Thứ sáu 10 Tháng Năm 2013
Chu Văn An - Sáng
ngời đức độ nhà giáo Việt
Tượng thờ Chu Văn An trong Văn
Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội
DR
Hơn 600
năm trước, nhà Nho Chu Văn An đã một thời làm rạng danh cho giới sĩ phu,
nêu cao khí tiết thanh cao và thể hiện tinh thần chính trực “uy vũ bất năng
khuất”. Sự nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo, khi còn ở
quê thì ông mở trường dạy học, khi làm quan thì làm Tư Nghiệp Quốc Tử Giám,
dạy thái tử và đào tạo nhiều học trò thành những người giữ trọng trách quốc
gia, khi từ quan lại trở về quê dạy học. Trong lịch sử giáo dục Việt Nam,
Chu Văn An luôn được xem là biểu tượng của người thầy mẫu mực.
Đọc
sách Thánh hiền không phải để tìm kiếm công danh
Chu Văn
An tên thật là Chu An, tên chữ là Linh Triệt, sau về ẩn cư thì xưng hiệu là
Tiều Ẩn. Khi ông mất, được vua phong tước Văn Trinh Công, nên người đời sau
mới gọi là Chu Văn An. Ông sinh ra tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện
Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Sử
sách không chép rõ ông sinh năm nào, nhưng theo thần tích tại đình làng
Thanh Liệt, nơi thờ ông làm Thành Hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn 1292 và
mất năm Canh Tuất 1370.
Chu An
là người chính trực, không màng danh lợi. Ông đỗ Thái học sinh (tức Tiến
sĩ), nhưng không ra làm quan mà ở lại quê nhà mở trường dạy học. Ông có
công lớn trong việc truyền bá giáo dục tư tưởng Khổng Giáo ở Việt Nam. Học
trò của Chu An lên đến vài ngàn người, xa gần đều biết tiếng. Đến mức mà
vua Trần Minh Tông vời ông ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám (tức Hiệu trưởng).
Chu An
là thầy dạy của hai vị hoàng tử mà sau này đều trở thành vua là Trần Hiến
Tông và Trần Dụ Tông. Minh Tông làm vua từ năm 1314 đến năm 1329 thì nhường
ngôi cho con trai và lên làm thái thượng hoàng đến khi mất vào năm 1357. Kế
nhiệm Minh Tông là vua Hiến Tông, trị vì từ năm 1329 đến năm 1341 thì mất.
Sau đó, em trai Hiến Tông là Dụ Tông lên ngôi, trị vì từ năm 1341 đến năm
1369.
Như vậy,
Chu An làm Tư nghiệp Quốc tử giám trải ba triều: Minh Tông, Hiến Tông và Dụ
Tông. Thế nhưng, đến năm 1357, sau khi thượng hoàng Minh Tông băng hà, thì
vua Dụ Tông được nắm trọn đại quyền nên bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi, nghe
lời xúc xiểm của đám nịnh thần, triều đình trở nên thối nát. Trong khi
chính sự suy đồi, tình thế nhiễu nhương, Chu An đã nhiều lần can gián vua
và cũng là học trò của mình. Cuối cùng ông đã hiên ngang dâng sớ xin chém bảy
tên nịnh thần mà sử sách gọi là “Thất trảm sớ”. Sớ này ngày nay đã thất lạc
nên không biết rõ chính xác tên của 7 tên nịnh thần mà Chu An xin chém.
Nhưng qua việc vua Dụ Tông từ chối lời đề nghị của thầy mình là Chu An,
cũng đủ thấy thế lực và ảnh hưởng của 7 tên nịnh thần ấy lớn dường nào.
Thỉnh cầu
không được vua chấp nhận, quan Tư nghiệp Chu An lập tức cáo quan về ở ẩn tại
núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn, dạy học, viết
sách cho tới cuối đời. Bên cạnh việc dạy học để truyền bá đạo Thánh hiền,
Chu An còn sáng tác nhiều sách vở trong đó có Tứ Thư Thuyết Ước, Tiều Ẩn
Thi Tập và Quốc Ngữ Thi Tập, nhưng đều bị người Tàu thời Minh cướp lấy mang
về Kim Lăng cả. Ông còn soạn một cuốn sách thuốc có tên là Y Học Yếu Giải Tập
Chu Di Biên.
Đóng
góp to lớn cho nền giáo dục nước nhà
Thời đại
Chu An là giai đoạn hậu chiến tranh chống quân ngoại xâm Nguyên-Mông. Sau
chiến tranh, thì việc dùng văn trị để định quốc an bang là điều tất yếu. Thế
nhưng câu hỏi đặt ra là phải dùng gì đây giữa ba tôn giáo khi ấy là : Nho,
Phật, Lão?
Nên nhớ
rằng, khi Phật giáo được các vua đầu nhà Trần coi trọng và thịnh hành, thì
Nho giáo đóng vai trò thứ yếu. Ban đầu chỉ có nhà chùa là nơi dạy chữ Nho
và sách sử. Tuy nhiên, ở thời đại Chu An, Nho học bắt đầu từng bước lớn mạnh.
Nhiều nhà Nho và thái học sinh không làm quan, về mở trường dạy sách Nho
như trường hợp của Chu An. Hệ thống trường lớp tại các địa phương được hình
thành. Đó là những tiền đề quan trọng để Nho Giáo dần tiến lên vai trò độc
tôn trong hệ tư tưởng giáo dục và chính trị thời Hậu Lê thế kỷ 15.
Và đương
nhiên Chu An có công không nhỏ trong công cuộc phát triển Nho Giáo này bởi
trong hệ thống trường lớp như đã nói, thì ta biết rằng trường của Chu An là
nổi tiếng và có đến hàng ngàn học trò, và bởi mấy chục năm lèo lái con tàu
giáo dục của quốc gia trên cương vị lãnh đạo Quốc Tử Giám. Trước tác Tứ Thư
Thuyết Ước của Chu An rất có thể được xem là một trong những diễn dịch,
bình luận và giải thích Nho Giáo sớm nhất của Việt Nam. Thầy Chu An đào đạo
đến hai thái tử và đều trở thành vua nhà Trần. Học trò của ông cũng có người
làm quan cao như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát giữ đến chức hành khiển (tể tướng).
Với công
đức đó, khi ông mất, vua Trần Nghệ Tông đã đặt tên thụy là Văn Trinh, truy
tặng tước Công (tước lớn nhất trong năm tước mà người ngoài hoàng tộc có thể
được phong dưới thời phong kiến), ban hiệu là Khang Tiết Tiên Sinh và được
đem vào thờ trong Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Danh sĩ nổi tiếng thế kỷ 19
là Ngô Thế Vinh trong bài văn bia ở đền thờ Chu Văn An đã giải thích hai chữ
“Văn Trinh” như sau: “Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chi chính cố dã”, tức:
Văn là cái vẻ đẹp bên ngoài của đức, Trinh là sự bền vững bên trong của đức,
nghĩa là ngoại mạo và tâm hồn Chu An đều đẹp cả. Qua đó mới thấy vua nhà Trần
ngưỡng vọng Chu An đến mức độ nào.
Vạn
Thế Sư Biểu
Các sử
gia phong kiến Việt Nam thời hậu Chu An đều không tiết lời ca tụng đức độ của
ông, và luôn xem ông là Biểu tượng mẫu mực của người thầy giáo Việt :
- Sử gia
Ngô Sĩ Liên nhận định về Chu An trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: “Người
hiền được dùng ở đời thường lo vua không thi hành điều sở học của mình. Vua
thì dùng người hiền mà hay lo người hiền không theo ý muốn của mình. Cho
nên, vua tôi gặp nhau, từ xưa đã là rất khó.
Nho gia
nước Việt ta được dùng rất nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghĩ đến công danh, kẻ
thì lo làm giàu, kẻ chỉ xu phụ, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, ít ai chịu để
tâm đến đạo đức, lo nghĩ việc giúp vua nêu đức tốt để cho dân được nhờ. Tô
Hiến Thành thời Lý và Chu Văn Trinh đời Trần có lẽ cũng gần được. Nhưng Hiến
Thành gặp được vua sáng nên công danh sự nghiệp được thấy ngay đương thời,
còn Chu Văn Trinh đời Trần không gặp được vua anh minh nên chính học của
Ông phải đến đời sau mới thấy được.
Văn
Trinh thờ vua thẳng thắn mà can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo
người tài thì công khanh đều ở cửa nhà ông mà ra, tiết tháo của ông cao thượng
đến thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được. Huống chi, tư thế đường hoàng
mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ.
Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há kẻ điêu ngoa lại không thành
liêm chính, kẻ yếu hèn lại không biết tự lập hay sao?”.
Ta thấy
rằng, một sử gia nổi tiếng là khắc khe trong đánh giá lịch sử, nổi tiếng là
kỹ lưỡng, kén chọn từng chữ từng lời như Ngô Sĩ Liên cũng đã dành bấy nhiêu
câu khen ngợi đủ thấy Chu An được kính trọng đến thế nào.
- Trong
Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận, sử gia Lê Tung thế kỷ 15 thì ca tụng Thất
Trảm Sớ của Chu An là: “Thất trảm chi sớ, nghĩa động càn khôn”, tức là: Bài
sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nghĩa khí động tới trời đất.
- Phan Huy Chú-một học giả lừng danh triều Nguyễn ca ngợi Chu An rằng:”Học
nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt ta trước sau chỉ
có mình ông, các ông khác không thể so sánh được”.
- Vua Tự
Đức trong Việt Sử tổng vịnh viết về Chu An như sau:
Thượng tường sơn đẩu thế gian sư,
Tâm dự nhân quai nhất khứ trừ.
Thất trảm sớ thành thiên địa giám,
Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.
Nghĩa
là:
Gian tà đâu để tung hoành,
Khí cao vằng vặc lưu danh sáng ngời.
Sớ dâng chứng với đất trời,
Không đang tâm sống cảnh đời suy vi.
Đức
độ khiến được cả quỷ thần
Đức độ của
Chu An không chỉ được các bậc túc Nho ca ngợi, mà dân gian cũng dành niềm
kính ngưỡng. Một trong những minh chứng cho sự kính ngưỡng đó là câu chuyện
dân gian mang màu sắc dã sử về sự tích Đầm Mực được sử sách chép lại như
sau:
Tương
truyền khi ông mở trường dạy học, rất đông học trò tìm đến thụ nghiệp.
Trong số học trò có một thanh niên, mặt mũi sáng sủa hôm nào cũng đến thật
sớm. Ông khen là chăm chỉ nhưng hỏi thì ngập ngừng không nói quê quán ở đâu.
Ông cho người đi theo thấy người đó đi đến đầm Đại (nằm giữa các làng Đại Từ,
Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất nên ngờ là thủy thần.
Năm đó,
trời đại hạn, dân chúng khổ sở lắm. Một hôm, thầy Chu mới mở lời nhờ người
học trò nọ làm mưa cứu dân. Người học trò ấy tuân lời thầy mới ra đứng giữa
sân, lấy nghiên mực, ngửa mặt lên khấn, lấy bút thấm mực vãi ra bốn phương.
Lúc hết mực tung bút và nghiên lên trời. Lập tức, mây đen kéo đến, sấm chớp
ầm ầm, trời đổ một trận mưa thật lớn. Người học trò đội mưa đi về, ra đến cửa
thì biến mất. Sáng hôm sau, không thấy y trở lại học, Chu An cho người đến
đầm Đại tìm thì thấy một con thuồng luồng thật to chết nổi trên mặt nước.
Ông thương xót, sai học trò vớt xác mang về mai táng tử tế.
Dân làng
thấy vậy lập đền thờ, nay vẫn còn. Chỗ nghiên mực ném lên rơi xuống nay
thành đầm nước lúc nào cũng đen, gọi là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả
Thanh Oai, sau này là một làng văn học nổi tiếng (quê hương Ngô Thời Sĩ,
Ngô Thời Nhiệm triều Hậu Lê). Trong đền thờ còn một đôi câu đối ghi lại sự
tích này như sau:
Mặc nghiễn
khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận, Chu đình lưu hóa vũ, thiên
trù vọng thiếp địa phồn khô
(Mây
lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải,
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng dội nước, đất đang khô cũng
trổ mùa).
Niềm tôn
kính của người xưa đối với thầy Chu Văn An là vậy. Thế ở thời đại chúng ta
ngày nay thì sao? Tấm gương đạo đức của thầy Chu có còn giá trị hay không?
Sau đây, Phó giáo sư-Tiến sĩ Sử học Hà Minh Hồng sẽ minh thị đôi điều về những
vấn đề này. Sử gia Hà Minh Hồng hiện là Trưởng Khoa Lịch sử của Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn -Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
-
Lê Phước:
Thưa Phó Giáo sư, với tư cách là một nhà sử học đương đại, trước tiên xin
Phó Giáo sư nhận định đôi điều về vai trò của Chu Văn An trong nền giáo dục
nhà Trần cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14?
-
Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hà Minh Hồng:
Trong
giai đoạn cuối thế kỷ 13 sang thế kỷ 14, ở Việt Nam, để phát huy được hào
khí Đông A sau khi nhà Trần ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, việc
đề cao đạo học, mà trước hết là Nho Giáo, tức là tôn sùng đạo Khổng-Mạnh để
trị nước, là hết sức cần thiết. Người có học Nho và đỗ Thái học sinh (tương
đương tiến sĩ) như Chu Văn An khi ấy không phải là thiếu. Và việc khoa cử
và con đường quan lộ đối với các Nho sĩ gần như là con đường không thể nào
khác được. Nhưng Chu Văn An có học hành, có đỗ đạt, mà không ra làm quan lại
ở nhà mở trường dạy học để truyền bá tư tưởng Khổng-Mạnh, trường hợp như vậy
thì rất hiếm.
Thực
ra thì Chu Văn An cũng có ra làm quan: làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Nhưng
ông làm quan trong mục đích là đóng góp sức lực vào sự nghiệp giáo dục đào
tạo nước nhà, đào tạo những người có trọng trách quốc gia, như làm thầy dạy
các thái tử. Nếu không phải vì mục đích đó thì ông cũng chẳng ra làm quan.
Chu
Văn An đã xây dựng cho mình 4 quan điểm về đạo đức nhà giáo, mà cho đến bây
giờ những quan điểm này vẫn còn nguyên giá trị, vẫn còn rất cần thiết. Bốn
quan điểm đó là: cùng lý, chính tâm, tịch tà và cự bí (Cùng lý là hiểu phải
cho đến nơi đến chốn, chính tâm là giữ lòng cho ngay thẳng, tịch tà là trừ
bỏ thói hư, tật xấu, chống lại tà thuyết và cự bế là ngăn ngừa cái dở), tức
đề cập đến những vấn đề về kiến thức, về lương tâm đạo đức, về bản lĩnh của
người thầy. Thời đó, mà ông đưa ra vấn đề này có vẻ còn hơi sớm, bởi ở cuối
thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, Nho Giáo chỉ trong giai đoạn đang lên, nhưng chưa
đến hồi cực thịnh. Chu Văn An đã đi trước thời đại, và chính nhờ điều đó đã
giúp ông trở thành người thầy giáo có tính chất tiên phong.
-
Lê Phước:
Chu Văn An được sử sách xem là một mẫu mực của nhà giáo. Vậy xin Phó giáo
sư tóm lược những nét chính trong đức độ nhà giáo của thầy Chu Văn An.
-Phó
Giáo sư-Tiến sĩ Hà Minh Hồng:
- Thứ
nhất: Chu Văn An là một người thầy rất giỏi. Ông giỏi nên ông mới dạy được
các lớp học trò từ bậc quyền quý nhất như thái tử đến những người bình thường
ở làng quê. Đặc biệt, ở trường làng, ông có hàng ngàn môn sinh. Nức tiếng đến
tận triều đình. Thậm chí đến thủy thần cũng tìm đến học. Câu chuyện quỷ thần
chỉ là chuyện dã sử, nhưng qua đó cho thấy rằng ai cũng muốn đến học với thầy
Chu Văn An. Ông là nhà giáo đầu tiên của nước Đại Việt có nhiều học trò giỏi.
Từ đó tạo điều kiện cho cái học Khổng-Mạnh dần dần chiếm vị trí độc tôn
trong nền giáo dục Đại Việt.
- Thứ
hai: Chu Văn An là nhà giáo rất nghiêm nghị và mẫu mực. Học trò của ông có
người làm quan to, như Phạm Sư Mạnh hay Lê Quát làm đến tể tướng, thế mà
khi khi đến với thầy Chu Văn An các ông này vẫn phải khép nép và thậm chí
có khi còn được nhắc nhở, dạy bảo những gì mà thầy Chu Văn An thấy cần phải
nhắc nhở học trò.
- Thứ
ba: Chu Văn An là một thầy giáo có phong thái trong sạch và tiết tháo. Thấy
quyền thần làm điều trái đạo thì ông can gián và viết thất trảm sớ xin chém
bảy tên nịnh thần. Vua không nghe thì ông lập tức từ quan chứ không màng
chi công danh lợi lộc. Ông từ quan về quê dạy học, dạy dân, làm thuốc, viết
sách… Chu Văn An làm như vậy là để giữ nguyên cái đức sáng ngời, làm cho đạo
học được thâm sâu hơn ở chính ông và những người được ông tiếp tục đào luyện.
Chính phẩm chất thanh cao tuyệt vời ấy mà ông đã được người đương thời và đời
sau ca ngợi, tôn là “Vạn thế sư biểu”.
Sau
khi ông qua đời, triều đình đã đưa ông vào thờ ở Văn Miếu, xem ông ngang
hàng với các bậc thánh hiền ngày xưa. Đó là một điều hết sức hiếm có. Người
dân ở làng quê của ông thì tôn thờ ông làm Thành hoàng. Người ta gọi ông là
“Đức thánh Chu”, “Đức Thánh Văn”. Qua đó mới thấy, ngay cả khi đã qua đời,
đạo đức của Chu Văn An vẫn tiếp tục sáng ngời.
Trước
triều Trần, có những người có cống hiến rất lớn lao. Sau triều Trần, cũng
có không ít những bậc tôn sư đạo cao đức trọng. Nhưng nhân cách thanh khiết,
thuần nhã, khí phách, chính trực, kiên cường như Chu Văn An thì không ai có
thể sánh. Ông là một người thầy mẫu mực cho nền “lương sư hưng quốc” Đại Việt.
Lịch sử giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay vẫn một niềm tôn kính đối với Chu
Văn An, đặt ông ở địa cao quý nhất, khả kính nhất, người đứng đầu các bậc
nhà giáo danh nhân đất Việt từ ngàn xưa.
-
Lê Phước:
Thưa Phó giáo sư, thế hệ nhà giáo ngày nay cần học tập gì từ tấm gương đạo
đức của Thầy Chu Văn An?
-
Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hà Minh Hồng:
Chúng
tôi nghĩ rằng, bản lĩnh nhà giáo là hết sức quan trọng. Bản lĩnh ở đây là
thể hiện được cái thanh liêm, tính biết nêu gương ở người thầy. Toàn bộ đức
độ của người thầy, toàn bộ ứng xử của người thầy, toàn bộ kiến thức của người
thầy: Tấm gương của người thầy phải thể hiện được những mặt như vậy. Tôi
nghĩ đây cũng là ba vấn đề đang hết sức nóng bỏng, những vấn đề đang rất cần
phải có trong đạo đức của người thầy giáo hiện nay.
Thầy Chu
Văn An đã mất cách đây gần bảy thế kỷ, giáo dục giữa thời đại của thầy Chu
và thời đại ngày nay của Việt Nam cũng hoàn toàn khác. Thế nhưng, như sử
gia Hà Minh Hồng nhận định, đức độ Chu Văn An vẫn còn những giá trị quý giá
để thế hệ nhà giáo hiện tại soi rọi. Mà một trong những điều đáng chú ý nhất
đó chính là tính gương mẫu của người thầy.
Một
trong những lợi ích chính của lịch sử đó chính là cung cấp cho thế hệ sau
những bài học kinh nghiệm và những tấm gương cần noi theo thông qua việc
“ngẫm lại chuyện xưa”. Thời gian qua, trong xã hội Việt Nam đã xảy ra nhiều
vụ học trò tấn công cả thầy cô, khiến cho dư luận phẫn nộ. Thế nhưng, nói
đi cũng phải nói lại, bên cạnh cái lỗi của học trò còn có cái lỗi thiếu
gương mẫu của không ít thầy cô với biết bao vụ việc thầy cô nhũng nhiễu học
trò, bạo hành học trò,… tức không biết nêu gương để được học trò kính trọng.
Trong bối cảnh đó, thiết nghĩ, đọc lại cuộc đời và sự nghiệp của thầy Chu
Văn An cũng có lắm đều bổ ích.
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết