DƯƠNG VĂN
MINH, TÊN VC NỘI TUYẾN, TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC.
" BAO GIÀN chính phủ BÀN GIAO giặc.
TƯỚNG GIAN nội tuyến, TÁN DƯƠNG lầm".
Nhân vật Dương Văn Minh, được coi là có quan hệ vô
cùng mật thiết đến vận mệnh lịch sử, nhất là những việc làm của hắn ta,
có tác động đến sự suy vong, tang tóc của nước Việt Nam qua hai cuộc biến
động lịch sử miền nam tự do trước 1975.
Là một tướng lãnh hàng đầu trong quân lực VNCH, chỉ
đứng sau cố thống tướng Lê Văn Tỵ, tuy nhiên đại tướng Dương Văn Minh là
kẻ gây ra hai cuộc biến động lịch sử, tác động sâu xa, hệ quả đến ngày
nay là: cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 và ngày 30 tháng 4 năm 1975,
khi Dương Văn Minh, cùng với chuẩn tướng" nội tuyến" Nguyễn Hữu
Hạnh, bàn giao toàn miền nam cho giặc Cộng, đưa đất nước vào xiềng xích
thống trị của bầy súc vật Việt Cộng.
Trong thời gian miền nam tự do trước năm 1975, hình
ảnh đại tướng Dương Văn Minh được một số người lầm lẫn là người theo Phật
Giáo, có lòng nhân từ, hiền đức… dù là theo khối Ấn Quang, trong thời kỳ
thượng tọa Thích Trí Quang được nhiều Phật tử tôn vinh như là" thánh
tăng", ở Huế gọi là Ôn, thay gì ông, bình thường.
Đại tướng Dương Văn Minh gây ra nhiều tội ác đối với
dân tộc và đóng góp tích cực cho súc vật Việt Cộng, đưa đến sự sụp đổ
miền nam từ đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 đến 30 tháng 4 năm 1975; tội ác
của Dương Văn Minh, cộng với Nguyễn Văn Thiệu quá lớn, mỗi tên mỗi cách,
gây ra cái chết của rất nhiều người, nhưng từ lâu, bình phong sĩ quan cấp
tướng của hai người khỏa lấp tội ác, nhưng họ khó có thể che đây được
lâu, khi mà:" những lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân
từ" đã bị phanh phui theo dòng thời gian.
" Nguyễn Văn Thiệu, máu xương di tản.
Dương Văn Minh, tội ác bàn giao".
Sau khi làm những việc thầm kín, móc nối với Việt Cộng
qua hai biến động lịch sử 1 tháng 11 năm 1963 và 30 tháng 4 năm 1975,
chính Dương Văn Minh và một số thuộc cấp thân tính, biện minh là:"
chuyện đầu hàng vô điều kiện với Việt Cộng chỉ nhằm để tránh đổ máu cho
dân chúng". Nhưng thực ra, nếu Việt Cộng với các sư đoàn chánh qui
bắc việt và du kích miền nam tràn vào, thì bài học trận tổng công kích
tết Mậu Thân 1968 tái diễn, chính Việt Cộng mới bị đổ máu nhiều và tình
hình có khả năng đảo ngược do: quân lực VNCH có nhiều kinh nghiệm, dân
chúng biết quá rõ Việt Cộng từ năm 1968, có thêm lực lượng nhân dân tự vệ
( có khả năng giữ xóm làng, phường xã..dù vũ khí thời đệ nhị thế chiến,
cũng bắn chết địch), nếu khi chiến trận ác liệt diễn ra, thì quốc tế, các
nước trong khối tự do nhìn thấy sự quyết tâm chiến đấu của quân dân miền
Nam, họ sẽ không làm ngơ, nhất là về mặt nhân đạo là cảnh Việt Cộng tấn
công vào khu đông dân cư, có lợi cho miền nam nhiều về mặt công luận quốc
tế.
Những biện bạch, tung
hỏa mù của tên tướng nội tuyến Dương Văn Minh và thuộc cấp thân tín,
không thể nào thuyết phục dân chúng, nhất là quân nhân VNCH, nên chiến
thuật chạy tội theo kiểu" chén úp đầu voi" để dấu con coi là
không có tác dụng.
Bức màn lịch sử lần lượt được vén lên, dưới ánh mặt
trời không có gì là bí mật, ngay cả những chuyện thuộc loại" thâm
cung bí sử" cùng phơi bày sau thời gian dài dấu kín. Đại tướng Dương Văn Minh, tội đồ dân tộc, tên Việt
Cộng nội tuyến vô cùng nguy hiểm, chính là một trong những thủ phạm đưa
đến sự thất thủ miền nam, nhất tướng công thành vạn cốt khô và Dương Văn
Minh là:" nhất tướng đầu hàng, triệu thác oan".
Sự đầu hàng, bàn giao miền nam ngày 30 tháng 4
năm 1975, là theo ý muốn của đảng súc vật Việt Cộng qua việc móc nối bí
mật từ nhiều năm, đưa đến cái chết của hàng ngàn người bị hành quyết
trong những ngày đầu tiên khi Việt Cộng tiếp thu, trả thù những chiến sĩ
can trường trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc, hàng trăm ngàn quân nhân cán
chính miền nam bị hành hạ trong các trại tù dã man, ngụy trang là"
cải tạo", hàng triệu người bị lùa đi kinh tế mới, tài sản bị cướp
hàng triệu người chết trên đường tìm tự do….nên con số người chết sau khi
bị Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh bàn giao miền nam cho giặc Cộng, còn
cao rất nhiêu so với con số người chết trong cuộc chiến của miền nam. Thà
rằng tử chiến, một mất một còn, hơn là bị giặc Cộng cầm tù, hành hạ.
Đó là tội ác của tên phản quốc, Việt Cộng nội tuyến
Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh đối với dân tộc, nhất là quân nhân cán
chính miền nam. Những kẻ nầy không còn xứng đáng, tư cách đứng chung
trong hàng ngũ quốc gia, chúng là những tên Việt Cộng nằm vùng vô cùng
nguy hiểm hơn kẻ thù ngoài chiến trường. Nhất là chúng là tướng lãnh,
quyền lực, tác hại khôn lường, nên trên thế giới nầy, không có một quân
đội hùng mạnh nào tồn tại, nếu cấp chỉ huy là nội ứng cho giặc.
Đại tướng Dương Văn Minh cũng là tổng thống" vi
hiến" sau cùng nước Việt Nam Cộng Hòa, sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho.
Thân phụ là ông Dương Văn Huề, gốc Hoa, khi đi học, mượn tên của một
người bà con là Dương Văn Mau, đầu tiên làm thầy giáo, sau làm tri phủ,
rồi hàm đốc phủ sứ.
Ông Dương Văn Huề kết hôn với bà Nguyễn Thị kỷ,
ăn ở nhau có 7 mặt con : 4 trai, 3 gái. Dương Văn Minh là con cả, kế là
Dương Thanh Nhựt là người tham gia hoạt động cho Việt Minh Cộng Sản từ
năm 1944, là một tên Cộng Sản nguy hiểm, thâm niên, có mặt trong cái gọi
là:" đánh Tây giành độc lập và đánh Mỹ cứu nước", nên tên Dương
Thanh Nhựt được đảng súc vật Việt Cộng phong quân hàm đại tá, đóng góp
một phần rất lớn qua công tác móc nối, quan hệ mật thiết trong công tác
binh vận với anh là Dương Văn Minh, trong thời gian là tướng lãnh miền
Nam. Đứa em thứ 5 trong gia đình tên là Dương Thanh Sơn, là sĩ quân lực
VNCH
Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào
tạo hạ sĩ quan và sau đó trở thành sĩ quan dự bị của Pháp từ năm
1942. Năm 1946 mang cấp bậc thiếu úy, chức vụ đại đội phó, sau đó lần
lượt thăng cấp tá, được gởi sang học trường Võ Bị Pháp.
Trong thời gian làm lớn, Dương Văn Minh đã
từng giúp cho Việt Cộng nằm vùng thoát khỏi mạng lưới an ninh, điển hình
như can thiệp cho người em trai của bà Bùi Thị Mè, là thiếu tá trong quân
lực VNCH, đang bị tình nghi, điều tra có quan hệ hoạt động nội tuyến cho
Việt Cộng. Do tàng lộng lớn từ tướng Dương Văn Minh, nên người đang bị
điều tra thoát được, nhưng thực tế thì đây là đường dân gián điệp có quan
hệ đến tên Nguyễn Minh Triết, tức là Bảy Trung.
Trung tướng Dương Văn Minh là người cầm đầu cuộc
đảo chánh phản loạn ngày 1 tháng 11 năm 1963, hạ sát tổng thống Ngô
Đình Diệm và em trai là ông Ngô Đình Nhu, là hai đối tượng hàng đầu mà
Việt Cộng cũng như súc vật Hồ Chí Minh muốn thanh toán, Dương Văn Minh
lập công đầu và rất lớn đối với Việt Cộng. Rồi sau đó, những cuộc tranh
quyền từ chỉnh lý Nguyễn Khánh đến chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn
Thiệu, cuối cùng chính Dương Văn Minh lại nhảy ra để bàn giao miền nam
cho giặc Cộng ngày 30.4.1975, được an toàn, bình an sống tại căn nhà ở số
98 Đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Một tên nằm vùng nguy hiểm, lộ rõ bản chất vô
liêm sĩ, phản bội đê hèn sau khi bàn giao đất nước cho Việt Cộng, muối
mặt nhận" quyền công dân" của
các gọi là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đoạn trân tráo tuyên
bố trong lần bầu cử quốc hội bù nhìn đầu tên cả hai miền năm 1976:"
lần đầu tiên trong đời, được cầm lá phiếu trong cuộc bầu cử dân chủ"
(sic).
Trong khi đó, cụ Trần Văn Hương, hạ sĩ danh dự, từ
chối không thèm nhận quyền" công dân" và cả 100 kí gạo hàng
tháng của VC, ông khẳng khái nói là: " anh em binh sĩ bị đói trong
tù".
Công Dân Dương Văn Minh sống rất là thoải mái, bình
thản, dù trong lúc bị mang chứng tiểu đường, thường quan hệ mật thiết với
lãnh đạo bí thư thành ủy là Võ Văn Kiệt qua trung gian của bà Bùi Thị Mè,
là người có thân nhân Việt Cộng nằm vùng, từng được Dương Văn Minh giải
cứu trước đây.
Năm 1983 Dương Văn Minh được " bố trí"
xuất ngoại, đầu tiên sang Pháp với lý do chửa bịnh và thăm con, dù chính
phủ Pháp đề nghị giúp vé phi cơ, chi phí, nhưng hắn từ chối và cho
là:" đã có chính phủ Việt Nam lo rồi". Ông sống ở Pháp thoải
mái, không cần trợ cấp của chính phủ…hình như ông cũng có"
lương" của Việt Nam?
Nhìn hai cuộc biến động lịch sử năm 1963
và 1975, một số người lầm tưởng là Dương Văn Minh chỉ làm theo cảm tính
cá nhân là ghét chính phủ Ngô Đình Diệm, hay chịu ảnh hưởng phe Ấn Quang,
nhất là cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm, em là Ngô Đình Nhu, có
nhiều nghi ngờ, tin đồn là do một số tướng như Mai Hữu Xuân, Đổ Mậu…thù
hằn cá nhân mà giết để trả thù. Nhưng thực ra, trung tướng Dương Văn Minh
đã làm nội ứng cho Việt Cộng từ năm 1962, được móc nối với một số tổ chức
tình báo, gián điệp Việt Cộng là: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An
ninh T4 ( phụ trách vùng Saigon-Gia Định), ban Trí vận...nên có thể là
Dương Văn Minh là thủ phạm giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, theo chỉ thị
của đảng Cộng Sản Việt Nam để loại trừ hai đối tượng nguy hiểm hàng đầu
của VC. Một điều không ai phủ nhận là: sau khi đảo chánh 1 tháng 11 năm
1963, Dương Văn Minh đã thả hầu hết những tên gián điệp Việt Cộng nằm vùng
về bưng, trong đó có tên trùm tình báo là Mười Hướng ( Nguyễn Ngọc Ban).
Được biết, vào tháng 9.1972, Ban An ninh T4, phụ
trách vùng Saigon-Gia Định, tiến hành việc hành lập Cụm điệp báo mới,
bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng gián điệp nằm vùng bí
mật trong một số đối tượng, mà trong đó có thành phần thứ ba, đặc
biệt là có nhóm Dương Văn Minh, bao gồm các thành viên trong bộ phận đầu
não của nhóm nầy, gồm có các báo Điện Tín, Đại Dân Tộc….
Đầu năm 1975, tên Trần Quốc Hương, bí danh Mười Hương,
là Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo cho cụm tình báo chiến lược A10
tìm cách thâm nhập vào thành phần thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác
động, vận động thành phần này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này, Cụm tình báo chiến lược A10 tiếp
cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt, tức là Huỳnh
Bá Thành được bố trí ở luôn trong nhà Dương Văn Minh để chỉ đạo công
tác và tham gia viết và in tuyên cáo, từng bước từ việc “chống Chính phủ Thiệu
không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức tổng thống, đoạn đưa Dương
Văn Minh lên cầm quyền, hầu tiến hành công tác cuối cùng là chiếm trọn
miền nam mà không bị thiệt hại lớn như trận tổng công kích tết Mậu Thân
1968 trước đây, điều Việt Cộng rất sợ, vì lần nầy thất bại, thì Việt Cộng
bị thiệt hại rất lớn, có khả năng đưa đến sự sụp đổ miền bắc. Công tác
nội tuyến cuối cùng của tên Dương Văn Minh là:" bàn giao miền nam
cho Việt Cộng", là công rất lớn đối với đảng súc vật Việt Cộng.
Kể từ ngày 1 tháng 3 và đến cuối tháng 3 năm
1975, tên Huỳnh Bá Thành còn được tăng cường thêm một số tên Việt
Cộng như Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…để thực thi theo chỉ thị của súc vật
Mai Chí Thọ, lúc đó là bí thư thành ủy, được góp ý của tên Trần Thanh
Vân, phó ban an ninh T 4, nên Mai Chí Thọ khẳng định:
“...Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi
giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh
đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
Nhưng thực ra thì chúng rất sợ bị hỏa lực của quân lực VNCH tiêu diệt,
khi chúng dốc toàn lực vào toàn thành thị, thôn ấp miền nam như là"
trận cuối là trận nầy", khi dân quân miền nam một lòng tử chiến để
sống còn.
Công tác nằm vùng của tên Dương Văn Minh đã được chuẩn
bị khá kỷ từ năm 1960, theo yêu cầu của Ban Binh Vận Xứ Ủy Nam Bộ, là
tiền thân của Trung Ương Cục Miền Nam, đề cử tên Việt Cộng là Võ Văn
Thời, cục trưởng cục chính trị quân đội Nhân Dân Việt Nam trong việc điều
động tên Dương Thanh Nhựt, bí danh Mười Ty, là em ruột của Dương Văn
Minh, về công tác tại cục, với mục đích để móc nối với tướng Dương Văn
Minh làm nội ứng.
Đến cuối tháng 12 năm 1960, thì Dương Văn Nhựt mới
chính thức hoạt động và làm công tác móc nối. Do tình cảm anh em, nên
công tác binh vận không gặp khó khăn, nhất là Dương Văn Minh là sĩ quan
cấp tướng trong quân lực VNCH.
Đến tháng 8 năm 1962 tên Mười Ty móc được với gia đình
qua tiến trình sau đây: trước hết là liên lạc với ông Nguyễn Văn Di,
là cậu ruột. Qua người cậu nầy, tiến hành móc nối vợ là Sử Thị
Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn
Minh. Sau đó Mười Ty bí mật thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan
quân đội VNCH và em thứ tám là Dương Thu Vân.
Sau khi dàn dựng công tác có hệ thống, nhận thấy
tình hình thuận lợi, nên tên Mười Ty hướng dẫn cán bộ, bí mật đem ý
kiến của lãnh đạo đảng súc vật Việt Cộng để thảo luận với trung tướng
Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm.
Khai thác sự bất mãn của Dương Văn Minh, sau khi dẹp
Bình Xuyên và Hòa Hảo, bị chính phủ Ngô Đình Diệm không tin cậy, cho ngồi
chơi xơi nước, vì sau khi đánh chiếm được căn cứ địa của Bình Xuyên,
chính Dương Văn Minh đã tịch thu nhiều tiền, vàng của Bảy Diễn, nhưng lại
ém nhẹm, không chịu giao nộp chiến lợi phẩm cho chính phủ để dùng vào việc
công ích; đây là điều mà chính phủ Ngô Đình Diệm không ưa, chứ không phải
là chính phủ Ngô Đình Diệm phủ nhận công lao của hắn. Tuy nhiên, Dương
Văn Minh tung hỏa mù để khỏa lấp bản chất tham lam của hắn, hầu được
tiếng tốt và gây thù hằn, phân hóa trong hàng ngũ quân đội, chính quyền
miền nam.
Do sự móc nối và chỉ đạo của Việt Cộng, nên ngày 01
tháng 11 năm 1963, Trung tướng Dương Văn Minh, kết hợp cùng với một số
phản tướng, phản tá, đảo chánh thành công và lên làm Chủ tịch Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng. Được biết, kế hoạch đảo chánh đã được tên Mười Ty
nắm vững và đã báo về Ban binh vận Trung Ương Cục trước khi hành động.
Như vậy, cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 là do chỉ đạo của Việt Cộng
qua tên đại tá Mười Ty, em ruột của Dương Văn Minh.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, tên Mười
Ty có bí mật vào nhà Dương Văn Minh cư trú, và sau đó sang nhà em là
Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương
Văn Minh, tên Mười Ty được Dương Văn Minh hứa hủy bỏ ấp chiến
lược…thực thi lịnh của Việt Cộng, nhưng bề ngoài, tên Việt Cộng nội tuyến
Dương Văn Minh biện bạch, ngụy trang là:" cho nhân dân về nhà cũ với
ruộng vườn, mồ mả ông bà..".
Sau đó, Dương Văn Minh ra lịnh hủy bỏ 16.000 ấp
chiến lược, khiến đại sứ Mỹ Cabot Lodge ngạc nhiên hỏi Dương Văn
Minh vì sao làm thế ? Ông trả lời, đại ý: "Người VN có
phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã
gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ
trương sai, vì lẽ đó, tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về
quê cũ của mình".
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng
Harkin yêu cầu trung tướng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền
Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng, làm tê
liệt kinh tế miền bắc, dân chúng có khả năng đứng dậy vì đói, chiến tranh
sẽ sớm chấm dứt... nhưng Dương Văn Minh từ chối. Nếu áp dụng đúng, thì
Việt Cộng đã đầu hàng và đại họa không di truyền đến ngày nay, đất nước
lạc hậu và sắp rơi vào vòng nô thuộc của Trung Cộng. Tháng 1.1964, Đại sứ
Cabot Lodge yêu cầu Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện
kế hoạch 34A, gởi biệt kích ra bắc, nhưng Dương Văn Minh không phúc đáp.
Theo sự yêu cầu của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền Nam, nên tên Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do
theo mưu đồ của Việt Cộng, nhưng bề ngoài được ngụy trang trong vỏ bọc:
miền nam với một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp với Việt Cộng.
Tuy nhiên Hoa Kỳ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập và hầu hết
những người có kinh nghiệm với Cộng Sản đều không chấp nhận, nên mới có
những câu: liên hiệp với Cộng Sản là tự sát.
Dương Văn Minh có những hành động có lợi cho Việt
Cộng, dù các cơ quan an tinh, tình báo như C.I.A, chưa tìm ra bằng chứng.
Nhưng để Dương Văn Minh càng lâu, càng tạo điều kiện cho Việt Cộng thắng
lợi, nên sau đó, vào cuối tháng 01.1964, trung tướng Nguyễn Khánh
tổ chức đảo chánh, gọi là chỉnh lý và lên làm quốc trưởng. Nguyễn Khánh tuyên
bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi
vào tay CS”. Dương Văn Minh trở thành đại tướng và cử làm đại sứ
lưu động ở Đài Loan.
Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của tên Mười
Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và
Ban binh vận Trung Ương Cục, tên Dương Văn Nhựt, tức là Mười Ty có
chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là
Dương Thu Vân, có thời gian, tên Mười Tỵ cư trú tại nhà Dương Minh Đức (
con trai của Dương Văn Minh). Được biết, sau khi người em gái thứ 6 Dương
Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em
gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng lúc
đó cơ quan tình báo CIA nghi ngờ nên khuyên cáo Dương Văn Minh nên về
Thái Lan.
Khi Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay
là Dương Văn Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới
chuyển kế hoạch qua việc dùng Dương Thu Vân và cháu là Dương Văn Đức truyền
đạt ý kiến của cấp trên là đảng Cộng Sản cho Dương Văn Minh. Sau đó
Dương Minh Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập
Chính phủ ba thành phần". Nhưng việc nầy rất khó thực hiện khi
mà Hoa Kỳ vẫn còn giúp miền nam, vì Dương Văn Minh không có quyền hành
nữa
Trước tình hình nầy, tên Mười Ty trở về Hà Nội để gặp súc
vật Lê Duẩn. Trong bửa cơm với Lê Duẫn, có Mười Ty và Võ Văn Thời để
bàn thảo kế hoạch. Sau khi nghe Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi
công tác ở Pháp, tên súc vật Lê Duẩn khen Dương Văn Minh có tinh thần hợp
tác và có nhận định chính xác.
Đến cuối năm 1970, theo chỉ đạo của Trung Ương và
Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người
khác, để tiếp cận, tăng cường với tên nội tuyến Việt Cộng Dương Văn
Minh trong việc phối hợp công tác nội gián. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh, cơ sở của Việt Cộng trong hàng ngũ sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể
tiếp cận được với Dương Văn Minh dễ dàng và thuận lợi. Đồng thời bọn Việt
Cộng cử thêm tên Nguyễn Tấn Thành, tứ là Tám Vô Tư, là bác của
Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực
tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh trong công tác nội ứng.
Tháng 3 và 4 năm 1975, tên Tám Vô Tư thường gặp
ông Nguyễn Hữu Hạnh để giao công tác. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ
chức, Tám Vô Tư gợi ý với chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để tiếp cận
với Dương Văn Minh ngay, nếu khi tên Dương Văn Minh lên làm Tổng
thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến để tạo thắng lợi cho Việt Cộng,
theo đúng ý đồ của Việt Cộng.
Cho nên sau khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng
thống, ngày 28 tháng 4 năm 1975, từ Cần Thơ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh
và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu
trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng quân lục
VNCH. Với các cương vị này, tên tướng nội tuyến Nguyễn Hữu Hạnh đã
góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn
Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan rã tại chỗ qua
lịnh, không nổ súng làm thiệt hại lớn cho Việt Cộng trên đường tiến vào
Saigon và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao cho Việt
Cộng.
Tiến trình công tác nội ứng trong việc bàn giao
miền nam cho Việt Cộng ngày 30 tháng 4 năm 1975 còn có sự tham dự của cụm
siêu điệp VĐ2, nằm trong phòng tình báo chiến lược M22, thuộc trung ương
cục miền nam, chúng thúc đẩy, chỉ đạo, cố vấn để giúp cho" tổng
thống vi hiến" Dương Văn Minh mau hoàn thành công tác đầu hàng, được
thông qua tên kỷ sư Tô Văn Cang.
Do đó vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, tên Tô Văn Cang
đến tiếp xúc và" hội ý" với tên đại tá Việt Cộng là Nguyễn Văn
Khiêm, bí danh Sáu Trí, đang cư trú tại nhà tên Ba Lễ ( thuộc cơ sở gián
điệp nằm vùng Việt Cộng), ở một con hẻm, đường Triệu Đà, Saigòn làm trung
gian, liên lạc qua một người tên là Nguyễn Văn Diệp ( thuộc chính phủ
Dương Văn Minh) trong việc" liên hệ công tác" là gặp phía tổ
chức Việt Cộng, của các gọi là:" chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng
Hòa Miền Nam Việt Nam".
Tên đại tá Việt Công Sáu Trí chỉ đạo Dương Văn Minh
thực hiện công tác đầu hàng vô điều kiện qua sự liên lạc của Nguyễn Văn
Diệp, sau đó trình lại cho Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu…nên miền nam rơi
vào tay giặc Cộng ngày 30 tháng 4 năm 1975 một cách tức tưởi, trong khi
đó miền nam vẫn còn hơn 100 ngàn quân, vùng 4 chiến thuật có kế hoạch
phản công và nhất là miền tây còn có lực lượng Hòa Hảo.
Cuộc bức tử miền nam Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975
là do tên phản quốc, Việt Cộng nội tuyến Dương Văn Minh thực hiện"
đầu hàng vô điều kiện" và Nguyễn Hữu Hạnh: " bàn giao trong
vòng trật tự", làm gảy cả kế hoạch phản công từ vùng 4 chiến thuật
do các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai…đảm trách để cứu
nước, nên sau đó, các vị đã tuẫn tiết, đền xong nợ nước.
Kẻ phản gian, Việt Cộng nội tuyến Dương Văn Minh phè
phởn sống trong niềm tự hào" công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam", đoạn được bố trí xuất ngoại, hình như cũng làm công tác
của đảng ở nước ngoài? Điều nầy cũng có thể đặt ra đối với trường
hợp của Dương Văn Minh, từng có quá trình làm nội tuyến cho Việt Cộng qua
hai cuộc biến động lịch sử: phá nát miền nam qua đảo chánh 1 tháng 11 năm
1963 và bàn giao miền nam cho giặc Cộng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sự bàn giao miền nam" trong vòng trật tự"
cho giặc Cộng của tên Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh và đồng bọn nằm
vùng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đưa đất nước đến tang thương, nên ngày nầy
là ngày QUỐC HẬN. Tuy nhiên, bọn Việt Gian muốn
xóa hết tội ác, chúng tìm đủ mọi cách thay đổi tên" từ ngày quốc
kháng, ngày tỵ nạn và nay là NGÀY DIỄN HÀNH CHO TỰ DO…chúng" hồ hởi
phấn khởi" phát động" diễn hành" để ăn mừng" như có
bác trong ngày vui đại thắng" ngay tại vùng đất của người bỏ
nước ra đi tìm tự do, là một thách thức nghiêm trọng, khinh thường mọi
người. Nếu ai diễn hành là đồng bọn, cùng nhau mừng ngày Việt Cộng chiếm
miền nam.
Quân lực VNCH kiên cường, giữ đất suốt hơn 20
năm, tạo những chiến công lẫy lừng: Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972..và
làm chủ tình hình trên khắp chiến trường từ Quảng Trị đến Cà Mau. Tuy
nhiên, cấp lãnh đạo trung ương đã làm cho miền nam sụp đổ sau vụ đảo
chánh phản loạn của tên Việt Cộng nội tuyến, trong vai trò trung tướng
Dương Văn Minh. Nếu miền nam không bị đảo chánh, ấp chiến lược được duy
trì, thì Việt Cộng khó mà vùng dậy, miền nam có khả năng vượt xa hơn
nhiều nước trong vùng như Thái Lan, Mã Lai…có thể sánh cùng với Nam Hàn
ngày nay.
Sau đảo chánh, tình hình chính trị trung ương
rối loạn, là điều mà súc vật Việt Cộng rất mong muốn, đó là công đầu của
tên Dương Văn Minh, tiếp theo là thời đại tướng Nguyễn Khánh cầm quyền,
nhưng ông nầy lại tìm cách móc nối với Việt Cộng bằng cách thả vợ của tên
Huỳnh Tấn Phát là Bùi Thị Nga vào mật khu, có mang theo mật thư móc nối.
Sau đó là thời thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, xảy ra cuộc tranh quyền với
trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Cuộc bầu cử năm 1971, tên Nguyễn Cao Kỳ, vì
quyền lợi cá nhân nên đã lấy 2 ngàn quả lựu đạn M-K 3 của quân đội, cung
cấp cho đám Việt Cộng nằm vùng là Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi…để phá hoại
phòng phiếu.
Đến thời Nguyễn Văn Thiệu, phá nát quân đội ở quân khu 1 và 2 bằng cuộc rút
quân hổn loạn, được gọi là:" tái phối trí lực lượng" và biến
thành" di tản chiến thuật", gây cái chết của hơn 150.000 dân,
để lại cho Việt Cộng hơn 100 phi cơ và 70 ngàn tù binh ( nhiều người bị
hành quyết)…Nguyễn Văn Thiệu cũng là tội đồ dân tộc, chính hắn phá nát
quân đội VNCH qua những việc làm: ban lịnh bất nhất" sáng rút, chiều
tàu chiếm", rút hết các đơn vị tổng trừ bị là Thủy Quân Lục Chiến,
Dù, trói chân trung tướng Ngô Quang Trưởng, sau đó mất quân khu 1, ép
thiếu tướng Phạm Văn Phú rút quân, nhưng tướng Phú phản đối, nên tập đoàn
Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm thăng cấp chuẩn tướng
cho đại tá Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc di tản trên tử lộ là quốc lộ 7,
khiến nhiều người bị chết.
Một điều đau lòng là: vấn đề an ninh, tình báo,
có mặt yếu kém, khi các giới chức an ninh phát giác ra Việt Cộng nội
tuyến, nhưng gốc lớn như tướng lãnh, nên người phát giác trình lên cấp
trên, bị vạ lây, nhiều khi mất chức, bị đổi đi nơi khác. Do ảnh hưởng lối
suy nghĩ xưa "quan lại" nên những tên Việt Cộng nằm vùng cao
cấp, như trung tướng Dương Văn Minh, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh vẫn nằm
vùng trong bình phong cấp tướng. Việt Cộng không tài giỏi, nhưng miền nam
vấp phải những sai phạm nghiêm trọng về mặt an ninh, tình báo…hậu quả bài
học nầy kéo dài đến ngày nay./.
Trương
Minh Hòa
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết