Nghiệp
báo sẽ bớt nếu ta biết “đấm ngực” cúi đầu tạ tội với anh linh TT Ngô Đình Diệm
kể cả nước Mỹ mà gia đình Kennedy đã phải gánh chịu, hơn 58 ngàn binh sĩ HK
chết vaf mất tích, và hàng chục ngàn thương phế binh
HK
đang sống vất vưởng như chết trên toàn nước Mỹ cũng như người dân HK ngậm câm
vì tủi hổ vì một trang sử phản bội thất trận ô nhục chưa từng có trong lịch sử
trước hay sau của HK. Đó là cái giá phải trả khi chính quyền do dân bầu phản
bội chính nghĩa tự do.
Chusng
ta chủ còn một phương cách “đấm ngực” ăn năn, sống hiền lương xà hằng ngày cầu
xin Chúa tha thứ cho HK.
Đặng
Bảo
19/10/2017
Sent
from my iPhone
On Oct 19, 2017, at 10:03 AM, VIETLONG NGUYEN > wrote:
Lich sử VN
đang bị làm rối tung như mớ bòng bong do những ác tâm và hèn nhát thủ đoạn của
phe nhóm tham vọng chính trị bất lương, dùng Tôn Giáo làm đòn bẫy, dùng Tu sĩ
làm lợi khí đấu tranh chiếm đoạt chính nghĩa, dùng quyền bính súng đạn để tiêu
diệt CHÂN LÝ, biến ngụy biện Cộng Sản thành khí cụ NGỤY
BIỆN QUỐC GIA để biện minh cho "lẽ phải bất lương" của
tham vọng QUỐC GIÁO...và cuối cùng phải lưu vong , "mất cả chì lẫn
chài", QUỐC GIÁO trở thành CỘNG SẢN GIÁO, đây là vết thương nhức nhối của
cả toàn Dân Việt.
Lạc hướng đấu tranh bởi những ngọn
giáo, lưỡi gươm "phục hận" kề sát cuống họng bắt phải tuân theo định
luật " Nhân-Quả", những cáo buộc vu vơ và đầy
sợ hãi, cuối cùng, liu điu cũng đã nở rộ từ môi trường hoang tưởng liu điu như
trong câu ca dao :
Trứng Rồng thì nở ra rồng
Liu điu lại nở ra giòng
liu điu
Và “chu
kỳ mưng mủ” đấu tranh cũng theo bước chân tham vọng quyền
lực (như ông Trịnh Du đã tôn vinh
–Trần kiều Ngọc-Nữ Tổng Thống VN Tương lai) mà trở lại để “CHỐNG
ÁC-KHÔNG CHỐNG CỘNG” như binh biến 1963: “ Quân-Dân không chống Cộng nữa, mà chỉ CHỐNG ÁC”
, và CS đã “bất chiến tự nhiên thành”.
Bình tâm để gỡ rối từng
gút chỉ trong búi chỉ rối là trách nhiệm của LƯƠNG TÂM thời đại, là trách nhiệm
của mỗi CÔNG DÂN VNCH.
Trong mùa Tưởng Niệm các Chiến Sĩ VỊ
QUỐC VONG THÂN, xin hãy thắp lên một nén TÂM NHANG TẠ LỖI hơn
là đốt lên ngọn đuốc thiêu thân phá hoại cuộc đời. Xin gởi tới bài viết sau đây
như một sự khởi đầu gỡ rối.
Nguyễn đăng Trình
AI RA LỆNH GIẾT CỤ DIỆM ? - Đặng Kim Thu
để
Tác giả bài viết dưới đây là Ông
Đặng Kim Thu, cựu SVSQ/TVBDL/K19, cựu tùy viên của Đại Tướng Cao Văn Viên, cựu
quận trưởng quận Chợ Gạo.
Tóm tắt, vụ 1-11-1963 hoàn toàn do
Mỹ chỉ đạo. Nhưng Mỹ không chủ trương giết anh
em ông Diệm-Nhu , mà chính là tướng Dương Văn Minh.
Từ đơn vị tác chiến (tiểu đòan 41
BĐQ), tôi được lệnh về làm Sĩ quan Tuỳ Viên cho Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng
Tham Mưu Trưởng vào cuối năm 1966. Vì tôi không có nhà ở Sài Gòn nên ông bà Đại
Tướng cho tôi tạm ở trong tư dinh thời gian đầu .<!>
Với công việc hoàn toàn mới lạ,
nhiều bỡ ngỡ, cộng thêm sự gò bó ở trong dinh của Đại Tướng, mới đầu tôi hơi
nản lòng, nhưng nhờ sự giúp đỡ, chỉ dẫn tận tình của người tiền nhiệm của tôi
là Quách tinh Cần K20//TVBQGĐL, và sự cởi mở của ông bà Đại Tướng nên tôi cảm
thấy an tâm đôi chút.
Những ngày đầu về ở trong dinh của
Đại Tướng, cứ sau bữa cơm tối ông xuống phòng tùy viên chỉ rõ cách sinh hoạt trong
nhà, cách tiếp nhận đìện thoại từ bên ngoài gọi vào, an ninh vòng ngoài, an
ninh vòng trong, và v.v…
Ông bảo tôi:
– Thông thường các tướng lãnh khác tôi đều tiếp họ tại văn
phòng, ngoài giờ làm việc tôi không tiếp ai ở nhà riêng cả, nếu có vị tuớng tá
nào muốn gặp tôi ngoài giờ làm việc, mà không có hẹn, chú không được mở cổng,
mà phải báo tôi trước để tôi quyết định có tiếp họ hay không, đặc biệt chú phải
quan sát, xem vị tướng đó có đem theo lính hộ tống hay không. Trong mọi trường
hợp chú đừng cho lính hộ tống vào bên trong dinh, cổng phải luôn luôn khóa chốt
Nhưng đặc biệt có hai vị cựu tướng lãnh khi tới nhà muốn gặp tôi bất cứ lúc
nào, chú cũng mở cổng mời vào phòng khách rồi báo tôi ra tiếp, không cần phải
hỏi tôi trước, hai vị đó là trung tướng Trần văn Đôn và trung tướng Tôn thất
Đính. Mà chú có bao giờ thấy hai vị tướng đó chưa?
Tôi trả lời “dạ chỉ biết qua hình ảnh trên báo chí”. Ông bảo:
“Cũng tốt, vậy thi ráng nhận diện nếu hai vị đó tới.”
Xong ông nhìn tôi thấy có vẻ như tôi muốn tìm hiểu lý do nào mà
hai ông cựu tướng này được đại tướng ưu ái như vậy.? Ông nói thêm:”chú muốn
biết tại sao tôi đối xử với hai ông đó đặc biệt như thế chứ gì, được rồi để mai
tôi kể cho chú nghe vì mai là chúa nhật có nhiều giờ rảnh hơn”
Hôm sau ăn cơm trưa xong ông xuống phòng tôi và bắt đầu kể:
“Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày Lễ Các Thánh, quân nhân, công
chức nghỉ buổi sáng khoảng 10 giờ sáng tôi được điện thoại của chánh văn phòng
thiếu tướng Khiêm mời vào Bộ Tổng Tham Mưu họp ở phòng họp số 1, và phải có mặt
trước 1 giờ. Tôi tới lúc 1 giờ kém 10 phút, thấy có đông các đơn vị trưởng sẵn
đó rồi, nhìn mặt toàn là các sĩ quan thân tín của ông Diệm. Đúng 1 giờ. hai
qưân cảnh ở ngoài đóng cửa phòng họp và khoá lại, mọi người trong phòng ngơ
ngác nhìn nhau, đại tá Lê Quang Tung nói lớn:
– Họp hành khỉ mẹ gì, ai chủ toạ phiên họp sao chưa tới mà họ
khoá cửa nhốt mình rồi, chuyện gì đây!
Vài phút sau đó có tiếng mở cửa, đại úy Nhung cận vệ của trung
tướng Dương văn Minh đứng ngoài cửa nới với vào:
– Mời đại tá Lê quang Tung – Lực Lượng Đặc Biệt và đại tá Cao
văn Viên Nhẩy Dù lên lầu gặp trung tướng Dương văn Minh.
Vì đại tá Tung ngồi gần cửa nên bước
ra trước, tôi ở trong xa cửa hơn nên đi ra sau. Khi tôi ra khỏi phòng họp thì
nhìn thấy đại tá Tung đã bị đại úy Nhung còng tay dẫn xuống xe, còn tôi cũng bị
1 sĩ quan khác còng nhưng mới vừa bị còng 1 tay thì tình cờ thiếu tướng Tôn
thất Đính trên lầu đi xuống chợt thấy vậy, ông bảo tháo còng tôi ra, rồi sĩ
quan đó cùng tướng Đính dẫn tôi lên lầu gặp trung tướng Minh .
Đại úy Nguyễn
Văn Nhung - Cận vệ của Tướng Dương Văn Minh
Tướng Minh nói:
– Hôm nay “moi” và một số các tướng
lãnh đảo chánh ông Diệm “toi” nghĩ sao?
Tôi trả lời:
– Chuyện quan trọng như vậy mà tới giờ này trung tướng mới cho
tôi biết thì tôi đâu có quyết định được gì.
Lúc đó trung uý Trương ( hay Trần)
Tự Lập sĩ quan tùy viên của trung tướng Minh lăm le khẩu súng carbine chĩa vào
lưng tôi như sẵn sàng bắn tôi. Anh ta hỏi tôi :
– Đại tá có theo Hội Đồng Quân Nhân
Cách Mạng không?
Tôi đáp:
– Tinh thần của quân nhân thuộc binh chủng nhẩy dù không trả lời
trước áp lực.
Thiếu tướng Đính thấy vậy bảo tên trung úy Lập đừng hỗn với cấp
trên, rồi tướng Đính dẫn tôi về lại phòng sô 1 đóng cửa lại.
Vài vị sĩ quan đang bị nhốt chung trong phòng tới hỏi tôi chuyện
gì vậy? Tôi nói họ đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có người hỏi: “còn đại tá
Tung đâu? tôi nói “bị còng dẫn đi chỗ khác rồi”.
Khoảng 15 phút sau tôi lại bị dẫn lên gặp Trung tướng Minh lần
nữa, lần này Trung tướng Minh nói với tôi:
– Có 1 tiểu đoàn nhẩy dù theo “Chiến Đoàn Vạn Kiếp” của trung tá
Vĩnh Lộc từ Bà Rịa về tới Sài Gòn, nhưng không chịu tấn công vào Dinh Gia Long,
đòi phải được liên lạc trực tiếp với “toi”, vậy nếu “toi” chịu làm 2 việc như
sau: Thứ nhất tuyên bố theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thứ hai ra lệnh cho
tiểu đoàn nhẩy dù ở Bà Rịa về tấn công vào Dinh Gia Long, khi thành công “moi”
gắn lon thiếu tướng cho “toi” liền.
Tôi trả lời rằng chuyện của trung tướng làm, tôi không chống
đối, nhưng bảo tôi phản lai “thầy” tôi thì tôi không làm, trung tướng thông cảm
cho tôi (lời người viết: xin nói rõ thêm, trước khi chỉ huy lực lượng nhẩy dù,
đại tá Viên là chánh Võ Phòng rồi Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống);
Tôi được dẫn trả lại phòng họp số 1, các vị sĩ quan trong phòng
lại hỏi, tôi trả lời chưa hết thì chánh văn phòng của thiếu tướng Khiêm xuống dẫn
tôi lên văn phòng giữ riêng tôi ở đó.
Sau khi đảo chánh thành công tôi được cho về nhà, rồi hằng ngày
tôi phải lên Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh . Độ 5,6 ngày sau trung tướng Khiêm “lên
trung tướng ngày 2 tháng 11 năm 1963” tự ý quyết định cho tôi trở về chỉ huy Lữ
đoàn nhẩy dù như cũ, còn các vị sĩ quan bị nhốt chung với tôi đa số bị giải ngũ
hoặc bị hạ tầng công tác.
Rồi sau đó không lâu tôi được trung
tướng Đôn cho biết: sau khi tôi từ chối lời yêu cầu của trung tướng Minh thì
trung tướng Minh bàn với trung tướng Đôn định đưa tôi theo số phận của đại tá
Lê quang Tung, nhưng trung tướng Đôn không đồng ý và nói rằng:
– Trước khi tiến hành cuộc “cách mạng”
anh” (ông Minh) có hứa với chúng tôi hạn chế tối đa vìệc gây đổ máu các sĩ quan
cấp tá không ủng hộ chúng ta, anh đã cho giết đại tá Hồ tấn Quyền, giết đại tá
Lê quang Tung, thiếu tá Lê quang Triệu ... bây giờ anh
muốn giết luôn đại tá Viên nữa sao? Hơn nữa dù “ lui ” không hợp tác với mình
nhưng “lui” đâu có chống mình mà giết “lui”.
Tôi nghĩ dường như tướng Khiêm cũng
biết ý định đó của tướng Minh nên mới ra lệnh đem tôi lên văn phòng của ông
giao cho chánh văn phòng là đại úy Phạm Bá Hoa giữ riêng tôi ơ đó, rồi ông
Khiêm bảo:”Ai muốn kêu đại tá Viên đi đâu phải có lệnh của tôi mới cho đi”
Đấy là 3 người ơn cứu tử tôi đó !”
<datauri-file.jpeg>
__._,_.___
Tại sao phải
giết cả Diệm và Kennedy?
Lữ Giang
Biến cố tháng 11/1963 tại Miền Nam Việt Nam đã gây khá nhiều rắc
rối cho chính phủ Hoa Kỳ về đối nội cũng như đối ngoại. Nhưng cho đến nay, ít
ai tin rằng Hoa Kỳ sẽ từ bỏ các phương thức đã áp dụng tại Miền Nam Việt Nam
trước đây để bảo vệ quyền lợi của Mỹ, nhất là của nhóm tài phiệt quốc phòng,
nên các nhà đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ và phát triển cần rút kinh
nghiệm lịch sử để không bị biến thành những con bài thí như VNCH trước
30.4.1975.
Các tài liệu được tiết lộ cho thấy có ba nhân vật quan trọng của
chính phủ Hoa Kỳ lúc đó đã dính líu trực tiếp đến việc hạ sát Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đó là Averell
W. Harriman (1891 – 1986), Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách
về Các Vấn đề Chính trị; Henry
Cabot Lodge (1902 – 1985), Đại Sứ
Hoa Kỳ tại VNCH và Lucien
E. Conein (1919 – 1998), đặc vụ
của CIA tại Việt Nam. Trong ba nhân vật này Harriman là người đóng vai trò chỉ
đạo và quyết định.
Tài liệu cũng cho thấy tại sao cả Tổng Thống Diệm lẫn Tổng Thống
Kennedy phải bị giết.
VAI
TRÒ CỦA HARRIMAN
Ngày 4.4.1963, một nhà ngoại giao nổi tiếng của Mỹ là Averell W.
Harriman được bổ nhiệm làm Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về Các Vấn đề Chính
trị, kiêm Chủ tịch Đoàn Công tác Đặc biệt về Chống Du kích chiến. Ngoài các
chức vụ này, ông còn được giao cho lãnh đạo bốn cơ quan tình báo chính của Hoa
Kỳ nên quyền hành rất lớn.
Harriman
(giữa) đang nói chuyện với Stalin
“Toán
Việt Nam của Harriman” (Harriman’s Vietnam team) được thành lập do
Roger Hilsman đứng đầu. Hilsman là Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông Vụ,
Cố vấn về chính sách Việt Nam và Giám Đốc Văn Phòng Tình Báo và Sưu Tầm tại Bộ
Ngoại Giao. Toán này gồm có 5 chuyên gia phụ trách về Đông Nam Á là Michael V.
Forrestal, William Heal Sullivan, Joseph A. Mendenhall, Paul Kattenburg và
James Thomson. Kế hoạch phá sập chế độ Ngô Đình Diệm đều do nhóm này đưa
ra và thực hiện.
Ngày 8.3.1963, một vụ nổ trước đài phát thanh Huế đã làm cho 8 em tham
dự biểu tình bị tử nạn. Cho đến nay, nguyên nhân của biến cố này vẫn chưa được
xác định. Ngày 11.6.1963 Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã “tự thiêu” tại ngã tư
Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Sài Gòn. Tin này được các phóng viên CIA của
Mỹ chụp hình và loan đi, làm thế giới rung động. Nhiều người tin rằng đó là một
biến cố do Phật Giáo tổ chức để chống ông Diệm. Nhưng sau này, các tài liệu mật
của Mỹ công bố cho biết vụ
này do CIA thực hiện. Người trực tiếp chỉ huy
là William
Kohlmann, và hai người có nhiệm vụ thi hành là Trần
Quang Thuận, một nhân viên CIA, và Đại
đức Thích Đức Nghiệp, một cộng tác viên của CIA. Cuốn
video được công bố cho thấy Thầy Quảng Đức bị thiêu sống chứ không phải “tự
thiêu”!
Ngày ngày 18.8.1963, CIA bảo Tướng Trần Thiện Khiêm, một nhân viên
CIA, dẫn một số tướng lãnh Việt Nam vào Dinh Gia Long xúi ông Diệm ban hành
lệnh giới nghiêm, lục xét các chùa và bắt các tăng ni gây rối loạn, nếu không
thì quân đội sẽ không chịu chiến đấu nữa. Ông Diệm đã trúng kế CIA. Vụ lục xét
các chùa đã xảy ra đêm 20 rạng ngày 218.1963.
Sau đó, Harriman bảo Roger Hilsman soạn thảo công điện ra lệnh đảo
chánh. Họ gặp ông George Ball ở sân golf và yêu cầu ông gọi cho Tổng Thống
Kennedy ở Cap Cod biết. Tổng Thống trả lời rằng ông đồng ý công điện gởi đi nếu
các cố vấn của ông cũng đồng ý như vậy. Thế là ngày
24.8.1963 một công điện ra lệnh đảo chánh mang tên DEPTEL 243
được gởi cho Đại Sứ Cabot Lodge ở Sài Gòn để thi hành. Khi trở về và xem lại
công điện đó, Tồng Thống Kenndy đã tỏ ra hối tiếc:
“Theo
sự xét đoán của tôi, bức điện đó đã được soạn thảo tồi tệ. Bức điện đó phải
không bao giờ được gởi vào hôm thứ bảy. Tôi phải không bao giờ biểu đồng tình
nếu không được bàn luận bàn tròn.”
VAI
TRÒ CỦA ĐẠI SỨ CABOT LODGE
Trong cuốn hồi ký “The
Storm Has Many Eyes” (Bảo Tố Có Nhiều Con Mắt), Đại Sứ Henry Cabot Lodge
đã kể lại rằng một nhân viên tình báo cao cấp và hiểu biết rất rõ về Việt Nam
đã nói với ông trước ngày ông đi Sài Gòn rằng “trừ
khi họ rời đất nước của họ, không có một quyền lực nào trên trái đất có thể
ngăn cản việc ám sát Thổng Thống Ngô Đình Diệm, người em của ông ta là ông Ngô
Đình Nhu và người em dâu của ông ta là bà Nhu.”
Theo ông, sự tiên đoán này đã trở thành chính xác một cách bi thảm. Ông Lodge
cũng đã từng nói với ký giả David Haberstam, người đã viết nhiều sách về chiến
tranh Việt Nam: “Chúng
ta phải làm gì với họ nếu họ còn sống? Bất cứ Đại Tá Blimp
(một nhân vật biếm họa) nào trên thế giới đều có thể xử dụng họ”
Trên đây là hai mẫu chyện được ông Lodge đưa ra để giải thích rằng
việc giết ông Diệm và ông Nhu là chuyện phải làm.
Đại Tá Mike Dunn, Phụ Tá Đặc Biệt (Special Assistant) và là bạn
thân của Đại Sứ Lodge đã tiết lộ:
Sau khi đầu hàng, ông Diệm có gọi điện thoại cho ông Lodge một lần
nữa vào lúc 7 giờ sáng ngày 2.11.1963 trước khi ông bị bắt và bị hạ sát. Ông
Diệm xin ông Lodge giúp đỡ trong giờ cuối cùng của ông ta, ông Lodge bảo ông ta
“giữ máy” (put on hold) rồi bỏ đi một lúc (có lẽ đi xin chỉ thị). Khi trở lại,
ông Lodge đề nghị cho hai anh em được tỵ nạn, nhưng không hứa sẽ sắp xếp việc
ra đi cho đến ngày mai. Khi đó Đại Tá Dunn tình nguyện chính ông ta đi cứu hai
anh em khỏi tay các nhà lãnh đạo cuộc đảo chánh. Ông Lodge đã từ chối một cách
thẳng thừng: “Chúng ta không thể can dự vào việc đó.”
Cũng trong cuộc phỏng vấn nói trên, ông Dunn cho biết khi ông
Lodge bảo ông Diệm “giữ máy”, ông liền thông báo cho Lucien Conein tại bộ chỉ
huy của cuộc đảo chánh về ông Diệm đang ở đâu.
Trong cuốn “Lodge in Vietnam” bà Blair cho biết lúc 5 giờ
sáng ngày 2.11.1963, ông Lodge đã leo lên một bao lơn (balcony) để quan sát
thành phố và ở đó cho đến khi cuộc chiến đấu chấm dứt vào lúc 7 giờ. Không có
nơi nào ghi lại những quyết định hay mệnh lệnh của ông trong những giờ đó.
Tướng Trần Văn Đôn, một thành phần của bộ chỉ huy đảo
chánh, xác quyết: “Tất
cả những sự việx xẩy ra đều có sự tiếp tay của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge.”
(Việt Nam nhân chứng, tr. 274).
VAI
TRÒ CỦA LUCIEN CONEIN
Lucien Conein sinh năm 1919 tại Paris, đã từng làm điệp viên cho
OSS (tiền thân của CIA) từ năm 1943. Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt
động trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, sau đó, ông
trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force). Năm 1961 ông đã xin
về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức
Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn
cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các
tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi phục vụ dưới quyền của Đại Tá
Lansdale, để tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Các tướng Trần
Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh… đều do Lucien Conein móc nối. Đại Sứ
Henry Cabot Lodge gọi Lucien Conein là “the
indispensable man” (con người cần thiết)
Lucien
Conein (trên - giữa) và các tướng Kim, Đính, Đôn, Vỹ, Xuân.
Khi cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 xẩy ra, Lucien Conein đến Bộ
Tổng Tham Mưu chỉ đạo trực tiếp cuộc đảo chánh. Ông ngồi trên ghế của Tướng Lê
Văn Tỵ, đặt hai túi bạc dưới ghế, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu 375
Magnum, chỉ huy các tướng Việt Nam thực hiện đảo chánh. Trong cuốn Việt Nam
Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra
khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã hỏi: “Hai ông ấy đi
đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng”.
Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On
ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.”
(Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng.) (Việt
Nam nhân chứng, tr. 228)
TIẾT
LỘ CỦA TỔNG THỐNG JOHNSON
Cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở
Austin, Texas, công bố ngày 28.2.2003, cho biết vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống
Johnson đã gọi điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay nói về cuộc đảo
chánh lật đổ và giết ông Diệm như sau:
“Johnson: ... Nhưng
ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm...
MacCarthy: Có chứ.
Johnson: (rằng)
ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất
cả chúng ta đã họp lại với nhau và XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA
để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng ta thật sự không có sự ổn định chính trị [ở
Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”
Ít phút sau, trong một cuộc nói chuyện với Tướng Maxwell D. Taylor
đang là Đại Sứ Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, Tổng Thống Johnson lại nhắc lại điều đó.
Ông nói với Tướng Taylor:
“Họ
khởi đầu và nói: ‘Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì ông ta không tốt. Chúng ta
hãy, chúng ta hãy lật đổ ông ta. Và chúng ta đã làm.”
Tướng Taylor đồng ý:
“Phải,
sự việc đã khởi đầu tất cả như thế. Đúng là sự việc đã khởi đầu như thế.”
Tổng Thống Johnson giận dữ trả lời:
“Và lúc đó tôi đã van nài họ, ‘Xin vui lòng
đừng làm điều đó’. Nhưng sự việc vẫn được khởi sự. Và họ đã lật đổ ông ta.”
XÁC
ĐỊNH NGƯỜI RA LỆNH GIẾT
Sau khi vụ hạ sát ông Diệm xảy ra, Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh
cho ông William R. Corson,
một nhân viên CIA cao cấp tại Sài Gòn năm 1963 điều tra xem việc gì đã xẩy ra
và ai có trách nhiệm. Trả lời của ông Corson như sau:
“Mọi
chỉ thị từ Averell Harriman... Các lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm và bào đệ
của ông ta phát xuất từ Harriman và được phụ tá quân sự của Henry Cabot Lodge
thực hiện.”
Phụ tá quân sự của Đại Sứ Henry Cabot Lodge được ông Corson nói ở
đây không ai khác hơn là Trung Tá Lucien Conein.
Theo ông Corson, năm 1963, Harriman đã điều hành Việt Nam không cần
hỏi ý kiến của Tổng Thống hay Tổng Trưởng Tư Pháp. Ông Corson cho biết Tổng
Thống Kennedy bắt đầu nghi ngờ rằng không một ai trong toán an ninh quốc gia là
trung thành.
Trưởng Trạm CIA tại Saigon là “Jocko” Richardson được thay thế
bằng một toán không tên (no-name team). Nhân
vật chính là một sĩ quan của Đội Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Army),
đó là Đại
tá John Michael Dunn, nhận mệnh lệnh không phải từ hệ cấp CIA thông
thường mà từ Harriman và Forrestal. Theo Corson, “John Michael Dunn được biết
như là người tiếp xúc với những người âm mưu đảo chánh”, mặc dù vai trò
của Dunn không bao giờ được công khai hoá trước công luận. Corson tin rằng
Richardson bị cất chức để Dunn, một người được Đại Sứ Cabot Lodge chỉ định cho
“các công tác đặc biệt” (special operations), có thể hành động không bị trở
ngại.
TỔNG
THỐNG KENNEDY KHÔNG KIỂM SOÁT ĐƯỢC!
Trong cuốn hồi ký “In Retrospect the
Tragedy and Lessons of Vietnam”, ôngt Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Quốc
Phòng Mỹ lúc đó, đã ghi lại phản ứng của Tổng Thống Kennedy sau khi được tin
ông Diệm đã bị giết như sau:
“Khi
Tổng Thống đọc mẩu tin này, mặt ông tái xanh như tàu lá. Tôi chưa hề thấy ông
xúc động mạnh như vậy đến bao giờ. Theo ông Forrestal thuật lại, cái chết của
hai người “đã làm ông rúng động một cách sâu xa, gây bàng hoàng tâm trí và đánh
mạnh vào tiềm thức tín ngưỡng... làm lung lay lòng tin tưởng... về những gì ông
được khuyến cáo liên quan đến Nam Việt Nam”.
Arthur Schlesinger Jr. ghi nhận rằng Tổng Thống “rất buồn thảm và bối rối cùng
cực”, tinh thần suy sụp chưa từng thấy kể từ sau vụ thất bại ở Vịnh Con Heo.
“Đọc
xong bản tin, Tổng Thống nghĩ đến ảnh hưởng của cái chết của hai người có tác
dụng xấu ngay trong nước và ở hải ngoại... Tổng
Thống nghĩ rằng sau hai mươi năm phục vụ quê hương Việt nam, sinh mạng ông Diệm
không thể kết thúc như vậy.”
Tổng
Thống Kennedy họp báo
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, Tổng Thống Kennedy không còn tin tưởng
vào cuộc chiến thắng tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 14.11.1963,
Tổng Thống hỏi:
“Bạn
có chào thua tại miền Nam Việt Nam không?”.
Rồi ông tự trả lời câu hỏi của chính mình:
“Chương
trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là cho nền an ninh của chúng ta, nhưng tôi
không muốn Hoa Kỳ đưa quân tác chiến sang đó.”
Sau đó ông nói:
“Giờ
đây mục tiêu của chúng ta là đưa quân nhân Hoa Kỳ về nước, cho phép Việt Nam tự
duy trì lấy nước mình như là một quốc gia độc lập.”
Ngày 22.11.1963 Tổng Thống Kennedy đã bị hạ sát tại Dallas.
LÝ
DO KENNEDY CŨNG BỊ GIẾT NHƯ DIỆM
Lý do Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải bị giết đã được Đại Sứ Henry
Cabot Lodge giải thích rất rỏ: “Chúng ta phải làm gì
với họ nếu họ còn sống? Bất cứ Đại Tá Blimp (một nhân vật biếm họa) nào trên
thế giới đều có thể xử dụng họ.”
Còn Tổng Thống Kennedy cũng phải bị giết vì hai lý do:
Lý do thứ nhất là báo cáo của ông William R. Corson, một nhân viên
CIA cao cấp tại Sài Gòn, đã cho biết: “Các
lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm và bào đệ của ông ta phát xuất từ Harriman
và được phụ tá quân sự của Henry Cabot Lodge thực hiện.”.
Biết rằng khó tránh khỏi các biện pháp thanh trừng nội bộ mà Tổng Thống Kennedy
sẽ đưa ra, các thủ phạm đã ra tay trước.
Lý do thứ hai là trong khi các thế lực quân phiệt đứng đàng sau
đòi hỏi phải mở rộng chiến tranh để tiêu thụ vũ khí cũ và thí nghiệm các vũ khí
mới, Kennedy gây trở ngại bằng cách ra ra lệnh rút quân khỏi Việt Nam nên ông
phải bị giết.
Khi hay tin Tổng Thống Kennedy bị ám sát, Phó Tổng Thống Lyndon B.
Johnson chỉ vào bức hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang treo trong nhà ông và
nói: “Chúng
ta đã nhúng tay vào việc giết ông ta. Bây giờ chuyện đó lại xẩy ra ở đây.”
Đúng như vậy! Nhưng người Mỹ vẫn tiếp tục hành động theo quyền lợi
của giới tài phiệt Mỹ, bất chấp những hậu quả tai hại có thể gây ra.
Ngày 19.10.2017
Lữ
Giang
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết