đỡ nhất, thì “ Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một
quốc gia phải có riêng một chương trình phát triển cơ hữu của mình.” Cụ thể như
tại nướcThụy sĩ chỉ có chưa đày 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận
hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với
điều kiện đặc thù của mình (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân
quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát
triển điều hòa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội
tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi mình sinh sống
(Participatory Democracy).
3/ Vấn đề Cạn kiệt Tài nguyên Thiên nhiên (
Depletion of Natural Resources)
Là người làm việc lâu năm trong ngành than đá,
nên Schumacher rất chú trọng đến tình trạng sự dụng bừa bãi phí phạm về tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong các nước văn minh tiền tiến Âu Mỹ. Cụ thể là
về dầu khí, than đá và nhất là rừng cây. Bằng những con số thống kê chính xác, tác
giả đã nêu lên các sự thao túng, lạm dụng và ích kỷ của các nước giàu có trong
việc xài hoang phí các tài nguyên thiên nhiên. Schumacher phân biệt rất rõ rệt
hai lọai tài nguyên : lọai tái tạo được và lọai không tái tạo được
(renewable/non-renewable resources). Ông còn chỉ rõ ra là : Thiên nhiên
luôn luôn hào phóng trong việc cung cấp cho con người những tài nguyên dồi dào
phong phú, để mà khai thác đáp ứng nhu cầu sinh họat của nhân lọai. Nhưng thật
đáng buồn là con người trong mấy thế kỷ gần đây đã dùng khoa học kỹ thuật
để mà khai phá quá mức đến độ tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, tạo ra
cảnh cạn kiệt mau chóng các tài nguyên thiên nhiên (rapid
depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất quân bình giữa con người với thiên
nhiên, cũng như giữa hiện tại với tương lai, và cả giữa con người với con người
nữa. Ông còn nói rõ là : Phải coi thiên nhiên như một “ nguồn vốn” (Capital) và
nhờ biết khai thác khôn khéo, chừng mực đối với thiên nhiên mà con người kiếm
ra được các “ lợi tức” (Income). Và như vậy, thì chỉ được quyền sử dụng lợi tức
trong việc thanh thỏa các nhu cầu chính đáng của mình; chứ không được tiêu xài
vào cái nguồn vốn chỉ có giới hạn nhất định nào đó mà thôi. Schumacher đã rất
nghiêm khắc phê phán cái sự kiêu căng, tham lam quá độ và nhất là cái thái độ
bạo hành của con người đối với thiên nhiên, cũng như giữa con người đối với
nhau nữa.
Ông đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại “ (Non-violence, Ahimsa)
của thánh Gandhi cũng như của Đức Phật, mà ông có dịp khảo sát tại Ấn Độ và
Miến Điện. Những suy ngẫm này ông đã ghi rõ ràng trong Chương 4 nhan đề là
: “Buddhist Economics” ( Kinh tế học Phật giáo) mà chúng tôi sẽ dịch nguyên văn
ra Việt ngữ được trình bày với đày đủ chi tiết trong một bài sau.
Cũng trong dòng chảy suy nghĩ đó mà Schumacher
đã dành hẳn một Chương 9 với nhan đề : “ Nuclear Energy – Salvation or
Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhân – Sự Cứu Rỗi hay là Án Phạt?) để bàn về cái
lợi hay cái hại của năng lượng hạt nhân. Tác giả kiên quyết chống lại việc sử
dụng lọai máy phát điện nguyên tử vì lý do chất thải của lọai máy này chứa
nhiều chất phóng xạ rất nguy hiểm lâu dài cho nhiều thế hệ sau này. Và may
thay, do các biến cố “rò rỉ tại nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island” ở Mỹ
và nhất là tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô, mà việc xây dựng bừa bãi các
nhà máy hạt nhân này mới bị kìm hãm lại. Rõ rệt là Schumacher là một vị tiền
phong đóng góp rất lớn cho phong trào bảo vệ môi sinh trên khắp thế giới từ mấy
chục năm gần đây.
4/ Phải Định Hướng lại cho Khoa Học
và Kỹ Thuật ( The Re - Orientation of Science and Technology).
Hơn ai hết, Schumacher là người luôn luôn cảnh
giác về tính kiêu căng ngạo mạn và ngoan cố của giới khoa học ngày nay, nhất là
trong ngành kinh tế học là lãnh vực họat động chuyên môn suốt cả cuộc đời của
ông. Bàng bạc trong cuốn sách này, ta thấy tác giả luôn đề cao sự khiêm tốn,
tinh thần nhân ái và nhân bản trong việc đề ra đường lối họat động cụ thể mà
thiết thực, nhằm vào việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta có thể
thấy lời cảnh giác này đã có từ mấy trăm năm trước qua nhà hiền triết Rabelais
ở Pháp mà dịch ra tiếng Anh là : “ Science without conscience is only the ruin
of the soul” (Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự suy đồi của tâm
hồn).
Tác giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, hòa
ái của thánh Gandhi và nhất là của Phật Tổ, mà ông rất say mê nghiên cứu học
hỏi trong thời gian làm việc ở Ấn Độ và Miến Điện. Nếu ta chú ý đến môi trường
tôn giáo mà ông vẫn sinh họat tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất là khi về
già ông đã gia nhập đạo công giáo nữa, thì ta lại càng khâm phục cái thái độ
thành tâm cầu thị, khiêm nhu và quý trọng của ông đối với Phật giáo và Thánh
Gandhi ở Á châu. Ông đặc biệt đem thêm khía cạnh phẩm chất (qualitative
aspects) và đạo đức (ethics) vào trong môn Kinh tế học là môn học mà các chuyên
viên kinh tế thường chỉ chú trọng đến khía cạnh định lượng mà thôi
(quantification). Tác giả luôn nhắc nhủ các nhà khoa học là phải tìm kiếm sự
minh triết (wisdom) vốn đã ăn rễ sâu trong truyền thống đạo đức văn hóa trong
các xã hội phương đông, mà thường bị người phương tây vì quá say mê và kiêu
hãnh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vất chất nên đã xem thường. Vì thế ông mới
gọi đó là môn “Siêu kinh tế học” (Meta-Economics).
Nói vắn tắt lại, các luận đề Schumacher đưa ra
trong cuốn sách “Small is Beautiful” này hiện vẫn còn được thảo luận, khai thác
rộng rãi trên tòan thế giới. Lọat bài viết ngắn ngủi này chỉ nhằm giới thiệu sơ
lược về tư tưởng độc đáo, can đảm, mà lại rất táo bạo dứt khóat của Fritz
Schumacher. Cuốn sách này là đúc kết kinh nghiệm họat động và suy nghĩ tìm kiếm
trong suốt cuộc đời của tác giả, với tấm lòng tha thiết phục vụ cho nhân quần
xã hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chúng kém may mắn nhất trên thế giới
ngày nay. Bạn đọc có thể tham khảo thêm trên internet, để có số liệu cập nhật
hóa rất đày đủ và phong phú về các đề tài mà Schumacher đã gợi ra trong cuốn
sách thời danh này.
Người viết mong ước giới trẻ Việt nam, ở trong
cũng như ở ngòai đất nước, để tâm theo dõi sự phát triển của lọai tư tưởng đày
tính nhân bản và nhân ái tương tự như thế này, mà hiện đang có sức rất thuyết
phục, quyến rũ cho cao trào tranh đấu bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền và cả bảo vệ
môi sinh đang dâng cao khắp thế giới ngày nay trong thế kỷ XXI. Và cũng mong
được sự tiếp tay trong việc đào sâu và phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ này
từ nơi các bậc thức giả trong những tổ chức chuyên về văn hóa khoa học, cụ thể
như : Viện Việt Học, Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyên
Gia Việt nam, Các Viện Nghiên Cứu thuộc các Tôn Giáo Việt nam v.v…
California, Mùa Phật Đản Kỷ Sửu 2009
Đòan Thanh Liêm
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết