On Tuesday, September
30, 2014 12:35 AM, Ben Tran <> wrote:
Diễn Ðàn Yểm Trợ Khối 8406 & Phong Trào Dân Chủ
Việt Nam
Tranh Ðấu Cho Nền Dân Chủ Pháp Trị,Tôn Trọng Nhân
Quyền & Sự Toàn Vẹn Lãnh Thổ
Audio-Youtube
Chủ Nhật Sept 28, 2014
Chủ Đề
Từ Giải Pháp Bảo Đại (1949) Đến Hiệp Định
Geneve (1954)
Giải Pháp Bảo Đại & Sự Ra Đời Của Quốc Gia Việt
Nam
Hiệp Định Geneve 20-7-1954
Trận Điện Biên Phủ
Diễn Giả: GS Nguyễn Lý Tưởng - Cựu Dân Biểu
VNCH
Trân trọng,
Lac Viet
Thông Tin Cập Nhật, Mời Quý Vị tham khảo
Từ Giải Pháp Bảo Đại (1949)
Đến Hiệp Định Geneve (20/7/1954)
GS Nguyễn Lý-Tưởng
Câu hỏi (1) Xin cho biết “Quốc Gia Việt Nam” do Quốc Trưởng Bảo
Đại lãnh đạo đã ra đời trong hoàn cảnh nào?
GS Nguyễn Lý-Tưởng:
- Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương. Tất cả
chính quyền hành chánh, quân sự Pháp đều đã đầu hàng Nhật, chấm dứt thời
kỳ đô hộ Pháp tại Việt Nam.
- Ngày 11/3/1945 vua Bảo Đạo tuyên bố nước Việt Nam độc lập
và tham gia khối “thịnh vượng chung Đại Đông Á” của Nhật.
- Ngày 17/4/1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim trình diện Chính
phủ. Nhật trả Nam Kỳ cho Bảo Đại, nước Việt Nam độc lập thống nhất từ Nam chí
Bắc do Bảo Đại lãnh đạo.
- Ngày 6/8/1945 Mỹ thả bom nguyên tử xuống đảo Hiroshima và
9/8/1945, đảo Nagazaki của Nhật.
Ngày 11/8/1945, Nga đem quân chiếm Mãn Châu, xé bỏ hiệp ước bất
tương xâm đã ký với Nhật. Hồ Chí Minh là cán bộ CS quốc tế của Nga nên biết tin
Nhật sắp đầu hàng và được lệnh tổ chức cướp chính quyền.
- Ngày 15/8/1945, vua Nhật tuyên bố đầu hàng Mỹ (đồng minh)
- Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội
- Ngày 22/8/1945, Việt Minh chính thức yêu cầu vua Bảo Đại
thoái vị. Bảo Đại từ chối đề nghị của Nhật “sử dụng quân Nhật để bảo vệ hoàng
gia, duy trì an ninh trật tự tại Huế… .”
- Ngày 23/8/1945, vua Bảo Đại trả lời Việt Minh : “đồng ý
thoái vị”.
- Ngày 25/8/1945, vua Bảo Đại chính thức đọc chiếu thoái vị
và trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Việt Minh.
Bảo Đại là chính quyền hợp pháp, Việt Nam đã độc lập thống nhất.
Hồ Chí Minh cướp chính quyền từ tay Bảo Đại là hành động bất hợp pháp.
- Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh chính thức đọc Tuyên Ngôn Độc
Lập tại Hà Nội. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Hồ Chí Minh mời Bảo Đại
làm Cố Vấn và Bảo Đại ra Hà Nội (dưới sự kiểm soát của Việt Minh, một hình thức
bị giam lỏng, mất tự do).
- Ngày 9/9/1945, quân Tàu (phe Tưởng Giới Thạch) vào Việt
Nam giải giới quân Nhật.
- Ngày 23/9/1945, Tướng Douglas, chỉ huy quân Anh vào giải
giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vô Nam đã đồng ý cho quân Pháp đến Saigon
thay thế quân Anh. Trần Văn Giàu lãnh tụ Việt Minh tại Saigon, tổ chức bắt cóc,
ám sát, khủng bố người Pháp tại Saigon. Tổ chức “Nam Bộ kháng chiến ra đời”.
Thanh niên Việt Nam tình nguyện vào Nam tham gia kháng chiến Nam Bộ. Các tôn
giáo như Cao Đài, Hòa Hảo và các đảng phái như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại
Việt… . . .tổ chức võ trang chống Pháp và tự vệ (trước sự khủng bố của Việt
Minh).
- Từ Saigon, Pháp hành quân chiếm các tỉnh chung quanh
Saigon và thiếp lập chính quyền thân Pháp.
- Các nhà cách mạng Việt Nam như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng
Khanh theo quân Tàu về nước. Hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn cũng đã nhận
được chỉ thị của Tưởng Giới Thạch “giúp các nhà cách mạng Việt Nam lên nắm
chính quyền.” Nhưng Việt Minh đã cướp chính quyền tại Hà Nội trước đó 3
tuần rồi. Trước áp lực của phe quốc gia, Hồ Chí Minh đã nhượng bộ, nhường 72
ghế trong Quốc Hội cho phe Quốc Gia và lập Chính Phủ Liên Hiệp, mời
Nguyễn Hải Thần (Việt Cách: Phó Chủ Tịch Nước), Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc: Quân
Ủy Hội), Nguyễn Tường Tam (Việt Quốc: Bộ Ngoại giao), Chu Bá Phượng (Việt Cách:
bộ Kinh tế), Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái: Bộ Nội Vụ)… . .
.
Từ hội nghị Dalat đến Fontainebleau, các cuộc thương lượng giữa
Việt Minh với Pháp thất bại, Việt Minh phải ký với Pháp Hiệp Ước Sơ Bộ ngày
6/3/1946, chấp nhận cho 15.000 quân Pháp đến Miền Bắc Việt Nam như Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng… . . .thay thế quân Tàu. Đại diện Pháp là Sainteny và D’Argenlieu,
phía Việt Nam là Hồ Chí Minh (Chủ Tịch Nước) và Vũ Hồng Khanh (đại diện Hội
Đồng Bộ Trưởng).
Phái đoàn Việt Minh (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) về nước trước.
Hồ Chí Minh ở lại Pháp như là một hình thức “con tin” để cho Pháp không nghi
ngờ gì. Nửa đêm 14/9/1946, Hồ Chí Minh gọi tel. cho Moutet, Bộ Trưởng Thuộc Địa
Pháp để ký một Thỏa Ước Tạm Thời (Modus Vivendi) công nhận sự hiện diện của Pháp
tại Việt Nam. Tại Huế, Việt Minh đã cho Pháp đóng quân tại trường Quốc Học, học
sinh phải đi nới khác. Quân Pháp vẫn ở đó từ 1946 đến sau 1954 (Năm 1952, tôi
từ Quảng Trị vào Huế học, vẫn thấy Pháp đóng quân trong khuôn viên trường Quốc Học.
Ông bạn tôi hiện còn sống ở Đức quốc kể lại năm đó ông đang học tại trường Quốc
Học thì tướng Nguyễn Bình của Việt Minh từ Saigon ra Hà Nội, ghé Huế vào thăm
học trò. Nguyễn Bình nói với học trò “Quân Pháp ở đây chỉ là tạm thời thôi.
Chúng ta đạt được thắng lợi: Trước đây Pháp gọi chúng ta là rebel (phản loạn)
bay giờ thì gọi chúng ta là revolution (cách mạng) - …chơi chữ “r”.
Cái vô lý là chưa một quốc gia nào hay một Chính Phủ nào trên thế
giới gọi là nước độc lập mà lại “mở cửa” rước “kẻ thù” vào như thế. Xin lưu ý:
Pháp là “kẻ thù chứ không phải đồng minh”. Không phải người Pháp vào để du lịch
hay làm ăn mà đây là “Quân Đội” với đầy đủ súng ống. Đây là kế mượn quân Pháp
để đuổi quân Tàu của Hồ Chí Minh. Vũ Hồng Khanh là người của Việt Nam Quốc Dân
Đảng tham gia Chính Phủ Liên Hiệp, đã để lại chữ ký trong Hiệp Ước (Sơ Bộ
6/3/1946) này. Phe Trương Tử Anh không tham gia Chính Phủ Liên Hiệp. Mặt trận Quốc
Dân Đảng Việt Nam hợp nhất giữa Việt Quốc và Đại Việt tan rã. Trương Tử Anh âm
thầm vận động cho một giải pháp chính trị mới : “Giải Pháp Bảo Đại”.
-Trước ngày bầu cử Quốc Hội (6/1/1946), Bảo Đại bỗng nhiên mất
tích, không ai tìm thấy ông ở Hà Nội nữa. Bên Đại Việt đã nhờ ông Lưu Đức
Trung, một người Việt Nam có vợ là em ruột của một tướng Tàu lập kế hoạch giải
cứu Bảo Đại… . .. Lưu Đức Trung biết được hiện Bảo Đại đang bị giam lỏng ở trong
một biệt thư tại ïbãi biển Thanh Hóa, ông liền cùng tên tướng Tàu đến gặp Bảo
Đại và đưa ngài về Hà Nội. Khi thấy Bảo Đại trở về và được quân Tàu bảo vệ, thân
hào nhân sĩ và thành phần đảng phái quốc gia cũng như đồng bào thường lui tới
thăm viếng ngài. Ngày quân Pháp đổ bộ Hải Phòng, Tướng Tàu ở đây ra lệnh nổ súng
ngăn chận. Điều đó chứng tỏ việc quân Tàu rút về còn gặp nhiều khó khăn chưa
giải quyết được. Hồ Chí Minh phải cử một phái đoàn qua Côn Minh thương lượng với
Tưởng Giới Thạch, mặt khác Pháp trả lại nhượng địa thời nhà Thanh cho Tàu, cho
Tàu nhiều quyền lợi về thương mãi. Báo chí ở Hồng Kông bình luận: Nếu trong phái
đoàn Việt Minh qua gặp Tưởng Giới Thạch mà có Bảo Đại thì sẽ thuận lợi. Vì thế,
Hồ Chí Minh đồng ý mời Bảo Đại tham gia phái đoàn do Hoàng Minh Giám cầm đầu.
Nhưng khi đến Côn Minh, Bảo Đại liền tuyên bố với báo chí “Ông
không phài là người đại diện Việt Minh, ông qua Trung Hoa với tư cách cá nhân,
đi du lịch”.
Bảo Đại liền tách rời khỏi phái đoàn và được một ân nhân giúp đỡ
đến tạm trú tại Hong Kong.
Như đã nói ở trên, việc thương thuyết giữa Hồ Chí Minh và Pháp
thất bại nên Hồ Chí Minh đã dùng kế “mượn tay quân Pháp để đuổi quân Tàu” nhưng
“quân Tàu đi thì quân Pháp đến”. Quân Pháp không tốn một viên đạn mà có mặt tại
thủ đô Hà Nội. Hồ Chí Minh vừa rước Pháp vào rồi lại hô hào kháng chiến chống
Pháp nên Pháp không còn nói chuyện với Hồ Chí Minh trong ôn hòa được nữa. Ngay
khi quân Tàu rút về nước, Việt Minh liền ra lệnh bắt cóc, thủ tiêu người quốc
gia “không cộng sản”. Một số thành phần đảng phái chống Cộng chạy theo quân Tàu
trốn ra khỏi nước, hoặc lập chiến khu để tự vệ để khỏi bị Việt Minh khủng
bố. Ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh ra lệnh “toàn quốc kháng chiến”, chủ lực của
Việt Minh và cán bộ Cộng Sản đã được Võ Nguyên Giáp đưa vào chiến khu và đẩy
những thanh niên yêu nước, đảng viên các đảng Việt Quốc, Đại Việt… . . .ra mặt
trận. Máu của những người yêu nước đã đổ và Việt Minh nói đó là máu của những
người Cộng Sản. Ai không theo Việt Minh đều mang tội phản quốc, bán nước, Việt
gian, theo Tây. Ai đi theo kháng chiến, cuối cùng đều bị nhuộm đỏ, trở thành
cộng sản làm tay sai cho Nga, Tàu.
Giai đoạn đầu, từ tháng Giêng 1947- 1949, quân Pháp chiếm các
thành phố từ Nam ra Bắc, đuổi Việt Minh vào tận rừng sâu (chỉ trừ một vài nơi
như Nghệ An , Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định, vùng biên giới Việt Bắc do Việt
Minh kiểm soát gọi là An Toàn Khu. Nhưng cũng có lúc quân Pháp hành quân, Hồ
Chí Minh và Trung Ương Đảng chút nữa bị bắt sống).Cao Ủy Pháp tại Saigon là
Emile Bolaert kêu gọi những người trong hàng ngũ kháng chiến “không cộng sản”
trở về hợp tác với Pháp để tái lập trật tự, ổn định tình hình. Pháp cũng đã tìm
hết cách nầy đến cách khác để tách rời xứ Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam, lập ra “Nam
Kỳ Quốc” và Chính phủ thân Pháp .. . nhưng đều thất bại.
Trước tình hình đó, phe Quốc Gia đã nghĩ đến giải pháp Bảo Đại,
chỉ có Bảo Đại là người thừa kế chính thống Gia Long, vua của nước Việt Nam
thống nhất, độc lập từ 1802… . . .Cả thế giới đều biết lập trường của Bảo Đại
là “vì dân, vì nước”, không thể phủ nhận được. Ngoài Bảo Đại ra, không ai có đủ
tư cách đại diện Việt Nam nói chuyện với Pháp. Nghe tin Bảo Đại đang ở Hong
Kong, các tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ trí thức Trung, Nam, Bắc đã đến
Hông Kong, ủng hộ nhà vua đứng ra tranh đấu đòi người Pháp trả lại độc lập cho
Việt Nam. Trải qua bao nhiêu khó khăn từ 1948-1949, cuối củng Pháp phải chấp
nhận để cho Việt Nam độc lập trong khối “Liên Hiệp Pháp”.
Với Tuyên Bố Chung ngày 5/6/1948 tại Vịnh Hạ Long, trước sự chứng
kiến của Hoàng đế Bảo Đại, Cao Ủy Pháp là Emile Bolaert và Thiếu Tướng Nguyễn
Văn Xuân (Thủ Tướng Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam) với các nhân sĩ Trung,
Nam, Bắc như Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn,
Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch… . . “Pháp công nhận nền độc lập và
thống nhất của Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp”.
Một năm sau, ngày 8/6/1949, Tổng Thống Pháp là Vincent Auriol đã
chính thức gởi thư cho Quốc Trưởng Bảo Đại chính thức thừa nhận nền độc lập của
Việt Nam gồm 5 điểm quan trọng: 1. VN là một quốc gia độc lập, thống nhất. Pháp
chính thức trả lại đất Nam Kỳ cho VN 2. VN hoàn toàn độc lập về Ngoại
Giao: thiệp lập các tòa đại sứ ở các nước tự do, được các cường quuốc trong thế
giới tự do công nhận (35 nước) 3. VN có Quân Đội riêng 4. VN có một nền
Hành Chánh: có Chính phủ Trung Ương. Thủ đô: Saigon. Tại Saigon, Huế, Hà Nội,
có một vị Thủ Hiến đại diện cho mỗi miền, các cơ quan hanh chánh địa phương
thuộc Thủ Hiến. 5. VN có Ngân Hàng Quốc Gia: hoàn toàn độc lập về tài chánh.
Như vậy, Bảo Đại đã trở thành Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam từ
8/6/1949, ngài đã thành lập trường võ bị quốc gia Dalat, đào tạo sĩ quan hiện
dịch để thay thế cho người Pháp, chỉ huy quan đội VN. Năm 1954 có 200.000 lính.
Tất cả quân đội của các Giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo, Công Giáo (Bùi Chu-Phát
Diệm) và Bình Xuyên,v.v. đều được cho nhập vào Quân Đội Quốc Gia, được trang bị
và huấn luyện, được hưởng trợ cấp về vật chất. Một số cấp chỉ huy được đi học
trường sĩ quan Dalat. Tuy nhiên Quốc Trưởng Bảo Đại vẫn để cho họ được phục vụ
tại địa phương của mình để bảo vệ đồng bào và duy trì an ninh trật tự, ổn định
tình hình. Những thành quả nầy là do Bảo Đại và phe Quốc Gia tranh đấu từ
1947-1949 mới có. Hai lần Bảo Đại đã lấy lại nền độc lập cho VN từ trong tay
Pháp (lần thứ I nhờ người Nhật, lần thứ hai với hậu thuẫn của tôn giáo, đảng phái
và đồng bào VN)
Câu hỏi (2): Xin cho biết về Hội Nghị Geneve 1954? Tai sao có hiệp
định đình chiến chiến ngày 20/7/1954?
GS Nguyễn Lý-Tưởng:
Hội nghi Geneve bắt đầu từ ngày 26/4/1954 và chấm dứt ngày
20/7/1954 với bản hiệp định đình chiến tại Việt Nam, Lào và Cam Bốt được ký kết
vào giờ cuối cùng của ngày hôm đó (tức đã bước sang đầu giờ ngày hôm sau là
21/7/1954 nhưng trên giấy tờ vẫn ghi là ngày 20/7/1954).
Thành phần tham dự:
a/-Về phía Thế Giới Tự Do có Pháp, Anh, Mỹ và Bảo Đại
-Ông Georges Bidault (Thủ Tướng kiêm Ngoại trưởng Pháp) về sau Ông
Mandes France lên làm Thủ Tướng kiêm Ngoại trưởng, thay thế ông Bidault.
-Ông Anthony Eden (Ngoại trưởng Anh)
-Ông Bedell Smith (Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ) và Phó Tổng Thống Hoa
Kỳ, Foster Dulles kiêm Ngoại trưởng.
-Ông Nguyễn Quốc Định (Ngoại trưởng trong Chính phủ Bửu Lộc đại
diện cho Bảo Đại… . . .sau khi Thủ Tướng Bảo Lộc từ chức, Tân Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm đã cử ông Trần Văn Đỗ làm Ngoại trưởng kiêm Trưởng phái đoàn Quốc Gia
Việt Nam thay thế ông Trần Quốc Định).
b/-Về phía Cộng Sản có Nga, Trung cộng và Việt Minh (Hồ Chí
Minh)
-Chu Ân Lai (Thủ Tướng kiêm Ngoại trưởng của Trung Cộng)
-Molotov (Bộ trưởng Ngoại giao của Nga)
-Phạm Văn Đồng (Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Minh)
Hội nghị họp tại Geneve (thủ đô nước Thụy Sĩ, Suizerland) khai mạc
được 2 tuần thì Điện Biên Phủ thất thủ (chúng tôi sẽ đề cập đến trận Điện Biên
Phủ sau).
Trước khi có hội nghị nầy, Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình được
thành lập tại Saigon, mục đích ủng hộ Quốc Trưởng Bảo Đại và phái đoàn
Việt Nam trong hội nghị Geneve. Lúc đó, Việt Nam chưa có Quốc Hội nên xem như
Phong Trào nầy gồm 65 nhân vật đại diện cho các tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ,
trí thức Bắc, Trung, Nam… tạm thời thay thế Quốc Hội. . .
Phong Trao đưa ra
Cương Lĩnh chủ trương: -lập chính phủ đại đoàn kết quốc gia – bàu Quốc Hội, ban
hành Hiến Pháp, cai tri bằng Luật Pháp, chống chia cắt lãnh thổ… . . .(Hồi ký
của Bảo Đại viết bằng tiếng Pháp, người dịch gọi Phong Trào nầy là Mặt
Trận Đoàn Kết Cứu Quốc… . . .
xem “Thuyền Ai Đợi Bến văn Lâu” của Nguyễn
Lý-Tưởng, tr. 445)
Hội nghị Geneve kéo dài trong thời gian hai tháng 25 ngày với nội
dung bàn về vấn đề tạm thời ngưng bắn ở Đông Dương và hai bên thỏa thuận chia
đôi nước Việt Nam, lấy vĩ tuyền 17 (sông Bến Hải tại Quảng Trị làm ranh giới)
từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh
đạo thuộc khối Cộng Sản Nga-Tàu. Từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam thuộc Quốc Gia Việt
Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo và ông Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng được toàn
quyền về Hành chánh và Quân sự thuộc khối tự do thân Mỹ và các cường quốc Tây
phương (sau này ông Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, thay đổi chế độ, lật
đổ Bảo Đại, lên làm Tổng Thống, đổi tên nước là Việt Nam Cộng Hòa).
Hiệp định Geneve quy định thời hạn 02 năm sẽ có tổng tuyển cử để
toàn dân tự do lựa chọn chế độ cho tương lai đất nước của mình. Tất cả quân đội
Pháp và Quân đội Quốc Gia Việt Nam phải rút về Miền Nam vĩ tuyến 17; tất cả
quân đội Việt Minh phải rút về Miền Bắc vĩ tuyến 17. Mọi người dân được quyền
lựa chọn nơi cư trú: hoặc Miền Nam hay Miền Bắc. Cả hai chế độ Miền Nam và Miền
Bắc không được trả thù những người ở lại trên quê hương mình, mặc dù trước đó
họ đã từng phục vụ trong bộ máy hành chánh hay quân sự của chế độ cũ.
Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đã
rút lui khỏi hội nghị và đã họp báo phản đối việc chia cắt lãnh thổ và giải
thích lý do không ký tên vào hiệp định này. Phó Tổng Thống kiêm Ngoại trưởng
Hoa Kỳ là ông Foster Dulles cũng phản đối và không ký tên vào hiệp định. Việc
chia đôi nước VN là chủ trương của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, theo hình thức
chia đôi của Triều Tiên (Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên như hiện nay). Quốc Trưởng
Bảo Đại cũng có mặt tại Genve để theo dõi hội nghị. Nhiều người với tư cách
quan sát viên cũng đã đến Geneve. Đặc biệt có ông Võ Thành Minh là một thành
viên Hướng Đạo Quốc Tế đã đến dựng một cái lều vải bên cạnh hồ Leman (Geneve),
nằm thổi sáo và phân phát truyền đơn phản đối chia cắt đất nước. Tết Mậu
Thân 1968 tại Huế, ông Võ Thành Minh đã bị Việt Cộng giết vì không chịu hợp tác
với chúng.
Chúng tôi xin đưa ra mấy nhận xét sau đây về tình hình Việt Nam
trong thời điểm ký kết hội nghị Geneve (20/7/1954)
1. Tháng 6/3/1946, Hồ Chí Minh đã chấp nhận cho
15.000 quân Pháp vào Việt Nam thay thế quân Tàu (Tưởng) và quân Pháp đã có mặt
tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,v.v. Nửa đêm 14/9/1946, Hô Chí Minh gọi điện
thoai cho Moutet , Bộ trưởng thuộc địa Pháp ký Modus Vivendi (Thỏa Ước Tạm
Thời) hợp thức hóa sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam (tức là công nhận sự hiện
diện hợp pháp của Quân Đội Pháp tại Saigon từ ngày 23/9/1945… . . .Sau đó, vào
ngày 19/12/1946, Hồ kêu gọi “toàn quốc kháng chiến chống Pháp”. Việt Minh chạy
vào các chiến khu, vùng rừng núi dọc biên giới Việt Bắc và Lào Việt.
2. Từ 1947-1949, Quân Pháp chiếm đóng và thiết lập
chính quyền thân Pháp tại các thành phố lớn từ Bắc chí Nam. Việt Minh không có
một thành phố nào, tối thiểu là một thành phố để làm thủ đô, chứng tỏ sự hiện
diện của chính phủ và chính quyền trung ương.
3. Từ 9/6/1948, đã có Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời
tại Saigon với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân (đại diện cho Bảo Đại)và một năm sau
đó, 9/6/1949, Pháp chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam (qua Quốc Trưởng
Bảo Đại). Pháp trao trả Nam kỳ cho Việt Nam. Nước Việt Nam thống nhất, thủ đô
đặt tại Saigon, có chính phủ Trung Ương, có các Thủ hiến đại diện Chính Phủ tại
Saigon, Huế, Hà Nội. Có chính quyền tại địa phương với các tỉnh trưởng, quận
trưởng…. Việt Nam có Quân Đội riêng, độc lập về ngoại giao, được 35 nước trong
thế giới tự do công nhận và đặït quan hệ ngoại giao cấp bậc đại sứ, độc lập về
tài chánh, văn hóa,v.v… . . .Trong khi đó, Việt Minh được xem như là một nhóm
phản loạn mà thôi.
4. Việt Minh hô hào kháng chiến chống Pháp, chấm
dứt nền đô hộ Pháp trên nước Việt Nam nhưng lại đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt
Nam. Cộng Sản cũng là một hình thức của chủ nghĩa đế quốc rất tinh vi. Tranh
đấu để thoát khỏi chủ nghĩa thực dân Pháp để trở thành “chư hầu” của Trung
cộng?
5. Từ 1949-1951, nhiều lần quân Pháp đã sắp tiêu
diệt toàn bộ Trung ương của Việt Minh tại Việt Bắc. Và Hồ Chí Minh, Trường
Chinh… . . .chỉ còn một chút nữa là bị Pháp bắt.
6. Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch ở Trung
Hoa (1949-1950), biên giới Việt - Trung trở thành hậu phương của Việt Minh,
nhờ vậy mà Hồ Chí Minh dần dần tổ chức lại lực lượng để phản công Pháp.
7. Trong hội nghị Geneve, trước áp lực của Nga và
Trung cộng, Pháp chấp nhận nói chuyện với Việt Minh. Mỹ cũng muốn đẩy Pháp ra
khỏi Đông Dương nên không giúp Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Trong chiến tranh
Triều Tiên (1951), Trung cộng hy sinh cả triệu quân nên sợ Mỹ nhảy vào chiến
tranh Đông Dương, do đó phải ngưng chiến để củng cố nội bộ của Tàu. Mao Trạch
Đông giúp Hồ Chí Minh thắng trận Điện Biên Phủ để Việt Minh có điều kiện nói
chuyện với Pháp.
8. Trong thế chiến thứ II (1939-1945), Đức và Nhật
thua trận, toàn bộ quân đội bị giải giới. Năm 1954, Pháp chỉ tổn that 5% quân
số trong trận Điện Biên Phủ mà thôi, toàn bộ lực lượng Pháp từ Miền bắc rút vào
Miền Nam vẫn hùng hậu nên Việt Minh không thể xem thường lực lượng đó được. Sự
hiện diện của quân Pháp tại Miền Nam sau 1954 là một áp lực lớn đối với ông Ngô
Đình Diệm. Ông Diệm có công làm cho Pháp phải rút hết quân đội về nước. (Sẽ nói
thêm trong phần nói về trận Điện Biên Phủ)
Câu hỏi thứ (3): Điện Biên Phủ là một trận đánh khốc liệt và là
trận đánh quyết định trong cuộc chiến Việt – Pháp tại chiến trường Đông Dương.
Xin… vui lòng cho biết vai trò của Trung Cộng trong trận Điện Biên Phủ?
GS Nguyễn Lý-Tưởng:
Trận Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 13/3/1954 đến ngày 7/5/1954 thì
quân Pháp đầu hàng Việt Minh. Lực lượng Pháp có khoảng 20.000 lính cố thủ trong
căn cứ và Việt Minh có trên 60.000 quân bao vây bên ngoài. Vũ khí, lương
thực và các phương tiện chuyên chở đều do Trung Cộng tiếp tế từ biên giới
qua.
Theo kế hoạch của Đại Tướng De Lattre De Tassigny, Tổng Tư Lệnh
Pháp tại Đông Dương thì Pháp sẽ lập căn cứ Điện Biên Phủ là thủ phủ của vùng
Mường Thanh của người thiểu số Thái-Mường gần biên giới Lào, Miến Điện và Trung
Hoa mục đích để làm miếng mồi cho quân Việt Minh tập trung vào đây và sẽ
sử dụng máy bay ném bom tiêu diệt chúng.
Đại Tướng De Lattre de Tassigny qua Mỹ ngày 20/9/1951 để trình bày
tình hình tại Việt Nam và đưa ra kế hoạch lập căn cứ Điện Biên Phủ. Ông đã đạt
được những chiến thắng lẫy lừng tại Bắc Việt, đã từng bẻ gãy chiến
thuật biển người của Võ Nguyên Giáp (áp dụng chiến thuật biển người của Trung
cộng tại Triều Tiên), có lúc Võ Nguyên Giáp đã hy sinh đến 15.000 lính trong
một chiến dịch. Đại Tướng De Lattre là anh hùng trong thế chiến thứ II
(1939-1945) tại Âu Châu đã qua Mỹ trình kế hoạch nầy để xin Mỹ giúp, cho máy
bay ném bom tiêu diệt lực lượng Việt Minh sẽ kéo về đây. Ngày 11/01/1952,
Đại Tướng De Lattre chết tại Pháp. Có tin nói rằng ông bị bệnh ung thư, nhưng
có tin khác nói rằng ông đi máy bay trinh sat bị Việt Minh bắn, viên đạn trúng
vào một nơi không thể giải phẩu được. Ông đã chết sau đó.
Khoảng 1953, Đại Tướng Paul Ely, thay thế De Lattre lại qua Mỹ vận
động cho kế hoạch tiêu diệt Viêt Minh tại Điên Biên Phủ. Khi mặt trận đến hồi
gay cấn, quân Việt Minh tập trung toàn lực bao vây căn cứ Điện Biên Phủ thì Mỹ
làm lơ, không cho máy bay ném bom tiêu diệt Việt Minh. Trong thế chiến thứ II,
chủ trương của Mỹ là trao trả độc lập cho các nước thuộc địa, xóa bỏ chế độ đế
quốc thực dân.
Vì thế, khi Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương (9/3/1945), Pháp
kêu gọi không lực Mỹ đóng ở Côn Minh (Trung Hoa) giúp. Nhưng Mỹ từ chối không
yểm trợ các đơn vị của Pháp còn chống Nhật trên đường từ Bắc Việt rút lui sang
Trung Hoa. Mỹ muốn dùng bàn tay Nhật loại Pháp ra khỏi Đông Dương. Sau đó Mỹ sẽ
cho Việt Nam độc lập và quan hệ kinh tế với Mỹ. Nhưng Mỹ chưa kịp trở tay thì
Việt Minh đã cướp chính quyền rồi nên đã để lỡ mất một cơ hội.
Trong hội nghị
Geneve 1954, Mỹ và Việt Nam (phe Quốc Gia) chống giải pháp chia cắt lãnh thổ,
nhưng vì Pháp muốn rút lui nên đã thuận chia đôi Việt Nam… . . .
Lúc bấy giờ Phong Trào phản chiến ở Pháp lên mạnh, đảng CS Pháp
vận động vợ con biểu tình đòi trả chồng, cha của họ về cho gia đình. . .Các
nước Bắc Phi (Maroc, Tunisie, Algerie . . .…phong trao CS chống Pháp đòi
độc lập, sau thế chiến thứ II, kinh tế Pháp kiệt quệ. . .Mandes France (đảng
CS) lên làm Thủ Tướng thay Georges Bidault đã hứa sẽ giải quyết chiến tranh
Đông Dương.. .Mao Trach Đông thúc dục Việt Minh chấp nhận chia đôi VN như Triều
Tiên ..
.
Trở lại vấn đề Điện Biên Phủ, trước đây ai cũng nghĩ rằng do tài
chỉ huy của Võ Nguyên Giáp nên Việt Minh đã thắng trận Điện Biên Phủ. Nhưng vào
năm 1979, sau khi xảy ra chiến tranh biên giới giữa CSVN với CS Trung Hoa,
Trung Cộng đã công bố những bí mật về “chiến thắng Điện Biên Phủ”. Chính tướng
Trần Canh và Vi Quốc Thanh của Trung Cộng đã có mặt trong Bộ Tham Mưu của Việt
Minh và Võ Nguyên Giáp phải theo mệnh lệnh của Trần Canh.
Trung cộng đã công
khai cho từng đoàn xe Molotova chuyên chở súng đạn, lương thực tiếp tế cho Việt
Minh. Quân Việt Minh đã sử dụng máy đào đất do Trung cộng sản xuất để đào những
giao thông hào từ ngoài vào, xuyên qua các hàng rào kẽm gai đến tận Bộ Chỉ Huy
căn cứ Điện Biên Phủ.
Cách tiến quân xuyên qua các địa đạo nầy là một chiến thuật mới
của Trung cộng được áp dụng lần đầu tiên tại Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ.
Quân bên ngoài di chuyển theo địa đạo, càng ngày càng tiến gần các công sự của
lính Pháp bên trong một cách an toàn. Trong khi đó, trọng pháo liên tiếp nhả
đạn, uy hiếp lính Pháp tử thủ bên trong. Súng và đạn pháo do Trung cộng cung
cấp với số lượng rất lớn và rất dồi dào. Chiến thuật biển người được áp dụng trong
chiến tranh Triều Tiên cũng đã được áp dụng một lần nữa tại Điện Biên Phủ. Quân
Trung cộng cũng trà trộn vào quân Việt Minh, bộ đội phòng không, súng cối phần
lớn do quân Trung cộng phụ trách. Khi quân Việt Minh theo địa đạo tiến vào tận
Bộ chỉ huy của Tướng De Castrie lúc đó quân Pháp mới biết là toàn bộ căn cứ Điện
Biên Phủ đã bị tràn ngập. De Castries chỉ còn biết giơ tay đầu hàng.
Trong chiến tranh Triều Tiên, lúc đó Mao Trach Đông mới chiếm đươc
Hoa Lục chưa đầy 02 năm mà phải đương đầu với quân đội Mỹ trang bị hiện đại:
máy bay, xe tăng, trọng pháo với hỏa lực rất mạnh. Với chiến thuật biển người,
Trung cộng đã nước cả triệu quân và kết quả là chia hai nước Triều Tiên: Bắc
Triều Tiên theo chế độ Cộng Sản chịu ảnh hưởng trực tiếp của Trung cộng. Nam
Triều Tiên (sau nầy đổi tên là Đại Hàn) theo chế độ tự do chịu ảnh hưởng của Mỹ.
Từ 1949, Tưởng Giới Thạch thua chạy ra Đài Loan để lại hàng triệu vũ khí, súng
đạn. Mao Trạch Đông đã sử dụng chiến lợi phẩm đó để trang bị cho Hồng quân Trung
cộng và viện trợ cho Việt Minh. Quân Trung cộng mạnh lên là nhờ cơ hội đó.
Nhưng sau chiến tranh Triều Tiên, Trung cộng phải nghỉ ngơi nên dồn nỗ lực giúp
Hồ Chí Minh thắng trận Điện Biên Phủ và chấp nhận chia hai đất nước, tạm chấp
nhận có hòa bình vì sợ kéo dài chiến tranh Mỹ sẽ nhảy vào thì Trung cộng không
đủ sức đánh nhau với Mỹ.
Về phần Hồ Chí Minh, sau trận Điện Biên Phủ, được một nửa
nước …nên phải lệ thuộc vào Trung cộng. Để chứng tỏ lòng trung thành với Trung
cộng, Hồ Chí Minh đã áp dụng 100% chương trình đấu tố địa chủ một cách dã man
đã được áp dụng tại Trung cộng. Cán bộ cải cách ruộng đất từ Trung cộng qua
Việt Nam để trực tiếp hướng dẫn đúng với chủ trương, kế hoạch của Mao
Trạch Đông. Những tài liệu mới đây cho biết chính Hồ Chí Minh đã trực tiếp hô
hào thực hiện kế hoạch cải cách ruộng đất từ 1953 trở đi trước khi bắt đầu trận
Điện Biên Phủ. Những màn đấu tố dã man không thể týởng týợng ðýợc ðã đem ra áp
dụng tại Việt Nam, làm sao cho giống với Trung Hoa.s
Kể từ chiến thắng Điện Biên Phủ và nhất là sau hiệp định Geneve
20/7/1954, CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng, không làm sao thoát ra được.
Thời Kruschev lãnh đạo, nước Nga có phong trào xét lại, có chuyện hạ bệ Staline
thì ở Việt Nam lại chống chủ nghĩa xét lại và triệt để theo Tàu.
Từ 1964, khi
Mỹ cho quân đội tham chiến ở Việt Nam, vì nhu cầu chiến tranh, Hà Nội đã nhận
hỏa tiễn, máy bay, xe tăng của Nga và sau 1975, Lê Duẩn triệt để theo Nga, đem
quân qua lật đổ đàn em của Trung cộng là Pon Pot . . . vì thế mới có chiến
tranh biên giới 1979, Trung cộng đem quân qua dạy cho VN một bài học. Sau khi
Liên Sô và khối CS Đông Âu sụp đổ, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng chạy
qua lạy lục Trung Cộng. Hội Nghị Thành Đô 1990, CSVN chấp nhận 100% các điều kiện
của Trung cộng đưa ra. Hậu quả là ngày nay, Việt Nam chuẩn bị để trở
thành một tỉnh tự trị của Trung cộng như Tây Tạng, Tân Cương,v.v . . .
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết