On Saturday, October 19, 2013 11:08 PM, UBTTTAĐCSVN <> wrote:
Thân phận “Tứ Quý” - (Phạm Quang
Trình)
Một trong những nguyên nhân sâu sắc gây cho các chính quyền quốc
gia thất bại trong cuộc chiến chống Cộng phải kể là bọn “Tứ Quý”. Tứ Quý là từ
ngữ đặc biệt của Cộng sản đặt ra để ám chỉ những thành phần tự nguyện hoặc vô
tình bị chúng dụ dỗ, xúi giục nổi lên chống đối chính quyền quốc gia hầu tạo
thắng lợi cho chúng.
Huỳnh Tấm Mẫm kêu gọi
sinh viên chống chính phủ VNCH
(ảnh trái)
Tứ
Quý gồm 4 thành phần: Truyền thông báo chí, Sinh viên học sinh trí thức, Bọn
thầy tu cấp tiến, và Các đại diện Dân cử hay Đại biểu Quốc hội. Trong 4 thành
phần vừa kể tại các thành phố, không thiếu gì những người đứng đắn, có thiện
chí, không dễ bị lừa bịp. Nhưng đó là nói trên nguyên tắc, trên lý thuyết. Còn
trong thực tế, khi Cộng sản dùng đến từ ngữ ‘tứ quý” tức là chúng đã nghiên cứu
kỹ càng, có sách lược đấu tranh, sách lược hành động để dụ dỗ, mua chuộc, lũng
đoạn hoặc gây áp lực với 4 thành phần này càng nhiều càng tốt. Chữ “tứ quý”
cũng có thể hiểu một cách sát nghĩa hơn là 4 thành phần đó thường có khuynh
hướng cấp tiến, khuynh tả, hay chống đối chính quyền đồng thời đưa ra các luận
điệu tuyên truyền chống đối giả nhân giả nghĩa có lợi cho Cộng sản.
Sách
lược thông thường của Cộng sản để có cơ hội nắm chính quyền trong một nước có
tự do dân chủ là khai thác những bất công và tạo sự bất mãn trong dân chúng.
Bình thường, khi Cộng sản chưa thể gây ảnh hưởng đến dân chúng thì chúng phải
chọn các thành phần làm tay sai, trong đó có “tứ quý” và qua bọn này, Cộng sản
sẽ giật dây để chúng hành động theo đúng đường lối đấu tranh của Cộng sản. Sách
lược để nắm và chi phối bọn “tứ quý” của Cộng Sản cũng rất là tinh vi, tỉ mỉ
làm sao để chúng có thể gài người của chúng vào bốn thành phần này đồng thời gây
ảnh hưởng đến các giới khác. Thực ra, không riêng gì Cộng sản mà các giới khác
cũng dễ nhận ra được bản chất chung chung của 4 thành phần này là: tính tự do
phóng khoáng, thích chống đối, nhưng sợ dư luận và kẻ thù, kiêu ngạo, háo
thắng, bạo động, có những tư tưởng quá cấp tiến, nhìn cái lợi trước mắt mà ít
nghĩ đến cái hại lâu dài, đề cao cá nhân, muốn được nổi tiếng, vân vân. Đó là
bản chất và cũng là nhược điểm chung của 4 thành phần. Nhưng nếu xét riêng thì
mỗi thành phần lại có những khác biệt.
Trước hết là bọn thầy tu cấp tiến
Trước hết là bọn thầy tu cấp tiến
Thích
Trí Quang (trái) và Thích Thiện Minh (phải), 29/10/1969, hai trong số các sư
lãnh đạo số Phật tử theo họ chống lại chính phủ VNCH.
Bọn này thường được học hành khá, nhưng mắc tính kiêu ngạo, phóng khoáng, không vâng phục bề trên, (cấp lãnh đạo Tôn giáo), thích cải cách theo quan niệm riêng của mình và lại ngây thơ, dễ tin, thái độ rất cực đoan. Thường những việc cải cách không phải một sớm một chiều thực hiện ngay được, vì còn muôn vàn khó khăn, phải cân nhắc suy tính theo kế hoạch quy mô, khoa học của Tôn giáo hay của nhà cầm quyền đặt ra. Vì muốn cải cách cấp tốc ngay theo quan niệm cá nhân của mình không được nên bọn này dễ sinh bất mãn và dễ dàng làm tay sai cho Cộng sản. Nhưng thực chất sâu thẳm của hầu hết bọn này là “thích đàn bà và danh lợi”. Trong đời sống tu hành, thân xác bọn này bị kiềm chế nên rất thèm khát tình dục, thèm khát đàn bà và có những hành vi lén lút, nhưng vì lỡ mang cái áo nhà tu, đang có cuộc sống vật chất tạm ổn định, không dám “cởi áo thầy tu” ra ngay nên bày ra các trò giả hình mà thực chất là đóng kịch để che mắt người đời và dư luận bằng các chiêu bài hấp dẫn như đấu tranh cho tự do dân chủ, chống bất công áp bức, đòi hòa bình, vân vân và vân vân. Thực chất, mục đích cuối cùng của chúng cũng vẫn là đàn bà, là giải quyết sự thèm khát tình dục và danh vọng. Vì bất mãn không được chính quyền và cấp trên chú ý nên dễ dàng ngả theo bọn khuynh tả và Cộng sản.
Ở Việt Nam, thời chiến tranh Quốc - Cộng có môt số thầy tu cấp tiến, nổi lên tranh đấu chống chính quyền và có thể chống cả cấp lãnh đạo Tôn giáo của mình. Bên Công Giáo có những Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trần Tam Tỉnh, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ. Phía Phật Giáo có nhóm sư sãi Ấn Quang như các Thượng Toạ Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh, Đại Đức Nhật Thường, Ni sư Huỳnh Liên, vân vân.
Linh mục Chân Tín lập ra cái gọi là Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù nhắm vào Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và chế độ Cải Huấn. Gọi là Ủy Ban chớ thực chất chỉ có một mình ông ôm đồm làm đủ chuyện, nay họp báo, mai lên tiếng tố cáo chế độ nhà tù của VNCH là ác ôn, bóc lột, khắt khe. Chế độ Cải Huấn là đề tài người viết từ những năm trước 1975 đã từng đề cập đến trên báo chí và nhiều lần gặp trực tiếp nói chuyện với ông Tổng Trưởng Nội Vụ Lê Công Chất. Chuyện vài ông Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn tham nhũng, ăn cướp cơm chim bằng cách nhận hối lộ và ăn chia với nhà thầu thì có nhưng nói là tù nhân bị hành hạ, áp bức thì không đúng. So sánh chế độ nhà tù (tức Cải huấn) của VNCH với nhà tù Việt Cộng thật khác xa một trời một vực. Nhà tù Việt Cộng ác ôn tệ hại gấp trăm ngàn lần chế độ nhà tù VNCH và thời Pháp thuộc. Đó là sự thật.
Nhân
thể xin nói thêm về chế độ Cải Huấn của Việt Nam Cộng Hòa. Chế độ này đã được
chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành từ năm 1955 nhằm cải hóa và hoàn
lương can phạm. Trên toàn quốc có cả thấy 38 Trung Tâm Cải Huấn Tỉnh và 4 Trung
Tâm trực thuộc Trung Ương là Thủ Đức dành riêng để giam giữ nữ tù nhân,
Chí Hòa, Côn Sơn và Tân Hiệp ở Biên Hòa. Chính sách Cải Huấn của VNCH đã đem
lại thành quả thật mỹ mãn. Hàng ngàn, hàng vạn tù nhân chính trị theo Cộng Sản
đã trở lại Chính nghĩa Quốc gia, làm cho Cộng Sản Bắc Việt vô cùng căm tức, nên
chúng đã âm mưu bày ra cái gọi “Chính quyền Ngô Đình Diệm đã đầu độc giết hại
tù nhân ở trại tù Phú Lợi”. Thực chất, chính Việt Cộng mới là thủ phạm. Chúng
đã lợi dụng chế độ thăm nuôi dễ dãi của VNCH đối với tù nhân, lén lút gửi thuốc
độc vào Trung Tâm Cải Huấn Phú Lợi, tỉnh Bình Dương cho tù Việt Cộng rồi những
tên này đã bỏ thuốc độc vào cơm làm một số tù nhân ăn phải bị đau bụng ỉa chảy.
Chuyện chỉ có thế mà chúng ầm ĩ la lên rằng chế độ Ngô Đình Diệm đã giết hại
hàng ngàn tù nhân. Nhưng điều làm chúng cay cú nhất là vào năm 1955, khi Đại tá
Nguyễn Văn Y, Tổng Quản Đốc các Trung Tâm Cải Huấn ra Côn Sơn ban hành chính
sách Cải Huấn của Chính phủ VNCH, thì hàng ngàn tù nhân Việt Cộng đã đã bỏ
Đảng, trở về Chính Nghĩa Quốc Gia và được đối xử tử tế để học tập và sau cùng
về đoàn tụ với gia đình. Chỉ còn lại vài ba chục tên ngoan cố, trong đó có
Nguyễn Đức Thuận là em ruột của Lê Đức Thọ và Mai Chí Thọ, không chịu quy
chánh, tiếp tục ở tù cho đến ngày 30-04-1975 được thả ra về với Cộng sản.
Nguồn
tài liệu tin tức trên đây về chế độ Cải Huấn của VNCH có được là do người viết
đã sưu tầm, nghiên cứu từ 1968-1975, cùng với một số nhân viên làm việc thuộc
ngành Cải Huấn và tại các Trung Tâm trong đó có một ông bạn (hiện còn ở VN),
người từng sát cánh với Đại Tá Nguyễn Văn Y, nguyên Tổng Quản Đốc các Trung Tâm
Cải Huấn VNCH trong thời gian đầu.
Sang
thời Đệ Nhị Cộng Hoà, cường độ chiến tranh gia tăng vì sự xâm nhập của Cộng sản
tử Miền Bắc. Số tù binh Cộng sản bị bắt cũng tăng thêm nên chính phủ VNCH đã
phải xây dựng thêm 4 Trai Giam Tù Binh Phiến Cộng ở 4 Vùng Chiến Thuật. Chế độ
lao tù ở 4 Trại Giam Tù Bình Phiến Cộng đã được công khai hóa, tù binh được đối
xử tử tế đúng theo quy ước Genève như bao hình ảnh đã được công bố.
Trở
lại cái gọi là Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao tù của LM Chân Tín thì sau khi xua
quân tấn chiếm miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã lùa hằng triệu Quân Dân Cán Chính
VNCH vô cáí gọi là Trại Học Tập Cải Tạo với chế độ đàn áp bóc lột vô cùng khắc
nghiệt gấp ngàn lần chế độ Cải Huấn VNCH, vậy mà LM Chân Tín nín khe không hề
lên tiếng. Phải đợi cho đến khi biến cố Đông Âu và Liên Sô xẩy ra sau năm 1991
khiến Đế Quốc Cộng Sản sụp đổ, và khi LM Chân Tín không còn được làm Đại Biểu
Quốc Hội nữa thì ông ta mới lên tiếng chống đối CSVN về nhân quyền bị đàn áp.
Tệ hơn nữa, ông ta còn hay lên tiếng phê bình chỉ trích Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã
tỏ ra nhu nhược với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội. Tại sao những năm đầu sau
khi tấn chiếm miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã lùa hằng triệu Quân Dân Cán Chính
VNCH vào các Trại Tù khắc khắc nghiệt, thi hành chính sách đàn áp Tôn Giáo và
hạn chế Tự Do Tín Ngưỡng tối đa thì LM Chân Tín không hề lên tiếng? Phải chăng
trong thời gian hơn chục năm trời đó, LM Chân Tín còn tỏ ra ngoan ngoãn được CS
ban tặng cho cái chức Đại Biểu Quốc Hội thỉ địa vị và quyền lợi cá nhân đã khóa
chặt miệng ông lại?
Với LM
Nguyễn Ngọc Lan là kẻ đồng hành với LM Chân Tín, từng bí mật vào bưng
nhận lệnh Việt Cộng, rồi trở lại thành phố múa may quay cuồng, theo đuôi bọn
phá hoại đánh phá chế độ VNCH. Năm 1970, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang gồm
Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Tâm đi dự Hội
Nghị Hòa Bình Thế Giới ở Tokyo ngày 17-10-1970 công bố lập trường 5 điểm, đòi “Đòi
Mỹ phải rút quân, đòi Chính Phủ VNCH phải thả hết tù nhân chính trị bị bắt vì
hoạt động cộng sản, và đòi đặt Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam
(Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Việt Cộng) ngang hàng với Chính Phủ Việt Nam
Cộng Hòa.” LM Nguyễn Ngọc Lan cũng xin đi theo đám Sư sãi Việt gian
này, nhưng nhóm trí thức Công Giáo biết được đã lên tiếng phản đối với Bộ Nội
Vụ VNCH nên LM Nguyễn Ngọc Lan không được phép xuất ngoại. Sau ngày 30-04-1975,
Nguyễn Ngọc Lan xin cởi áo thầy tu ra cưới vợ thì Việt Cộng không sài nữa.
Chúng bảo: “Anh cởi áo ra lấy vợ rồi thỉ cái mác Linh Mục Công Giáo của anh
không còn, vậy Đảng dùng anh làm gì?” Nguyễn Ngọc Lan ngậm đắng nuốt cay, phải
đi mở lớp dạy tư ngoại ngữ để nuôi vợ con, và từ đó sinh bất mãn. Có lần Nguyễn
Ngọc Lan chở LM. Chân Tín bằng xe Honda trên đường phố Sài Gòn bị xe Công An cố
tình tông vô, cả hai té xuống đường suýt toi mạng!
LM
Phan Khắc Từ, thời VNCH là Tuyên Úy Thanh Lao Công, xung
phong đi làm nghề hốt rác với công nhân thuộc Sở Vệ Sinh Đô Thành Sài Gòn- Gia
Định, đã gây chấn động dư luận một thời. Nhưng nhiều người đã nghi ngờ cái ông
“Linh mục hốt rác này”. Có vài anh bạn nói thẳng với Phan Khắc Từ: “Cậu đi hốt
rác thì hay đấy. Nhưng nói cho cậu biết trước: Cậu mà dính vào đàn bà là chúng
tớ cười đầu tiên nghe!” Phan Khắc Từ im lặng không nói gì. Sau ngày 30 tháng
Tư, Phan Khắc Từ được Việt Cộng ban thưởng cho chức Đại Biểu Quốc Hội, Chủ Tịch
Ủy ban Đoàn Kết Công Giáo mà dư luận diễu là Ủy Ban Đàn Két, điều hành tờ báo
Công Giáo và Dân Tộc cùng với các Linh mục theo Việt Cộng như Huỳnh Công Minh,
Trương Bá Cần, Trần Tam Tỉnh, Thiện Cẩm, Nguyễn Huy Lịch, Vương Đình Bích, làm
mưa làm gió ở Sài Gòn. Là Linh mục, nhưng Phan Khắc Từ lại có vợ và hai đứa
con, công khai tổ chức “ăn thôi nôi” giữa thanh thiên bạch nhật. Chính LM Chân
Tín đã tố cáo đích danh hành vi tồi bại đó của Phan Khắc Từ. Người đàn bà ở với
Phan Khắc Từ có tên là Ngô Thị Thanh Thủy (dân Bến Tre) có bí danh là Tư Liên
cũng được gọi là “Liên béo” là cán bộ Việt Cộng cài vô, nắm đầu Phan Khắc Từ để
lèo lái ông chồng thầy tu theo ý đồ của Cộng Sản. Phan Khắc Từ lỡ đâm lao phải
theo lao, không quay trở lại được. Phần Giáo Hội Công Giáo vì “tránh bể cái
bình sành mà phải tạm lơ con chuột hôi này đi” cho đến khi Phan Khắc Từ già
cỗi, hết sài, được Việt Cộng điều ra Hà Nội đảm trách Chương Trình Hóa Trang!
Riêng
hai Linh mục Huỳnh Công Minh và Nguyễn Đình Thi
hồi trước 1975 đã được Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình cho du học
Pháp, nào ngờ hai ông này qua đó ngả theo Việt Cộng. LM. Huỳnh Công Minh về
nước âm thầm liên hệ với Việt Cộng. Còn Nguyễn Đình Thi ở lại Pháp tiếp tục
hoạt động. Năm 1969, LM Nguyễn Đình Thi công khai tổ chức Lễ Cầu Hồn cho Hồ Chí
Minh. Sau ngày 30-04-1975, LM. Huỳnh Công Minh được Đảng ban cho chức Đại
Biểu Quốc Hội, lại là Tổng Đại Diện của Giáo Khu Sài Gòn nên làm mưa làm gió.
Nhiều người gọi ông ta là “Linh Mục Chính Ủy”.
Tại Quốc Hội bù nhìn ở Hà Nội năm 1976, ông ta đã lớn tiếng ca tụng công lao của Đảng Cộng Sản một cách trơ trẽn không biết ngượng: “Con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được, nếu không có Đảng Lao Động Việt nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân,lãnh đạo và tổ chức… Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho Đảng”. (Trích Bản tin ngày 7/7/1976 của Thông Tấn Xã Việt nam).
Năm 2009, tức là 33 năm sau khi tuyên bố như trên, thì trong một buổi tọa đàm vào ngày 20-21 Tháng Ba 2009 với chủ đề “Đặc điểm tư duy và lối sống của người Việt trước yêu cầu hội nhập quốc tế” tại Câu lạc bộ Nguyễn Văn Bình (cư xá Phục Hưng cũ), khi được cử tọa hỏi về lới tuyên bố này, linh mục Minh đã phải giải thích quanh co cốt ý làm giảm nhẹ đi cái lập trường "kiên định tin tưởng vào Đảng Cộng Sản” như thế đó. Và cuối cùng, thì ông kết luận bằng một câu xanh rờn như sau, đó là: “Nếu như hôm nay, tôi không nói như vậy” (Trích báo Tổ Quốc trên mạng)
Hai Linh mục Huỳnh Công Minh và Nguyễn Huy Lịch Dòng Đa Minh chi Lyon còn mơ được phong làm Tổng Giám Mục Giáo Khu Sài Gòn, nhưng cả hai đều bị Tòa Thánh gạch tên, đành ngậm tăm. Cho đến năm 1991, khi Khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Sô sụp đổ thì Huỳnh Công Minh “tỉnh ngộ” không múa may gì nữa. Có người cho biết, LM Huỳnh Công Minh đã cải tà quy chánh, và tuy còn mang danh là Tổng Đại Diện nhưng chỉ là người sai vặt cho Tổng Giám Mục để liên lạc với nhà cầm quyền Cộng Sản.
Về nhóm Sư Sãi Ấn Quang là đối tượng của Cộng Sản từ lâu. Trong số đó, những nhân vật Thích Huyền Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang đã một thời theo Việt Minh trước 1954. Sau Hiệp Định Genève 1954, đám sư sãi này ở Miền Nam, chưa có âm mưu động tĩnh gì, vì dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung do Ngô Đình Cẩn đứng ra tổ chức và ông Dương Văn Hiếu là Trưởng Đoàn đã bắt hầu như trọn ổ bọn gián điệp Cộng Sản với những tên chỉ huy hạng gộc như Đại tá Lê Câu, Trần Quốc Hương, vân vân. Phải đợi cho đến năm 1963, khi bang giao Việt-Mỹ căng thẳng vì TT Ngô Đình Diệm chống lại việc Mỹ muốn đem quân vào Miền Nam chỉ đạo chiến tranh. Nhóm sư sãi Ấn Quang (lúc đó còn gọi là sư sãi Miền Trung) được CIA móc nối bắt đầu cuộc nổi loạn trong âm mưu lật đổ chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa. Âm mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm bằng việc mua chuộc nhóm tướng lãnh của CIA thành công. Nhóm sư sãi đấu tranh thừa thắng xông lên quyết thống nhât Phật Giáo dưới danh nghĩa là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với Hiến Chương 14-01-1964 bao trùm tất cả các tông phái Phật Giáo ở Miền Nam kể cả Phật Giáo Hòa Hảo do Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939, nhưng bất thành. Tệ hơn nữa, nội bộ phe Phật Giáo tranh đấu bể làm đôi vì tham vọng chính trị muốn nắm cả chính quyền hay chính quyền phải là người của mình. Một phe là Việt Nam Quốc Tự do Thượng Tọa Thích Tâm Châu đứng đầu vì nắm được khu chùa Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản và phe kia là nhóm Sư Sãi Ấn Quang đứng đầu là Thích Trí Quang vì trụ trì “đóng đô” ở Chùa Ấn Quang. Từ đó hai phe như nước với lửa. Phe Việt Nam Quốc Tự ôn hòa với TT Thích Tâm Châu đương kim Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, và TT. Thích Tâm Giác là Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH, được chính quyền công nhận. Phe Ấn Quang với các TT Thích Trí Quang, Thích Pháp Tri, Thích Thiện Hoa, Thích Huyền Quang, Thích Minh Châu, Thích Pháp Siêu, Thích Hộ Giác, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh là những người tỏ ra cực đoan đầy tham vọng muốn ăn tươi nuốt sống phe kia, nhưng không được chính quyền công nhận. Qua Bạch Thư của HT Thích Tâm Châu tháng 12/1993 trang 28 cho thấy phe Ấn Quang mà cụ thể là Thích Trí Quang đã cho người mang đến Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản và chùa Từ Quang mỗi nơi một đĩa máu, một con dao và một huyết thư “Yêu Cầu Các Thượng Tọa Trong Viện Hóa Đạo Không Được Theo Thượng Tọa Tâm Châu” khiến TT Thích Tâm Châu phải lẩn trốn nay chỗ này, mai chỗ khác để tránh khỏi bị ám sát!
Sau sự chia rẽ này, khoảng đầu tháng 7-1966, nhóm Phật Giáo Ấn Quang bắt đầu âm mưu cấu kết với TT. Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I Chiến Thuật nổi loạn ở miền Trung, đặc biệt ở hai nơi là Huế và Đà Nẵng, tổ chức Quân Đoàn Vạn Hạnh mà chủ lực là Sinh viên và một vài đơn vị Quân đội a dua với Đại tá Đàm Quang Yêu, Tư Lịnh Lực Lượng Đặc Biệt, Thị Trưởng Đà Nẵng Nguyễn Văn Mẫn cùng với Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Tôn Thất Dương Kỵ, vân vân. Cuộc nổi loạn tưởng chừng như tách Miền Trung ra khỏi Miền Nam thành một lãnh thổ riêng với Chính Quyền riêng. Nhưng lúc ấy dư luận dân chúng cũng như thế giới và Hoa Kỳ đã thấy rõ thực chất và tham vọng của nhóm sư sãi này nên không còn ủng hộ nữa. Được thể, Chính phủ quân nhân Thiệu Kỳ đã thẳng tay đem Quân Đội ra dẹp loạn. Trong thế bí, Thích Trí Quang và phe nhóm đã hô hào đem cả bàn thờ Phật xuống đường làm vật cản Quân Đội. Bất chấp những thủ đoạn tồi tệ đó, Quân Đội và Cảnh Sát dưới quyền chỉ huy của ĐT Nguyễn Ngọc Loan, đã dẹp tan cuộc nổi loạn, bắt luôn Thích Trí Quang đem vào Sài Gòn.
Tại Quốc Hội bù nhìn ở Hà Nội năm 1976, ông ta đã lớn tiếng ca tụng công lao của Đảng Cộng Sản một cách trơ trẽn không biết ngượng: “Con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được, nếu không có Đảng Lao Động Việt nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân,lãnh đạo và tổ chức… Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho Đảng”. (Trích Bản tin ngày 7/7/1976 của Thông Tấn Xã Việt nam).
Năm 2009, tức là 33 năm sau khi tuyên bố như trên, thì trong một buổi tọa đàm vào ngày 20-21 Tháng Ba 2009 với chủ đề “Đặc điểm tư duy và lối sống của người Việt trước yêu cầu hội nhập quốc tế” tại Câu lạc bộ Nguyễn Văn Bình (cư xá Phục Hưng cũ), khi được cử tọa hỏi về lới tuyên bố này, linh mục Minh đã phải giải thích quanh co cốt ý làm giảm nhẹ đi cái lập trường "kiên định tin tưởng vào Đảng Cộng Sản” như thế đó. Và cuối cùng, thì ông kết luận bằng một câu xanh rờn như sau, đó là: “Nếu như hôm nay, tôi không nói như vậy” (Trích báo Tổ Quốc trên mạng)
Hai Linh mục Huỳnh Công Minh và Nguyễn Huy Lịch Dòng Đa Minh chi Lyon còn mơ được phong làm Tổng Giám Mục Giáo Khu Sài Gòn, nhưng cả hai đều bị Tòa Thánh gạch tên, đành ngậm tăm. Cho đến năm 1991, khi Khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Sô sụp đổ thì Huỳnh Công Minh “tỉnh ngộ” không múa may gì nữa. Có người cho biết, LM Huỳnh Công Minh đã cải tà quy chánh, và tuy còn mang danh là Tổng Đại Diện nhưng chỉ là người sai vặt cho Tổng Giám Mục để liên lạc với nhà cầm quyền Cộng Sản.
Về nhóm Sư Sãi Ấn Quang là đối tượng của Cộng Sản từ lâu. Trong số đó, những nhân vật Thích Huyền Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang đã một thời theo Việt Minh trước 1954. Sau Hiệp Định Genève 1954, đám sư sãi này ở Miền Nam, chưa có âm mưu động tĩnh gì, vì dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung do Ngô Đình Cẩn đứng ra tổ chức và ông Dương Văn Hiếu là Trưởng Đoàn đã bắt hầu như trọn ổ bọn gián điệp Cộng Sản với những tên chỉ huy hạng gộc như Đại tá Lê Câu, Trần Quốc Hương, vân vân. Phải đợi cho đến năm 1963, khi bang giao Việt-Mỹ căng thẳng vì TT Ngô Đình Diệm chống lại việc Mỹ muốn đem quân vào Miền Nam chỉ đạo chiến tranh. Nhóm sư sãi Ấn Quang (lúc đó còn gọi là sư sãi Miền Trung) được CIA móc nối bắt đầu cuộc nổi loạn trong âm mưu lật đổ chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa. Âm mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm bằng việc mua chuộc nhóm tướng lãnh của CIA thành công. Nhóm sư sãi đấu tranh thừa thắng xông lên quyết thống nhât Phật Giáo dưới danh nghĩa là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với Hiến Chương 14-01-1964 bao trùm tất cả các tông phái Phật Giáo ở Miền Nam kể cả Phật Giáo Hòa Hảo do Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939, nhưng bất thành. Tệ hơn nữa, nội bộ phe Phật Giáo tranh đấu bể làm đôi vì tham vọng chính trị muốn nắm cả chính quyền hay chính quyền phải là người của mình. Một phe là Việt Nam Quốc Tự do Thượng Tọa Thích Tâm Châu đứng đầu vì nắm được khu chùa Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản và phe kia là nhóm Sư Sãi Ấn Quang đứng đầu là Thích Trí Quang vì trụ trì “đóng đô” ở Chùa Ấn Quang. Từ đó hai phe như nước với lửa. Phe Việt Nam Quốc Tự ôn hòa với TT Thích Tâm Châu đương kim Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, và TT. Thích Tâm Giác là Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH, được chính quyền công nhận. Phe Ấn Quang với các TT Thích Trí Quang, Thích Pháp Tri, Thích Thiện Hoa, Thích Huyền Quang, Thích Minh Châu, Thích Pháp Siêu, Thích Hộ Giác, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh là những người tỏ ra cực đoan đầy tham vọng muốn ăn tươi nuốt sống phe kia, nhưng không được chính quyền công nhận. Qua Bạch Thư của HT Thích Tâm Châu tháng 12/1993 trang 28 cho thấy phe Ấn Quang mà cụ thể là Thích Trí Quang đã cho người mang đến Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản và chùa Từ Quang mỗi nơi một đĩa máu, một con dao và một huyết thư “Yêu Cầu Các Thượng Tọa Trong Viện Hóa Đạo Không Được Theo Thượng Tọa Tâm Châu” khiến TT Thích Tâm Châu phải lẩn trốn nay chỗ này, mai chỗ khác để tránh khỏi bị ám sát!
Sau sự chia rẽ này, khoảng đầu tháng 7-1966, nhóm Phật Giáo Ấn Quang bắt đầu âm mưu cấu kết với TT. Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I Chiến Thuật nổi loạn ở miền Trung, đặc biệt ở hai nơi là Huế và Đà Nẵng, tổ chức Quân Đoàn Vạn Hạnh mà chủ lực là Sinh viên và một vài đơn vị Quân đội a dua với Đại tá Đàm Quang Yêu, Tư Lịnh Lực Lượng Đặc Biệt, Thị Trưởng Đà Nẵng Nguyễn Văn Mẫn cùng với Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Tôn Thất Dương Kỵ, vân vân. Cuộc nổi loạn tưởng chừng như tách Miền Trung ra khỏi Miền Nam thành một lãnh thổ riêng với Chính Quyền riêng. Nhưng lúc ấy dư luận dân chúng cũng như thế giới và Hoa Kỳ đã thấy rõ thực chất và tham vọng của nhóm sư sãi này nên không còn ủng hộ nữa. Được thể, Chính phủ quân nhân Thiệu Kỳ đã thẳng tay đem Quân Đội ra dẹp loạn. Trong thế bí, Thích Trí Quang và phe nhóm đã hô hào đem cả bàn thờ Phật xuống đường làm vật cản Quân Đội. Bất chấp những thủ đoạn tồi tệ đó, Quân Đội và Cảnh Sát dưới quyền chỉ huy của ĐT Nguyễn Ngọc Loan, đã dẹp tan cuộc nổi loạn, bắt luôn Thích Trí Quang đem vào Sài Gòn.
Sau
thất bại thê thảm này, một số phần tử thuộc phe nhóm Ấn Quang ở Miền Trung đã
âm thầm liên hệ chặt chẽ với Việt Cộng trong cái gọi là Tổng Công Kích Tổng
Khởi Nghĩa (TCK-TKN) Tết Mậu Thân năm 1968 đưa đến hàng vạn cái chết vô tội
trong các hầm chôn sống tập thể tại Huế. Lúc đó, Thích Đôn Hậu và Lâm Văn Tết
được Việt Cộng phong cho làm Phó Chủ Tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân
Chủ và Hòa Bình cùng với Chủ Tịch là Luật Sư Trịnh Đình Thảo. Nhưng cái gọi là
TCK-TKN thất bại, phe nhóm Ấn Quang như TT Thích Đôn Hậu và người tình là bà
Tuần Chi, GS Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phụ Ngọc
Phan… đã trốn chạy theo Việt Cộng vào bưng. Thích Đôn Hậu sau đó ra Hà Nội đứng
canh xác Hồ Chí Minh khi họ Hồ chết bất đắc kỳ tử sau khi cuộc TCK-TKN Tết Mậu
Thân bị thất bại.
Muốn
biết rõ hơn, xin mời đọc Biến Động Miền Trung của tác giả Liên Thành, nguyên
Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Huế - Thừa Thiên, xuất bản năm 2008.
Kể
từ đây, phe Ấn Quang tẩy chay và luôn tỏ thái độ chống đối Chính quyền VNCH dù
rằng về phía Chính phủ không hề làm khó dễ gì đối với họ. Hơn nữa, họ muốn xuất
ngoại hay cho Tăng chúng du học, chính phủ đều dành cho sự dễ dàng. Vậy mà lợi
dụng quyền tự do di lại, tự do ngôn luận, phái đoàn Phật Giáo Ấn Quang do TT
Thích Thiện Minh làm Trưởng đoàn đáp máy bay sang Tokyo Nhật Bản dự Hội Nghị
Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình tháng 10 năm 1970 đã công bố lập trường 9 điểm
hoàn toàn có lợi cho Việt Cộng, nếu không nói là rập khuôn lập trường của
MTGPMN, công cụ của Hà Nội: chỉ đòi Mỹ rút quân, đòi VNCH thả tù chính trị mà
không hề đá động hay đòi Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng phải có những
hành động tương tự.
Xin
hãy nghe Thích Quảng Độ ở trong nước tuyên bố với báo Mỹ:
“Chính
quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của
chúng tôi và không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên
chúng tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại
nhân dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính
quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề
Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đình với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và
Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ”. (Ngày 18/2/1967 Thích Quảng Độ,
Thích Trí Quang, Cao Ngọc Phượng, New York Times 1967). “Nếu Thiệu ngoan cố không từ chức thì
Ấn Quang sẽ kéo Thiệu xuống."
(Ngày 20/10/1974 Thích Quảng Độ, Washington Post 1974).
Sau mấy năm tấy chay và chống đối VNCH, phe Ấn Quang đi vào thế tự
cô lập mình, hoàn toàn bất lợi nên dịp bầu cử Tổng Thống và bán phần Thượng
Nghị Viện năm 1973 họ lại bung ra, hỗ trợ Dương Văn Minh ứng cử Tổng Thống và
lập Liên Danh Hoa Sen mà thụ ủy là GS. Vũ Văn Mẫu ứng cử Thượng Nghị Viện. Với
trò “độc diễn” của TT. Nguyễn Văn Thiệu, hai ông Nguyễn Cao Kỳ và Dương Văn
Minh phải tự động rút lui. Riêng Liên danh Hoa Sen đắc cử 1973, nhưng vì là
thiểu số ở Thượng Viên, nên cũng chẳng làm nên trò trống gì vì phe đa số thân
chính quyền đã nắm hết các chức vụ lãnh đạo. Điều làm nhiều người ngạc nhiên:
một thành viên của Liên Danh Hoa Sen là BS Nguyễn Duy Tài lại xé rào chạy theo
phe thân chính quyền và được tặng chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao. Ở Hạ Viện,
Trần Văn Đôn được Ấn Quang ủng hộ ra đăc cử Dân biểu ở Quảng Ngãi 1971 cũng trở
mặt chạy theo phe thân chính và được chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng. Nhưng
cũng tử đây, các Dân Biểu Nghị Sĩ không thuộc phe thân chính đã tự ngồi lại với
nhau lập các khối Đối Lập. Ở Thượng Viên, phe gọi là đối lập chỉ có Liên danh
Hoa Sen rất yếu. Nhưng ở Hạ Viện dân biểu đối lập đông hơn đã lập Khối Dân Tộc
Xã Hội do LS. Trần Văn Tuyên (Quốc Dân Đảng) mới đắc cử pháp nhiệm 2
(1971-1975) làm Trưởng Khối. Cũng chính tại Văn Phòng Khối Dân Tộc Xã Hội này,
phe nhóm thân Ấn Quang đã công khai đặt Văn phòng Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc do
Ấn Quang dựng nên chuẩn bị cho cái gọi là “Thành Phần Thứ Ba” khi có Chính Phủ
liên hiệp ba thành phần. Kết quả như đã thấy, khi Cộng Sản Bắc Việt tấn chiếm
Miền Nam thì đám Sư sãi Ấn Quang đã ra tận xa cảng Phú Lâm đón rước Bộ đội Việt
Cộng vào thành, tổ chức ăn mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, tưởng rằng những hành
động bợ đỡ đó sẽ được Cộng sản trả công. Nào ngờ khi bọn cướp đã vào thành,
chúng lập ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, một thứ Giáo Hội quốc doanh do
những sư Cộng sản nắm đầu. Những sư sãi nào không vào Giáo Hội nhà nước liền bị
chúng thẳng tay đàn áp, bỏ tủ. Đó là cái giá mà phe Phật Giáo Ấn Quang phải
trả. Phải chăng đó là nghiệp báo?
Đối tượng thứ hai: các vị Dân cử
Đối tượng thứ hai: các vị Dân cử
Khi nói tới những vị dân cử, người ta liên tưởng đến các Dân Biểu, Nghị Sĩ tại Quốc Hội trong các nước có sinh hoạt dân chủ. Việt Nam Cộng Hòa là nước dân chủ theo khuôn mẫu của Tây phương, nghĩa là tôn trọng quyền Tự do Dân chủ của người dân. Việt Nam Cộng Hòa được thành lập từ khi TT Ngô Đình Diệm về chấp chánh, sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý, truất phế Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Nhà Nguyễn. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sau khi dẹp tan các Giáo phái, thống nhất lực lượng Quốc Gia thì tình hình an ninh trở nên khả quan. Nhờ Phong Trào Tố Cộng được phát động mạnh mẽ khắp nơi trên toàn quốc, các ổ Việt Cộng nằm vùng do Cộng Sản Bắc Việt gài lại ở Miền Nam đã bị các cơ quan an ninh và quân sự của VNCH phát hiện và phá tan. Tổ chức hành chánh từ Trung Ương đến địa phương đã được cải tổ quy mô. Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của TT. Ngô Đình Diệm đã mang một bộ mặt mới lấn át cả bộ mặt lem luốc của Hồ Chí Minh tại Miền Bắc. Phải nói thật rằng trong suốt hơn một thế kỷ qua tại Việt Nam, chưa có chế độ nào đem lại cho nhân dân một đời sống thoải mái với cơm no áo ấm như thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Ít nhất là 5 năm đầu, dân chúng Miền Nam sống trong an bình, thịnh vượng, Bởi đó, chính quyền của TT Ngô Đình Diệm đã được dư luận thế giới rất nể trọng. Cứ cái đà này, MiềnNam sẽ không mấy chốc từ một nước chậm tiến có thể vươn lên thành một nước mở mang, phát triển.
Trước
một Miền Nam sung túc lớn mạnh về mọi mặt sẽ là một nguy cơ cho Miền
Bắc dưới chế độ Cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất đã
trở thành đói nghèo lạc hậu. Bởi đó, tập đoàn Cộng Sản Hà Nội được lệnh quan
thầy Nga Hoa âm mưu thôn tính Miền Nam bằng chiêu bài chiến tranh
giải phóng. Nhưng dù có âm mưu và được quan thầy tiếp viện ồ ạt võ khí, súng
đạn, chúng vẫn chưa gây được thanh thế như sau cuộc Đảo chánh 1-11-1963.
Bởi vì dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, an ninh được bảo đảm, việc xâm nhập phá hoại
của Việt Cộng hầu như đều bị ngăn chặn và phá vỡ kịp thời. Có thế nói, năm
1961, cường độ chiến tranh xâm lược của ngụy quyền Cộng Sản Hà Nội gia tăng
đáng kể, nhưng cũng lá lúc Quốc Sách Ấp Chiến Lược ra đời và được phát động
mạnh mẽ khắp lãnh thổ Miền Nam. Chỉ hai năm sau (1961-1963), với trên 8000 Ấp
Chiến Lược được thành lập trên toàn quốc, giặc Cộng coi như đã bị cô lập chờ
ngày bị tiêu diệt. Bạch Thư của Chính Phủ VNCH đã tố cáo ngụy quyền CSHN là thủ
phạm xâm lược và là cha đẻ của MTGPMN. Ủy ban Kiểm Soát Đình Chiến gồm ba thành
viên là Ba Lan, Ấn Độ và Canada thì 2 phần 3 tức Ấn Độ vàCanada đã
xác nhận quan điểm và lập trường của Chính Phủ VNCH là đúng. Riêng Ba Lan thuộc
phe Cộng nên buộc phải tuân theo chỉ thị của Liên Sô là phải chống lại.
Tại
Quốc Hội, toàn thể các Dân Biểu đều là người Quốc Gia, sinh hoạt có thể thống,
hoàn toàn không có Dân biểu đối lập thân Cộng như thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Có một
số nhân vật mệnh danh là đối lập như cái gọi là Nhóm Caravelle nhưng cũng chỉ
gửi thư đề nghị cải tổ chớ chưa có hành động chống đối nào dù nhóm này đã được CIA và
Tòa Đại Sứ Mỷ liên lạc xúi dục gây áp lực với chính phủ. Có một vài người trong
số những nhân vật này, ngay từ khi TT Ngô Đình Diệm về chấp chính 7-1954, đã
được mời ra cộng tác, nhưng vì sự hăm dọa của Bình Xuyên đả rút lui. Khi tình
hình ổn định, mấy ông này lại thấy tiếc muốn ra hợp tác, nhưng Chính phủ Ngô
Đình Diệm không dùng nữa, từ đó nẩy sinh bất mãn. Có thể nói thời Đệ Nhất Cộng
Hòa, cái gọi là “Tứ Quý” hầu như số lượng bị Cộng sản xâm nhập, tuyên truyền,
rủ rê, mua chuộc còn ít ỏi, ngoại trừ một số trí thức ngây thơ du học bên Tây
thời Pháp thuộc vốn đã bị CS dụ dỗ, có cảm tình với chúng. Nhưng sang đến thời
Đệ Nhị Cộng Hòa (1963-1975) sau khi cuộc Đảo chính 1-11-1963
do CIA và bọn tướng lãnh “đâm thuê chém mưón” thực hiện thì hệ thống
an ninh quốc gia đã bị phá vỡ do nạn tham nhũng và sự bất lực của giới lãnh đạo
mới. Dó đó, Việt Cộng được đà xâm nhập dễ dàng vào mọi lãnh vực mà điển hình là
bọn “Tứ Quý”. Bốn năm đầu sau cuộc đảo chánh (1963-1967), cường độ chiến tranh
gia tăng với sự hiện diện của 540 ngàn quân sĩ Hoa Kỳ và 100 ngàn quân Đồng
Minh (Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Đại Hàn, Phi Luật Tân) nên nhóm Tứ Quý chưa
xuất đầu lộ diện công khai. Trong giai đoạn này, phía Hành Pháp thì hai phe
Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ còn đang tranh giành ảnh hưởng để nắm chức
Tổng Thống nên chưa rảnh tay. Do đó có thể nói cuộc bầu cử Quốc Hội gồm Hạ Nghị
Viện (Pháp nhiệm I: 1967-1971) và Thượng Nghị Viện (1967-1973) là trong sạch.
Hơn 60 Liên danh, mỗi Liên danh 10 người, ra tranh cử Nghị Sĩ mà 6 Liên danh
nào được cao phiếu nhất sẽ đắc cử. Còn ửng cử viên Dân Biểu Hạ Nghị Viện thì vô
số kể. Với 38 Tỉnh và Thị xã chỉ lấy có 137 Dân Biểu thì trung bình mỗi đơn vị
mỗi nơi có từ 10 đến 20 Ứng Cử Viên tranh nhau. Rõ ràng là họ đổ dồn nỗ lực vào
việc tranh nhau chức Nghị Sĩ ở Thượng Nghị Viện hơn là Dân Biểu Hạ Nghị Viện.
Dĩ nhiên nơi nào, địa điểm nào các Ứng cử viên cũng phải dùng đủ mọi mánh khỏe,
kể cả tiền bạc để vận động cử tri và mua chuộc các chức sắc Tôn giáo và nhà cầm
quyền địa phương.
Cái
gọi là Đối Lập ở Quốc Hội trong vài năm đầu hầu như chưa có. Nếu có cũng chỉ
trong cung cách đúng đắn để tạo uy tín chứ chưa đến độ “đối đầu” như thời Pháp
Nhiệm 2. Vì lúc đó, các chức vụ trong Văn Phòng Thượng Viện và Hạ Viện, các Chủ
Tịch Ủy Ban đều được bầu theo thể thức đơn danh. Ai có khả năng, uy tín dễ dàng
được bầu vào các chức vụ của Quốc Hội.
Người
ta thấy ỏ Thượng Nghị Viện, giới lãnh đạo đưọc bầu rất là có uy tín. LS Nguyễn
Văn Huyền được bầu vào chức Chủ Tịch. Các chức vụ khác cũng được các Nghị Sĩ có
uy tín đảm nhiệm theo khả năng và kinh nghiệm. Tại Hạ Nghị Viện, Cụ Nguyễn Bá
Lương được bầu làm Chủ Tịch trong 4 năm liền. Cụ Lương là người hiền lành dễ
bảo dĩ nhiên được bên Hành Pháp Nguyễn Văn Thiệu tín nhiệm. Còn ông Nguyễn Bá
Cẩn lúc đó còn hơi cứng đầu, chưa được tin dùng. Phải qua Pháp Nhiệm 2 ông
Nguyễn Bá Cẩn mới được Hành Pháp và các Dân Biểu thân chính tín nhiệm làm Chủ
Tịch mấy năm liền cho tới khi đuợc ông Thiệu vời qua làm Thủ Tướng 8 ngày lót
đường chọ họ chạy khỏi nuớc theo kế hoạch của Mỹ.
Xin
nói thêm, vào lúc mới bầu xong Quốc Hội Lập Pháp 1967, lúc đó Liên danh Nguyễn
Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đã được hai ông thỏa thuận sắp xếp lại do áp lực của
Quân Đội và Hoa Kỳ. Nhưng đó là Liên danh “đồng sàng dị mộng”, sớm muộn
rôì cũng bể làm hai: anh đi đường anh, tôi đường tôi! Mới đầu, bên Hành Pháp,
người của ông Kỳ còn nắm nhiều chức vụ then chốt, nhưng dần dà, nhờ cái thế
thượng phong, ông Thiệu đã thu hồi lại quyền lực vào trong tay mình, và ông Kỳ
vì non cơ đành bó tay.
Tại
Hạ Nghị Viện, ông Kỳ mới đầu cũng định vận động thành lập Khối cho phe mình
nhưng lại chơi lối quân tử Tầu, mời ăn uống thù tạc để lấy cảm tình nên kết quả
không được là bao. Ông Thiệu thì thực tế hơn: dùng tiền để mua chức, mua phiếu.
Ai theo phe ông Thiệu thì có 50 ngàn đồng tươi rói. Tiền nay do chính ông
Nguyễn Cao Thăng trao tận tay ở Văn Phòng. Ai không theo thì tay không. Kết quả
cái lối hành xử của ông Thiệu tuy nắm được đa số thân chính, nhưng lại dồn
người có liêm sỉ vào cái thế đối lập. Người ta thấy những vị thuộc phe nhóm đối
lập trong giai đoạn đầu ăn nói hành xử đứng đắn và gây được ít nhiều thiện cảm
của dư luận. Chỉ gần đến năm cuối của Pháp nhiệm 1 thì các Dân biểu thân Cộng
mới từ từ ló đầu ra, như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Phan Xuân Huy, Kiều Mộng
Thu. Các Dân biểu này đều quy tụ trong Khối Xã Hội do DB Phan Thiệp, một Đảng
viên Quốc Dân Đảng làm Trưởng Khối, có khuynh hướng thân Phật Giáo Ấn Quang .
Hồ Ngọc Nhuận lúc đó được bầu làm Chủ Tịch Ủy ban Xây Dựng Nông Thôn hoạt động
mạnh nhất, liên kết chặt chẻ với nhóm thầy tu cấp tiến như đã nói trên. Kiều
Mộng Thu thì ra mặt thân Ấn Quang, vì là “người của các Thầy” và cũng được các
Thầy “yêu quý”, nhưng lại “cặp bồ” với DB Trần Ngọc Châu.
Kiều
Mộng Thu tên thật là Trương Ngọc Thu, người An Giang (tức Long Xuyên), làm thơ
lấy bút hiệu là Kiều Mộng Thu, có thi phẩm Lá Đổ Trên Mười Đầu Ngón Tay. Vì
thấy bà ta quậy quá nên báo chí đặt cho cái tên là “Nàng Kiều Lá Đổ”. Cái mụ
Dân Biểu “Nàng Kiều Lá Đổ” này nổi tiếng cướp chồng người khác, khiến bà vợ ông
Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Chức Sắc có lần ra điên cởi hết quần áo trần như nhộng
chạy ra đường! Khi DB Trần Ngọc Châu bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nhốt vô
khám vì bí mật liên lạc với anh ruột là tên Việt Cộng Trần Châu Khang thì Kiều
Mộng Thu vật vã, khóc la inh ỏi. Báo Con Ong (?) lúc đó có làm bài thơ nổi
tiếng về “Nàng Kiều Lá Đổ”. Ông Nguyễn Trường Đoàn, nhân viên làm việc ở Hạ
Nghị Viện gặp bà Kiều Mộng Thu đi ngang qua hành lang liền kêu:
-
Bà Dân Biểu ơi. Bà làm thơ hay quá. Báo Con Ông đăng rùm lên. Bao nhiêu người
chen chúc nhau mua đọc thơ của bà đấy.
Kiều
Mộng Thu liền móc bóp:
-
Tiền đây, anh chạy mau ra mua dùm tôi một số.
Ông
Đoàn mua báo Con Ong về, đưa cho cho bà ta đọc:
Châu
ơi ta bảo Châu này:
Châu
vào trong khám, Châu cày với ai?
Và:
Châu
ơi ta bảo Châu này:
Châu
vào trong khám, ai cày với ta?
Kiều
Mộng Thu mặt đỏ như trái cà chua, vội xé giục vô sọt rác.
Bề
mặt là như thế. Còn bề trái thì đám Dân Biểu mệnh danh là Đối lập cũng làm
nhiều trò bỉ ổi, tồi tệ. Chống đối thì cứ chống đối, nhưng tiền thì vẫn có thể
nhận ngầm của Hành Pháp. Hai tên lố lăng nhất là Lý Quý Chung và Dương Văn Ba.
Lý Quý Chung con ông Lý Quý Phát (một thời làm Phó Đô Trưởng Sài Gòn). Lý Quý
Chung bỏ dở ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, là một tên trốn quân dịch, được Bộ
Trưởng Thanh Niên Võ Long Triều thời nội các Nguyễn Cao Kỳ, cho làm Giám Đốc
Nha Thanh Niên, sau ra ứng cử Dân Biểu và may mắn đăc cử. Là Dân biểu, nhưng Lý
Quý Chung lại tổ chức sòng bạc ở nhà bên Chợ Lớn, sát phạt nhau và lấy tiền
xâu. Dương Văn Ba cũng là một tên cờ bạc, ăn bẩn, nên bị các Đồng viện gọi là Dương
Văn Bẩn. Lý Quý Chung chủ sòng bài nhưng lại thua đậm, nợ Dương Văn Ba cả trăm
ngàn. Không có tiền trao, Lý Quý Chung viết giấy nợ đưa cho Dương Văn Ba vào
phòng Phát Ngân Hạ Nghị Viện chặn lương. Vì có thơ riêng viết tay của Lý Quý
Chung nên đúng kỳ lương, Dương Văn Ba vào nhưng lại bị Phát Ngân chặn lại đưa
thơ của Lý Quý Chung viết:”Lương của tôi phải do đích thân tôi lãnh” làm Dương
Văn Ba nổi giận quát tháo om sòm “Đù cha, đù mẹ thằng Lý Quý Chung” ngay ở Hội
Trường Hạ Viện. Nhưng vẫn chưa hết. Lý Quý Chung theo phò Dương Văn Minh ứng cử
Tổng Thống năm 1972 và huênh hoang tuyên bố nếu ông Thiệu độc diễn sẽ từ chức
Dân Biểu. Ai ngờ ông Thiệu cứ tiến tới. Lý Quý Chung chới với, không dám từ
chức, vì sợ Nha Động Viên gọi đi lính, miệng nói không lãnh lương, nhưng tháng
nào cũng lãnh đủ không thiếu một xu cho tới khi Dương Văn Minh được trao chức
Tổng Thống để đầu hàng Cộng Sản. Lý Quý Chung được chức Bộ Trưởng Thông Tin một
ngày của Nội các Vũ Văn Mẫu mà việc đầu tiên và duy nhất là làm phóng viên phỏng
vấn tên Sinh viên CS Huỳnh Tấn Mẫm ở Đài Phát Thanh Sài Gòn sáng ngày 30 tháng
04 năm 1975.
(Nguồn
tài liệu: riêng của người viết và trích từ Ghềnh Thác Đời Tôi, bản thảo Hồi ức
của Cựu DB Đặng Văn Phương, pháp nhiệm I (1967-1971) đơn vị Kiên Giang, chưa
xuất bản, hiện định cư tại Hoa Kỳ)
Lúc
đó (thời pháp nhiệm 2: 1971-1975), các cuộc biểu tình chống chính phủ thường
hay diễn ra công khai tại tiền đình Hạ Viện (bây giở là Nhà hát Thành Phố của
Việt Cộng). Thành phần gồm đủ thứ: Sư, cha, trí thức, sinh viên, học sinh.
Nhiều Dân biểu thuộc Khối Dân Tộc Xã Hội thân Ấn Quang cũng nhẩy ra hợp tác.
Cảnh Sát Dã Chiến lại được điều động tới để dẹp các cuộc biểu tình bằng lựu đạn
cay. Kiều Mộng Thu, Nguyễn Phước Đại, Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên và một đám
học sinh hùa ra làm theo. Có lần Cảnh Sát Dã Chiến dùng vòi nước xịt ngay vào
mấy mụ. Nước xịt thấm quần áo làm cho các mụ ngứa quá, vội chạy vô Sở Công Tác
Ủy Ban Hạ Nghị Viện. Nhân viên, cảnh sát, đồng bào ngoài phố được chứng kiến
một màn thoát y vũ độc đáo: các mụ tự động “cởi chuồng một chăm phần chăm” vui
đáo để. Từ đó các mụ tởn quá không dám ra mặt đi biểu tình nữa!
Từ
1971-1975, Quốc Hội Lưỡng Viện đều theo lệnh của Hành Pháp qua tay của Phụ Tá
Nguyễn Văn Ngân vừa được nâng lên thay Phụ Tá Nguyễn Cao Thăng mới qua đời vì
bịnh ung thư. Theo chỉ thị của Hành Pháp, các Dân biểu thân chính tiến hành
việc tu chính Nội Quy của Hạ Nghị Viện: việc bầu các chức vụ Văn Phòng và các
Chủ Tịch Ủy Ban theo thể thức Liên danh thay vì Đơn danh như thời Pháp nhiệm I.
Theo thể thức này, những Dân Biểu thuộc loại gà nhà mà dư luận báo chí gọi là
“Dân biểu gia nô” của Hành Pháp theo lối bầu “lấy thịt đè người” nắm hết các
chức vụ. Kế hoạch cũng vẫn là xử dụng tiền bạc để mua chuộc, quy tụ. Tất nhiên
đa số chạy theo Hành Pháp để vừa có tiền lại vừa có chức. Bên Thượng Viện cũng
sửa nội quy, bầu các chức vụ theo thể thức Liên Danh. Nghị Sĩ nào có uy tín và
dư giả tiền bạc thì mới dám về phe Đối lập hay Độc lập. Cụ Nguyễn Văn Huyền thụ
ủy Liên Danh Bông Huệ tái đắc cử trong cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện năm
1973 đã từ chức để phản đối. Trong khi đó, như đã nói trên, BS Nguyễn Duy Tài
thuộc Liên danh Hoa Sen của GS. Vũ Văn Mẫu xé rào chạy theo phe thân Hành Pháp
do NS Trần Van Lắm làm Chủ Tịch Thượng Nghị Viện để được chức Chủ Tịch Ủy Ban
Ngoại Giao.
Tại
Hạ Viện, Hành Pháp vẫn nắm đa số qua hai Khối Cộng Hòa và Khối Độc Lập nhờ có
tiền bạc và thế lực. Các Dân biểu khác quy tụ trong hai khối Dân Tộc Xã Hội
(Trưởng Khối là LS. Trần Văn Tuyên) và Khối Cấp Tiến (Trưởng Khối là DB Nhan
Minh Trang). Số còn lại khoảng trên chục người thành nhóm Dân Biểu Quốc Gia
cũng gọi là Dân Biểu Độc Lập. Trên hình thức là như thế, nhưng cũng có
những ông bà Dân biểu Đối Lập “ngầm” nhận tiền của Hành Pháp để báo cáo, nên dư
luận mới gọi họ là “Đối Lập Cuội”. Lập trường của các dân biểu Đối Lập này phần
lớn là chống lại đường lối của Hành Pháp và phe thân chính. Cực đoan và quyết
liệt nhất là số Dân biểu thân Ấn Quang trong Khối Dân Tộc Xã Hội. Thời Đệ Nhị
Cộng Hòa, những tên Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Kiều Mộng Thu, Phan Xuân Huy,
Lý Quý Chung, vân vân chưa dám thò cái đuôi thiên Cộng ra mà phải sau 30 tháng
4 năm 1975 mới công khai lộ diện. Có thể Trung Ương Tình Báo VNCH đã biết ít
nhiều hành tung của chúng nhưng cứ để yên theo dõi. Đặc biệt nhất là Đinh Văn
Đệ, nguyên Tỉnh Trưởng Tuyên Đức, Dân Biểu phe thân chính (Khối Cộng Hòa),
đương kim Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng lại là tên Việt Cộng nằm vùng khéo che
giấu nhất. Đệ được người chú ruột Việt Cộng tên Đinh Văn Út có bí danh là Chín
Mẫn móc nối vào năm 1969 sau biến cố Mậu Thân để làm công tác gián điệp cung
cấp tin tức quân sự cho Cộng Sản. Phải đợi đến sau 30-04-1975, Đinh Văn Đệ mới
xuất đầu lộ diện mang cấp bực Sĩ Quan thuộc Bộ Tư Lệnh Thành Phố của Việt Cộng.
Hầu như các Dân Biểu thân Cộng khác cũng vậy, nghĩa là chỉ được móc nối khoảng
thời gian sau Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt từ khi Hòa Đàm Ba Lê bắt đầu. Đây là
thời điểm thuận lợi cho tình báo của Việt Cộng vì Hoa Kỳ với TT Nixon đang muốn
rút quân ra khỏi Việt Nam sau khi đã thỏa thuân ngầm với Trung Cộng. Việt Cộng
đưa ra chiêu bài “Thành Phần Thứ Ba’ nhưng thực chất là Việt Cộng nắm đầu chi
phối. Những thành phần chống đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu dễ dàng ăn vào
cái bả mới đầy nguy hiểm này bởi chủ trương hoạt đầu và cơ hội chủ nghĩa. Họ
không theo được Thiệu, càng không muốn bị chụp cái mũ Việt Cộng nên cảm thấy
hãnh diện khi tự cho mình đứng vào “thành phần thứ ba” với hy vọng sẽ đóng một
vai trò quan trọng trong chính phủ “Liên hiệp ba thành phần”. Thật ra nhóm Dân
Biểu thuộc loại Tứ Quý do Cộng Sản lợi dụng giật dây không nhiều, nhưng chúng
có đất dụng võ là nghị trường (Trụ sở Quốc Hội) và nhờ phối hợp với nhóm Truyền
Thông Báo Chí nên dễ gây được tiếng vang.
Đối tượng Truyền Thông Báo Chí
Báo
Chí Truyền Thông là lực lượng rất đáng kể như ngành báo chí tại Hoa Kỳ. Truyền
thống báo chí tại Hoa Kỳ phải nói thật là đẹp vì chủ trương tôn trọng sự thật.
Lực lượng báo chí ấy rất đáng được coi là “Quyền Thư Tư” sau ba quyền Lập
Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp tại các nước dân chủ vì báo chí đã ảnh hưởng rất
nhiều đến đường lối lãnh đạo chỉ huy của các quyền kia. Ảnh hưởng rõ nhất là
trong giai đọan chiến tranh Việt Nam. Báo chí với những tiết lộ động trời
về cuộc đảo chính 1-11-1963 do chính quyền Kennedy đạo diễn, về các
bí mật quốc phòng, về vụ Watergate đến việc từ chức của Tổng Thống Hoa Kỳ
Richard Nixon. Chỉ cần một bài viết (của Walter Lippman, Art Buchal) cũng đủ
làm cho nhiều giới nóng mặt. Nhưng bên cạnh việc tôn trọng sự thực ấy, báo chí
cũng có nhiều nhược điểm và sai lầm. Cộng Sản chỉ cần khai thác những điểm đó.
Chẳng hạn về những bí mật quốc phòng và nhiều vấn đề tế nhị khác, không nên
tiết lộ hoặc tiết lộ sớm đều có hại cho sách lược chỉ đạo chiến tranh ở ViệtNam.
Vì qua báo chí, Cộng sản có thể đo lường được cảm nghĩ và phản ứng của dân
chúng để có thể khai thác thêm nhằm thủ lợi. Mặt khác, không phải báo chí loan
tin đều là sự thật. Có những bài báo được tung ra với chủ đich xuyên tạc hoặc
bi thảm hóa thực trạng để gây chấn động dư luận. Như thời chính quyền Kennedy
âm mưu lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, báo chí Mỹ đã đưa ra các bài viết và các
hình ảnh xấu của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa để lèo lái dư luận dân chúng chán ghét
chế độ ở Miền Nam. Thành ra trong cái lợi lại có cái hại. Cộng sản thì dư biết
thực chất của “tự do báo chí” nên trong xã hội Cộng Sản, không bao giờ chúng
chấp nhận cho tự do báo chí. Báo chí và công tác văn nghệ theo quan niệm của
Cộng Sản là phải phục tùng chính trị, là công cụ của Đảng. Đảng bảo viết sao
thì phải viết vậy. Báo chí và cả dân chúng không được phép phát biểu ngược lại
đường lối của Đảng. Trong các nước CS ngay như VN hiện nay (báo lề phải), ngành
báo chí tuy số lượng sau này có nhiều hơn nhưng nội dung rất nghèo nàn. Nếu
thời 1975, VNCH có tới 40 tờ nhật báo thì Cộng sản Bắc Việt sau khi tấn chiếm
Miền Nam cả nước chỉ có vài tờ Nhật Báo (Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân ở Miền
Băc; tờ Sài Gòn Giải Phóng và Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức - Hồ Ngọc Nhuận ở
Miền Nam. Tờ Tin Sáng bị đóng cửa sau đó vài năm. Đối với Cộng Sản, thời gian
chiến tranh, trong nội bộ chúng không cần quan tâm nhiều vì chúng kềm kẹp và
kiểm soát toàn diện. Chúng chỉ đặt nặng công tác khai thác tự do báo chí tại
phía đối phương như Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và các nước Tự do. Sách lược khai
thác tất nhiên rất là rất tinh vi, linh động tùy theo giai đoạn và hoàn cảnh
đấu tranh, khai thác riêng rẽ hay vận động liên kết.
Thời
VNCH, những tờ báo thân Cộng không dám ra mặt, nhưng lối viết đã kích chính
quyền, bới móc chuyện xấu của chế độ vô tinh hay cố ý đều làm lợi cho luận điệu
tuyên truyền của Cộng Sản. Trong cuộc chíến thời đó, Cộng Sản Bắc Việt thì bưng
bít cả Miền Bắc “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Cộng Sản Miền Nam ở
trong rừng sống như những con ma thì không mấy ai biết những cái xấu xa tệ hại
của chúng trừ nạn pháo kích bừa bãi vào dân chúng, vào các làng mạc, thành phố.
Chỉ có những gì được phô ra hiện diện ở thành phố, làng mạc của VNCH thì người
ta dễ nhận ra và lên tiếng đả kích, phê bình. Và tâm lý chung của con người là
chỉ thích nhìn thấy những cái dở, cái xấu của chế độ để có dịp chỉ trích, phê
bình hơn là để ý đến những cái hay, cái tốt của nhà cầm quyền để ca tụng, tán
thưởng. Hãy lấy một thì dụ cụ thể: nhìn lên tấm bảng trắng có cái chấm đen,
người ta chú trọng đến cái chấm đen hơn là nhìn cả tấm bảng trắng. Hoặc nhìn
vào một người đẹp, có cái sẹo nhỏ ở cằm, người ta chú ý đến cái sẹo hơn là cả
khuôn mặt xinh xắn của cô. Cũng thế, khuynh hướng của báo chí truyền thông là
thích đưa chuyện giật gân, chuyện riêng tư, chuyện bí mật nhằm câu tính tò mò
của độc giả để bán báo kiếm tiến. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa vì lãnh đạo yếu kém đã
tạo ra muôn vàn kẽ hở và tệ đoan xã hội, nhất là nạn tham nhũng, mua quan bán
chức. Các tệ nạn này là những cớ cho báo chí truyền thông khai thác.
Thật
ra thì nạn tham nhũng và mua quan bán chức hiện nay của Cộng sản còn tệ hại hớn
gấp ngàn lần. Đàn áp, bóc lột, chiếm nhà đất của dân xẩy ra nhan nhản khắp nước
nhưng bọn chúng có thèm quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đâu. Bọn Tư Bản
Đỏ đã nghiễm nhiên ngự trị, phá hoại, bóc lột nhân dân có bài bản và “lai-sân”
hợp pháp. Lý tưởng Cộng sản Đại đồng đã trở thành chế độ bóc lột hơn bao giờ
hết, Đảng Cộng Sản biến thành Đảng Cộng Hưởng. Cho nên chúng ra sức bảo vệ
quyền lợi của phe đảng bằng mọi mánh khóe thủ đoạn. Trên ăn trên, dưới ăn dưới.
Cấp lớn ăn lớn, cấp nhỏ ăn nhỏ. Địa phương nào ăn địa phương đó. Tự do tham
nhũng bóc lột nhân dân miễn là biết chia chác và đừng bao giờ đụng tới cái ghế
ngồi của cấp trên chúng là được. Những gì chúng quai mồm tra chửi chế độ tư bản
đế quốc thì nay chúng tự động khoác vào cổ mình không chút ngượng ngùng xấu hổ!
Hơn 800 tờ báo theo “lề phải” của chúng có tờ nào dám động tới chúng
chưa, hay chỉ là bọn bồi bút viết theo lệnh đặt hàng: “Cái gì Đảng cũng đúng.
Chống đối Đảng là sai!”. Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Lý Chánh
Trung, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Long, Châu Tâm Luân, Trần Tam Tỉnh, Ngô Bá
Thành, Thích Trí Quang, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan đâu, sao không thấy một tên
nào dám lên tiếng như trước kia?
Thời
Việt Nam Cộng Hòa, nhờ tự do ngôn luận, báo chí và ngành xuất bản phát triển
mạnh. Chế độ Cộng Hòa non trẻ mới được thành lập sau Hiệp Định Genève 1954 tất
nhiên còn nhiều khuyết điểm cần được xây dựng bổ túc là chuyện đương nhiên mà
bất cứ ai có khả năng nhận thức cũng có thể hiểu và thông cảm những khó khăn
đó, trừ bọn nhà báo bất lương ngoại quốc. Bọn nhà báo này xuất thân từ xứ tự do
nhưng lại là những tên bồi bút, làm công tác tình báo, viết bài theo lệnh hay
chỉ thị của chủ. Bọn này chỉ nhắm vào những khuyết điểm của chính quyền quốc
gia để viêt bài phê bình chỉ trích. Trong số bọn này cũng có những thành phần
phóng túng tự cho là cấp tiến, có khuynh hướng thiên tả và thiên Cộng. Những
cái dở, cái xấu xa của Cộng sản thì chúng làm lơ không nói đến. Nhưng
phía quốc gia có caí gì tiêu cực là chúng nhào vô chỉ trích quyết liệt. Vào
cuối thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chúng đã làm công tác cho CIA, ngụy tạo, vu
không nhiều chuyện nhằm tạo dư luận đưa đến việc mua chuộc nhóm tướng lãnh âm
mưu lật đổ chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm để thay vào đó là bọn đâm
thuê chém mướn dễ dàng sai bảo. Rồi qua thời Đệ Nhị Cộng Hòa, bọn này lại a dua
với Cộng Sản và tay sai dựng đứng nhiều chuyện nhằm bôi bẩn chế độ quốc gia như
chuyện đàn áp tù chính trị, vụ “Chuồng Cọp Côn Sơn”, vân vân nhằm tạo dư luận
thuận lợi cho Mỹ có lý do rút quân và bán đứng Miền Nam cho Cộng sản.
Nhưng
dù là thế nào và dù có bị kiểm duyệt ít nhiều thì thời Việt Nam Cộng Hòa cho
đến nay vẫn là thời huy hoàng của báo chí Việt Nam. Cứ bình tâm mà xét và
so sánh xem suốt một thế kỷ qua thời nào, dưới chế độ nào, báo chí và
ngành xuất bản của Việt Nam được phát triển và tự do nhất, nếu không phải là
thời Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975)? Những tờ báo thân Cộng như Tin Sáng, Điện
Tín, Đại Dân Tộc, Đối Diện, vân vân của Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Hồng Sơn
Đông, Võ Long Triều, Lý Quý Chung, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung đã
múa may quay cuồng như thế nào nhờ chế độ tự do ngôn luận của VNCH? Ai cũng
biết, kể cả các đương sự đều biết rõ rằng chế độ tự do báo chí có kiểm duyệt ấy
tốt hơn vạn lần chế độ báo chí “đi theo lề phải” hiện nay của Cộng Sản Việt Nam.
Chỉ cần đọc những bài viết, những hồi ký của chúng từ 30-4-1975 về
sau đều thấy rõ tâm trạng bất mãn, chán chường, não nề của bọn chúng.
Như
đã nói trên, báo chí được coi như “Quyền Thứ Tư” trong các quốc gia theo chế độ
dân chủ. Báo chí thường phản ảnh quan điểm và nguyện vọng của đại đa số quần
chúng. Báo chí cũng là món ăn tinh thần hằng ngày của họ. Bởi đó, Cộng Sản tìm đủ
mọi cách để xâm nhập, lèo lái hoặc phổ biến những bài vở với luận điệu tuyên
truyền có lợi cho Cộng Sản, hay ít ra làm giảm uy tín của nhà cầm quyền quốc
gia. Cái tâm lý chung của quần chúng là tò mò thích chuyện mới lạ, giật gân. Tờ
báo nào muốn sống lâu, làm ăn phát đạt nghĩa là được dân chúng mua nhiều thì
phải có những tin mới lạ, giật gân, những thiên phóng sự hấp dẫn, những bài
quan điểm hay lập trường đanh thép, nhất là những bài viết dám đả kích chính
quyền các cấp. Thường những người làm báo kinh nghiệm phải biết đủ mánh khỏe để
quảng cáo tờ báo của mình. Tất nhiên, trong số những người làm báo không thiếu
gì những phần tử lưu manh, dùng tờ báo như công cụ để “bắt địa”
(blackmail/chantage) những nhân vật có tật (tham nhũng, có bồ nhí hay vợ lẽ…).
Chúng viết phóng sự, mới đầu chỉ he hé một chút để mấy ông bà nào đó “có tật
giật mình” có cơ hội “điều đình”, khi đã ngả giá thì chúng tuyên bố vì lý do kỹ
thuật, xin tạm ngưng thiên phóng sự, vân vân và vân vân.
Những
tờ báo thân Cộng vừa nói trên đây đã ít nhiều đã làm lợi cho Cộng sản. Việt
Cộng đã xâm nhập và cài được người của chúng vào một số báo chí của Miền Nam tùy
theo mức độ, trong đó có tên Huỳnh Bá Thành tức Họa sĩ Ớt đã làm Tổng Thư Ký
cho tờ Đại Dân Tộc của DB. Võ Long Triều. Sau ngày 30-04-1975, Huỳnh Bá Thành
hiện nguyên hình là một sĩ quan Việt Cộng mang lon Thiếu Tá đeo súng ngắn và Sà
cọt đi nghênh ngang giữa Sài Gòn khiến các văn nghệ sĩ và mấy ông nhà báo thời
VNCH phải rùng mình khiếp sợ! Người ta còn nhắc đến những Vũ Hạnh, và một số
những tên khác nữa đã từng bị an ninh VNCH bắt giam tại Trung Tâm Cải Huấn Tân
Hiệp, Biên Hòa, vân vân.
Như
đã nói trên, khi Cộng Sản thôn tính hoàn toàn Miền Nam thì tất cả báo
chí của Miền Nam bị đóng cửa. Thay vào đó là tờ Sài Gòn Giải Phóng
một nhật báo mới của Việt Cộng được cho ra thay thế. Tờ báo chỉ có 4 trang
nghèo nàn tin tức, chẳng có gì lạ ngoài những thông cáo và chỉ thị. Thời gian
sau, nhóm nhà báo thân Cộng như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức thời VNCH được Hà
Nội cho phép tái bản thờ Tin Sáng vài năm rồi cũng bị đóng cửa vĩnh viễn luôn.
Để xoay sở kiếm sống. mấy anh nhà báo thân Cộng xu thời này bắt đầu mon men
viết bài ca tụng Đảng nhưng chẳng ích lợi gì cho cá nhân. Bây giờ thì mấy anh
mới mở mắt to ra mà nhận thực rằng: “Cộng Sản là loài đểu cáng, chuyên vắt
chanh bỏ vỏ. Chanh hết nước thì chúng giục vô thùng rác!”
Sinh Viên, Học Sinh, Trí Thức Nửa Vời
Sinh Viên, Học Sinh, Trí Thức Nửa Vời
Đây
là những thành phần tương đối trong sạch, hăng hái đầy nhiệt huyết, ghét bất
công, nhưng lại sợ đi lính đánh giặc, dễ tin và ngây thơ. Trong cuộc chiến vừa
qua, phải nói thật rằng các giới sinh viên, học sinh trí thức ít được giáo dục
về chính trị nên cũng ít nhận ra được thực chất của Cộng sản bên kia vĩ tuyến
17. Trước mắt họ chỉ thấy những bất công của chế độ Nguyễn Văn Thiệu nên tỏ
thái độ bất mãn chống đối. Thật ra thì đại đa số sinh viên học sinh chỉ lo học
hành và chỉ có một số rất nhỏ bị Cộng Sản xâm nhập tuyên truyền, móc nối hứa
hẹn để làm tay sai cho chúng. Trước biến cố 1-11-1963, có thể nói là không hề
có nạn sinh viên học sinh do ảnh hưởng của Cộng sản móc nối xúi giục nổi lên
đấu tranh chống chính quyền. Có chăng chỉ một số nhỏ ở thành phố có liên hệ gia
đình với một vài nhân vật thuộc Đảng phải quốc gia âm thầm chống đối trong các
cuộc đảo chính 1960 và 1963. Ví lúc đó, Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống
với BS. Trần Kim Tuyến và Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung với ông Duơng Văn
Hiếu đã tiêu diệt hầu như toàn bộ hế thống tình báo gián điệp của Việt Cộng ở
Miền Nam. Phải đợi cho đến sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, khi hệ thống An ninh
Quốc gia bị phá vỡ và Quốc sách Ấp Chiến Lược bị hủy bỏ do lệnh của ông Tướng
“tham, hèn, ngu” Dương Văn Minh, và khi một số tù tình báo của Việt Cộng được
Đỗ Mậu, Mai Hữu Xuân và Hà Thúc Ký ký lệnh thả vì tham nhũng hay vì áp lực thì
Cộng Sản mới có cơ hội xâm nhập phá hoại. Phần lớn các cuộc xuống đường của
Sinh viên Học sinh chống Chính phủ chỉ xẩy ra ở Sài Gòn và Huế. Sau vụ Phật
Giáo Ấn Quang phe Thích Trí Quang làm loạn ở Miền Trung năm 1966 bi Quân Lực
VNCH dẹp tan, một số đã chạy vào bưng theo Việt Cộng. Đến năm 1968 nhân cuộc
Tổng Công Kích Mậu Thân do Hà Nội phát động thì chúng kéo nhau trở lại Huế làm
mưa làm gió, giết hại hàng vạn Quân Dân Cán Chính VNCH ròng rã bao tháng trời.
Nhưng cuộc Tổng Công Kích của chúng bị thất bại nặng nề. Một lần nữa, bè lũ
Giáo sư, Sinh Viên ngoài Huế như Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, vân vân cùng với Thích Đôn
Hậu, bà Tuần Chi (tên Việt Cộng nằm vùng và là người tình của Thích Đôn Hậu)
lại vội vã trốn vào bưng hay ra miền Bắc. Nạn Sinh viên Học sinh thân Cộng ở
Huế hầu như không còn nữa hay không dám xuất đầu lộ diện. Tại Sài Gòn, chúng
bắt đấu ló ra từ các Trường Đại Học để tranh các chức vụ trong Ban Đại Diện
Sinh Viên, và nhất là Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn. Từ tranh chấp nội bộ, gây rối
trong các Trường Đại Học, sau dẫn đến chống đối Chính quyền: chống đi lính,
chống quân sự học đường, đòi quyền lợi, đòi hòa bình. Bắt đầu là những mục tiêu
do bất công gây nên, sau lan dần qua các lĩnh vực khác: xã hội, tôn giáo, chính
trị, vân vân.
Số
lượng Sinh Viên Học Sinh chống đối do Cộng sản giật dây không nhiều. Nhưng
chúng làm việc có bài bản, có chỉ đạo, được các thành phần khác trong nhóm “Tứ
Quý” hỗ trợ bênh vực. Điển hình là Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì không ưa
ông Nguyễn Văn Thiệu đã từng bí mật chứa chấp, bao che bọn này. Về những
khuôn mặt đấu tranh xuống đường ở Sài Gòn thì nổi bật nhất trong số đó là Huỳnh
Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Cao thị Quế Hương, Trương Thìn, Phạm Ngọc Cầu, Nguyễn
Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng, vân vân. Những trường Đại Học Y Khoa, Luật Khoa, Văn
Khoa thường là nơi sào huyệt xuất phát bọn chúng. Những trường như Sư Phạm,
Nông Lâm Súc, Phú Thọ hay Quốc Gia Hành Chánh có quy chế đặc biệt học để trở
thành công chức sau khi ra trường có việc làm thì hầu như không bị ảnh hưởng.
Khoảng thời gian từ 1-11-1963 đến 30-04-1975, số lượng Sinh Viên
Học Sinh bị Cộng sản móc nối dụ dổ theo chúng không quá vài chục tên, cùng một
số Sinh Viên Học Sinh hùa theo nhất thời. Cái dở là Chính quyến Quốc Gia thời
Đệ Nhị Cộng Hòa với quyền hạn và khả năng lớn như vậy nhưng đã phản ứng và đối
phó thiếu quyết liệt.
Còn “Bọn Trí Thức Nửa Vời” thì sao? Gọi là “trí thức nửa vời” vì tuy chúng có bằng cấp cao, học vị cao, tốt nghiệp từ những trường danh tiếng bên Tây chẳng hạn, nhiều tham vọng nhưng dốt nát về chính trị, ngây thơ và dễ tin, cho nên dễ dàng bị Cộng sản tuyên truyền mua chuộc. Cộng sản không yêu cầu đám này theo chúng hay trở thành Đảng viên, nhưng dùng chiêu bài “thành phần thứ ba” đề cao bọn này nhằm chia rẽ đối phương. Cộng Sản đã đánh đúng vào chỗ ngứa, đề cao bọn này, rõ ràng không phải là Cộng sản, nhưng cũng không phải là người của chính quyền nên chính quyền không có lý do gì bắt bỏ tù. Với chiêu bài đó, chúng công khai hứa hẹn “Thành phần thứ ba” sẽ giữ vai trò quan trọng trong “Chính Phủ ba Thành phần” gồm Chính phủ VNCH, Mặt Trận Giải Phóng và Thành phần thứ ba. Chiêu bài này quả là ăn khách và rất được bọn cơ hội chủ nghĩa đón nhận. Những tên tuổi như Dương Văn Minh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Long, Châu Tâm Luân, Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành và một số chính khách thân Ấn Quang càng ngày càng lộ diện tự cho là “Thành phần thứ ba” với hy vọng sẽ nắm vai trò quan trọng trong Chính Phủ hay Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, một thứ Chính Phủ Liên Hiệp mà Cộng Sản sẽ nắm đàng chuôi. Cộng Sản đã lợi dụng triệt để những tên tuổi đó cùng những tổ chức thân Cộng mà chúng nhào nặn ra để tuyên truyền, thổi ầm lên nhằm đánh lừa dư luận. Hãy coi lại những tổ chức mà Cộng Sản nhào nặn rồi thổi lên bằng những danh xưng to lớn kêu la inh ỏi như cái gọi là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình của Trịnh Đình Thảo, Lể Văn Hảo, Lâm Văn Tết, Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống của Ngô Bá Thành, Phong Trào Nhân Dân Cứu Đói của Ni sư Huỳnh Liên, Ủy Ban Cảì Thiện Chế Độ Lao Tù của Linh mục Chân Tín, vân vân và vân xem có bao nhiêu thành viên? Thực chất, tổ chức nào của chúng cũng chỉ có từ một đến vài ba ngoe là cùng. Nhưng chúng ra sức tuyền truyền triệt để và thổi um lên khiến dư luận, đặc biệt là dư luận tại các nước Tây phương tưởng rằng tổ chức của chúng to lớn lắm, đông người lắm. Trong khi đó, Bộ Thông Tin cũng như Bộ Ngoại Giao của VNCH đã tỏ ra yều kém (nếu không nói là lơ là) trong công tác tuyên truyền của mình cả về hai mặt đối nội cũng như đối ngoại. Điều đó vô tình đã tạo cho chúng được dịp múa gậy vườn hoang với bao hậu quả tai hại không lường được cho vận mệnh dân tộc.
Nói
đến Tứ Quý là nói đến 4 đối tượng hàng đầu mà Cộng Sản nhắm tới trong cuộc đấu
tranh thường xuất hiện ở các thành phố. Mới đầu chúng hoạt động riêng lẻ, sau
vì nhu cầu (có chỉ đạo hay giựt dây hay không) chúng có thể tự động liên hết
với nhau, dựa vào nhau, hỗ trợ cho nhau làm nên một phong trào đấu tranh chung.
Mặt nổi và quan trọng nhất là báo chí vì đó là nhịp cầu liên kết và ảnh hưởng
dễ dàng với quần chúng độc giả khắp nơi. Hàng ngày chúng theo dõi báo chí và đo
lường mức độ hoạt động. Dân chúng các giới cũng theo dõi báo chí để biết tin
tức. Chính quyền dù có chế độ kiểm duyệt lại càng phải theo dõi kỹ hơn. Nếu găp
phải những trường hợp đặc biệt tất nhiên chính quyền phải thận trọng và dè dặt
khi đối phó. Vì đụng tới các phần tử thầy tu thì chúng la lên rằng đàn áp tôn
giáo. Đụng đến Sinh Viên Học sinh là đàn áp tuổi trẻ ngây thơ. Đụng đến trí
thức là đàn áp những người bất đồng chính kiến, không tôn trọng quyền tự do dân
chủ. Đụng đến báo chí là đàn áp quyền tự do ngôn luận. Đụng đến các vị Dân cử
là không tôn trọng quyền bất khả xâm phạm. Hãy coi lại thời đó, chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu có dám làm mạnh với mấy tên Sư Tăng thân Cộng thuộc phe Ấn
Quang trong chùa của phe này không? Thích Minh Châu là đảng viên Cộng Sản kỳ
cựu từ khi du học bên Ấn Độ, vậy tại sao được Nguyễn Khánh chấp nhận cho về làm
Việt Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh? Thích Thiện Minh oa trữ súng trong chùa bị
bắt rồi sau lại thả? Hồ Ngọc Nhuận được Cộng Sản “móc nối” khi đi Pháp, sao
Trung Ương Tình Báo không tóm cổ? Vân vân và vân vân.
Tứ Quý và Mặt Trận Tuyên Truyền của Cộng sản
Như
đã nói trên, bọn Tứ Quý được Cộng Sản xâm nhập, móc nối và khai thác triệt để
chì có từ sau biến cố 1-11-1963. Cũng kể từ đó cho đến những năm cuối của
nền Đệ Nhị Cộng Hòa khi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu càng ngày càng trở nên yếu
kém, nhất là sau khi Hiệp Định Paris ngày 27-03-1973 được các bên ký kết. Tuy
mang danh là Hiệp Định nhưng thực chất đó là bản án khai tử mà Hoa Kỳ đã buộc
chính phủ Nguyễn Văn Thiệu phải ký vào để Nixon thắng cử và để Mỹ rút quân khỏi
Việt Nam với sự thòa thuận ngầm trước đó gìữa Henry Kissinger với phe Cộng Sản.
Từ đây, Cộng Sản được rảnh tay khỏi phải lo đối phó với pháo đài bay B52 của Mỹ
từng rải hàng vạn tấn bom xuống trên đầu khiến chúng muốn buông xuôi đầu hàng.
Nay thì chúng được tự do hoạt động tuyên truyền đánh phá VNCH trên mặt trận
thông tin và ngoại giao nhằm mục đích nâng cao uy tín chúng lên và hạ Việt Nam
Cộng Hòa xuống. Adolf Hitler lãnh tụ Đức Quốc Xã và được coi là cha đẻ ngành
tuyên truyền hiện đại đã nói: “Nhờ tuyên truyền, chúng ta có thể làm cho người
ta tin Thiên đường là Địa ngục và Địa ngục là Thiên đường.” Cộng Sản Bắc Việt
đã khai thác triệt để câu nói thời danh ấy khi thành lập Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam (12-1960) cũng như các tổ chức liên hệ của chúng như Liên Minh Các Lực
Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình (4-1968) và cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam (6-1969) từ thực chất là những con ma để
trở thành những thực thể sống động.
Thời
Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ra một cuốn Bạch Thư tố cáo
Cộng sản Hà Nội là cha đẻ ra công cụ MTGP và là thủ phạm mọi phá hoại tại Miền
Nam. Bạch Thư đã được 2 trong ba thành viên (là Ấn Độ và Canada) của Ủy
Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến công nhận, ngoại trừ Ba Lan là phe Cộng sản
thì chống đối. Nhưng dư luận quốc tế cũng như quốc nội đều công nhận Chính
quyền VNCH với Tổng Thống Ngô Đình Diệm là chính quyền hợp pháp là đại diện
chân chính của nhân dân Miền Nam. Suốt từ năm 1954 đến 1963, VNCH đã được hơn
100 quốc gia công nhận và ngay cả Hà Nội cũng phải thừa nhận điều đó. Đích thân
Thủ Tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần gửi Công Hàm vào Sài Gòn yêu cầu
Chính Phủ Ngô Đình Diệm hiệp thương với miền Bắc. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ra
điều kiện để hai bên có thể hiệp thương là Hà Nội phải tôn trọng nhân quyền và
quyền tự do đi lại của dân chúng Miền Bắc, chấp thuận cho những gia đình phân
cách do hậu quả phân chia Nam Bắc từ Hiệp Định Genève 1954 được tự do vào Nam
đoàn tụ, vân vân nhưng Hà Nội không dám nhận. Tiếc rằng chính phủ hợp pháp ấy
đã bị Mỹ âm mưu lật đổ để thay bằng một chính quyền dễ sai bảo nên VNCH đã trở
thành yếu kém, phải hạ mình đứng ngang hàng với “con ma” được gọi là Chính Phủ
CMLT/CHMNVN tại hòa đàm Paris. Trong khi đó, nhờ khai thác triệt để về tuyên
truyền, Cộng Sản Hà Nội và đàn anh Nga Hoa đã biến con ma Măt Trận Giải
Phóng và cái gọi là CPCMLT/CHMNVN thành một thực thể đứng ngang hàng với Việt
Nam Cộng Hòa, để sau cùng VNCH bị chúng nuốt trọn vào ngày 30 tháng 04 năm
1975.
Trong
một bài có tựa đề là: “Vài chuyện mắt thấy tai nghe: Phe Cộng Sản nghĩ sao về
Tổng Thống Ngô Đình Diệm?” đăng trong Tâp San của Hội Ái Hữu Người Việt Quốc
Gia Hải Ngoại tại Nam Cali, nhân kỷ niệm 50 năm Hiến Pháp VNCH: 1956
- 2006, từ trang 97-102, GS. Tôn Thất Thiện có nhắc đến bài điểm sách “The Year
of the Hare” của GS Francis Xavier Winters năm 1999 trong tạp chí Ấn Độ “World
Affair”: Một quan điểm mới về vụ đảo chánh….”, Giáo sư Tôn Thất Thiện đã
ghi lại:
“Khi
được tin ông Diệm bị lật đổ, Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng,
Wilfrid Burchett: “Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế.”
Cũng
trong bài viết cho Tâp San này, GS. Tôn Thất Thiện ghi lại cuộc gặp mặt bà Hồ
Thị Mộng Chi, một người bạn thân tử khi Giáo sư còn du học ở London. Bà
Chi là người thân Cộng cư ngụ ở Paris, nhưng sau đã vỡ mộng. Bà chi kể
lại:
“…
Trong thời gian gần đây tôi may mắn gặp được một ngươì từ Hà Nội, mà tôi quen
khá thân trước năm 1954. Và cũng rất may, người này là một người hiếm có đã
được chính tai mình nghe Ông Hồ nhận định về vụ đảo chánh 1963. Người này tuyệt
đối cấm tôi tiết lộ tên trong khi y còn sống, vì đây là một “bí mật thâm cung”,
nên tôi chỉ gọi là “Cán bộ X”. Cán bộ X đã kể cho tôi nghe câu chuyện như sau:
Y là một người có mặt tại Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội xẩy ra đảo chính ở Sài
Gòn. Y thuộc một nhóm được Ông Hồ cho gặp chiều 2/11/1963. Khi vào Phủ Chủ
Tịch thì Ông Hồ đang bận tiếp một phái đoàn gì đó. Y phải đợi ngoài hành lang.
Đang đợi thì thấy có người mang một bao thơ vào cho Ông Hồ. Nhìn vào, thấy Ông
mở thơ ra đọc, xong, không nói gì, bỏ thơ vào túi, rồi tiếp tục tiếp khách.
Một
lúc sau khách di rồi, Ông cho gọi nhóm của Cán bộ X vào, và nói: “Lúc này người
ta báo cho Bác biết là Diệm vừa bị lật đổ. Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhứt
của Bác. Nay ông đã bị loại rồi, thì chiến thắng chắc chắn sẽ về tay ta
rồi.”"
Lật
đổ một nhân vật, một chế độ mà tập đoàn Cộng Sản Việt gian phải khiếp sợ, để
rồi VNCH phải ngồi ngang hàng với con ma Giải Phóng, một công cụ bù nhìn của Hà
Nội thì thiết tưởng không có gì ngu dại hơn bọn đâm thuê chém mướn!
Cộng Sản xử dụng Tứ Quý như thế nào?
Tứ quý là đối tượng tranh thủ của Cộng Sản trong cuộc xâm lăng nên chúng đã nghiên cứu kỹ càng và dư biết thực chất của bọn Tứ Quý để lợi dụng chúng theo từng giai đoạn. Bản chất của Tứ Quý là tự cao, bất mãn, ngây thơ, ham địa vị, quyền lợi và danh vọng. Giai đoạn đầu chưa chiếm được lãnh thổ và chính quyền thì Cộng Sản ra sức đề cao, tâng bốc, khai thác bất mãn, rủ rê, mua chuộc bọn này. Khi đã thuận theo chúng thì chúng dành cho Tứ Quý những địa vị cao, những danh xưng rất kêu trong những tổ chức do chúng nặn ra mục đích chỉ để tuyên truyền và làm những việc có lợi cho chúng. Những tổ chức này chỉ có danh và không có thực. Bọn Tứ Quý ham danh được đề cao mặt nổi, trong khi thực chất thì người của chúng (CS) nắm trọn quyền bên trong. Tứ Quý chỉ là bọn bù nhìn mà không biết. Bọn này đứng làm vì, ngồi chơi sơi nước hay được Cộng Sản cho đóng kịch. Nếu bọn này có thắc mắc, Cộng Sản giải thích là vì hoàn cảnh chiến tranh nên cần giữ bí mật và giới hạn việc liên lạc. Hãy nhìn lại những tên tuổi nổi của bọn Tứ Quý như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Nguyễn Văn Hiếu, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hồ Văn Bửu, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, vân vân trong những tổ chức gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để xem bọn này đã giữ những vai trò gì và làm gì? Tất cả chỉ là công cụ bù nhìn và đóng kịch cho chúng tức Cộng Sản Bắc Việt để chúng sai bảo, không có chút thực quyền ngay tại chức trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lúc đó, bọn này được đưa vào ở những khu bí mật trong rừng sâu, có nhà tranh, nhà lá để ở với nhiều tiện nghi hơn bộ đội. Lâu lâu được CSHN bí mật đưa ra Miền Bắc hay sang các nước Cộng sản để làm công tác tuyên truyền. Công việc của chúng chỉ có bấy nhiêu. Tại Hòa Đàm Ba Lê thì Cộng sản Hà Nội đã dàn dựng bài bản đầy đù, cứ việc nghe theo mà đóng kịch. Rồi sau khi tấn chiếm được Miền Nam, bọn này đã làm gì? Cũng chỉ tiếp tục đóng vai trò bù nhìn với danh xưng khác còn thực chất vẫn chỉ là bù nhìn không hơn không kém. Xin điểm mặt một vài tên tiêu biểu trong Tứ Quý:
Trước hết là Nguyễn Hữu Thọ, CSBV phong cho làm Chủ Tịch Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTGP) 1960, rồi Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLT/CHMNVN) 1969. Sau 30-04-75 Thọ được phong làm “Phó Chủ Tịch Nước thứ 2” trong chính phủ Cộng Sản ở Hà Nội, một chức Phó thứ 2 thêm vào mà chỉ dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam mới có. Thường các nước chỉ có một Phó Chủ Tịch hay Phó Tổng Thống. CSVN bày lắm trò thêm chúc Phó Chủ Tịch Nước thứ 2 vào để Nguyễn Hữu Thọ “ngồi chơi sơi nước”.
Chuyện
xẩy ra như thế này do người thân của Lâm Văn Tết, Phó Chủ Tịch cái gọi là
LMCLL/DTDCVHB kể lại cho Đại Đức Nhật Thường và người bạn của người viết nghe.
Sau khi Cộng Sản tấn chiếm Miền Nam, nhóm Miền Nam gồm Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn
Thị Bình, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, vân vân họp bàn với nhau tại Sài Gòn.
Câu hỏi đươc đặt ra để thảo luận là: Nay mai ra Hà Nội họp, nếu Bộ Chính Trị
Đảng CSVN hỏi bao giờ thực hiện thống nhất hai miền Nam Bắc thì trả lời như thế
nào? Sau khi bàn qua tán lại, tất cả đồng ý Nguyễn Hữu Thọ đại diện anh em MiềnNam trả
lời là sau 5 năm. Chuyện xẩy ra đúng như dự liệu. Trong buổi Tiếp Tân do Bộ
Chính Trị Đảng Cộng Sản khoản đãi phái đoàn Miền Nam ở Hà Nội, Lê
Duẩn Tổng Bí Thư Đảng đã hỏi: “Quý anh nghĩ liệu trong bao lâu hai Miền Nam Bắc
sẽ thống nhất với một chính phủ đại diện duy nhất cho Việt Nam?” Nguyễn
Hữu Thọ ngay tình trả lời là 5 năm như đám Miền Nam đã đề nghị. Nghe
Nguyễn Hữu Thọ trả lời như vậy thỉ Lê Duẩn mở miệng cưởi hô hố một cách
rất đểu khiến mặt Nguyễn Hữu Thọ sụ xuống trông rất thảm hại. Từ đó, đám Miền Nam thất
vọng, nhưng câm như hến, không anh nào dám có ý kiến ý cò gì cả và bài bản
thống nhất của Hà Nội cứ như thế mà tiến hành.
Thực
tế thì ngay sau ngày 30-04-1975, Hà Nội đã ồ ạt tung Cán bộ Đảng viên từ
Bắc vào Nam để nắm mọi cơ cấu tổ chức địa phương. Địa phương nào, cấp
nào cũng có cán bộ Đảng viên gốc Bắc hay Trung vào nắm mọi vị trí then chốt về
an ninh, quân sự và kinh tế.
Thực
tế, người dân Miền Nam ai cũng biết và chính Trương Như Tảng trong
hồi ký Mémoire d’un Vietcong đã xác nhận điều đó. Còn các Cán bộ Đảng viên miền Nam chỉ
được đóng vai trò thứ yếu hay phụ tá. Thật ra thì các cơ sở Đảng và Tình báo
của Cộng sản ở Miền Nam đã bị phá vỡ và tiêu diệt từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa qua
Phong Trào Tố Cộng. Sau này, nhờ cuộc Đảo chánh 1-11-1963, khi hệ thống an
ninh Ấp Chiến Lược của VNCH bị Dương Văn Minh phá vỡ, nên các cơ sở nằm vùng
mới có cơ hội được xây dựng trở. Tiếp theo, khi Mỹ rút quân thì CS Bắc Việt đã
tung rất nhiều đơn vị Bộ Đội vào Miền Nam để thay thế đám địa phương
đã bị Quân Lực VNCH tiêu diệt. Chứng kiến thấy việc Hà Nội đưa Cán bộ Đảng viên
từ Miền Bắc vào nắm mọi cơ sở địa phương nên các anh chị Mặt Trận Giải Phóng
cay cú lắm, nhưng không dám hé môi. Bây giờ các anh chị mới biết Cộng Sản Bắc
Việt là bọn chuyên dối trá, lừa bịp và đểu cáng thì mọi sự đã quá muộn!
Thực
chất như đã nói trên, bọn Tứ Quý và nhất là mấy anh chóp bu của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam hay cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN toàn là những
tên ngây thơ đến độ ngu si đần độn. Trương Như Tảng là một thí dụ điển hình.
Trường Như Tảng là con nhà giàu, từng được gia đình cho du học bên Pháp. Tốt nghiệp xong về nước, có lúc đã làm Tổng Giám Đốc Công Ty Đường Việt Nam tại Sài Gòn. Khi còn học ở Pháp, Tảng đã trót dại nghe Việt Cộng rủ rê và khi về VN thì bí mật hoạt động cho chúng. Năm 1966, Trương Như Tảng bị Cảnh sát Quốc Gia dưới quyền TT Nguyễn Ngọc Loan bắt giam ở TTCH Chí Hòa. Sau mấy năm khi Hoa Kỳ cần trao đổi với Việt Cộng, đã áp lực VNCH mượn Tảng rồi thả ra. Tảng liền vô bưng và được phong làm Bộ Trưởng Tư Pháp của cái chính phủ ma CMLT/CHMNVN cho đến 30-04-1975. Trong buổi diễn binh mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn Miền Nam trên Đại Lộ Thống Nhất rước Dinh Độc Lập ngày 15 tháng 05 năm 1975, chứng kiến các đon vị diễn hành đi ngang qua khán đài toàn là Bộ Đội Miền Bắc mà không thấy Bộ Đội Giải Phóng đâu cả, Trương Như Tảng đã hỏi Văn Tiến Dũng các đơn vị bộ đội giải phóng đâu thì Văn Tiến Dũng thản nhiên trả lời: “Thì hai bên đã thống nhất rồi cỏn gì nữa”.
Nguyên
văn tiếng Anh:
“
At last, when our patience had almost broken, the Vietcong units finally
appeared. They came marching down the street, several straggling compaìes,
looking unkempt and ragtag after the display that has preceded them, Above
their heads flew a red flag with a single yellow star – the flag of the
Democratic Republic of North Vietnam.
Seeing
this, I experienced almost a physical shock. Turning to Van Tien Dung who was
standing next to me, I asked quietly, “Where are our divisions one, three,
five, seven, and nine?”
Dung
stared at me a moment, the replied with equal deliberatness: “The Army has
already been unified.” As he pronounced these word, the corners of his
mouth curled up in a slight…”
Vietcong
Memoir trang 264-265.
Mấy tháng sau Hà Nội đã thực hiện thống nhất toàn bộ trong một Hội Nghị mà thực chất là sát nhập hay khai tử Mặt Trận Giải Phóng, đưa vào Mặt Trận Tổ Quốc và Chình Phụ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN vào Chính Phủ Cộng sản Miền Bắc. Từ đó Trương Như Tảng mới nhận thức được mặt thật của Cộng sản và âm thầm chạy trốn. Ngày 25 tháng 08 năm 1978, Tảng đã bí mật xuống tàu vượt biển, hơn một tuần sau thì được tàu hàng Singapore vớt chở tới đảo Galang, thuộc Indonesia. Tại đây, Tảng xin Cao Ủy cho định cư ở Pháp. Nhờ có thì giờ và được tự do thong thả, Tảng viết hồi ký Mémoire d’un Vietcong bằng tiếng Pháp để tố cáo CSVN trước dư luận quốc tế.
Tiếp theo là Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH). Dương Quỳnh Hoa cũng là con nhà giàu được du học Pháp đậu bằng Bác sĩ Y Khoa. Thời gian ở, Pháp Dương Quỳng Hoa đã bị rủ rê và y thị đã gia nhập Đảng Cộng sản. Năm 1957, DQH về Sài Gòn vừa làm việc trong ngành Y tế vừa làm gián điệp cho Cộng sản. Năm 1960, Vìệt Cộng cho Dương Quỳnh Hoa với bí danh Thùy Dương là một trong những thành viên của MTGP. Sau cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, DQH vô bưng được phong làm Bộ Trưởng Y Tế trong cái chính phủ ma CMLT/CHMMNVN. Sau 30-04, khi CSBV đã tấn chiếm miền Nam, liền giải tán Chính Phủ ma của Việt Cộng và hạ DQH xuống hàng Thứ Trưởng Y Tế. Sau đó ít lâu, Hà Nội lại cất chức và cử y thị làm Giám Độc Bệnh Viện Chợ Rẫy. Dương Quỳnh Hoa bất mãn, than thở với Nguyễn Hữu Thọ: “Chúng ta chỉ là lũ bù nhìn.”. Dương Quỳnh Hoa đem trả lại thẻ Đảng. Mới đầu Hà Nội muốn cho y thị qua Pháp, nhưng sau nghĩ lại thấy nguy hiểm nên đã bắt y thị phải câm miệng 10 năm. Có lần được một phóng viên ngoại quốc phỏng vấn, Dương Quỳnh Hoa đã không ngần ngại nói huỵch toẹt:
"Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng
nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân
dân như là một kẻ thù tiềm ẩn.” Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:
“Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại.” Cũng trong bài viết của TS. Mai
Thanh Truyết trên trang mạnh do Châu Xuân Nguyên đưa lên ngày 30-03-2013,
còn ghi như sau: Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời
và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù
nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định…
Chính
trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu
của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS
quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã
trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là
món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ
thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả
lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả."
Nguyễn
Thị Bình theo Cộng Sản từ lâu, được cử làm Phó Chu Tịch Hội Phụ Nữ
Giải Phóng sau là Bộ Trưởng Ngoại Giao của cái gọi là CPCMLT/CHMNVN, dự Hội Đàm
Paris. Sau 30 tháng 4 được cử làm Bộ Trưởng Giáo Dục, rồi Phó Chủ Tịch Nước thứ
2 bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ.
Nói
chung, tất cả những nhân vật thuộc MTGP, Liên Minh CLL/DTDCHB, và cái gọi
là Chình Phủ CMLT/CHMNVN khi bị giải tán hay sát nhập vào chính quyền Cộng Sản
Bắc Việt thời chỉ được những chức “Phó” ngồi chơi sơi nước. Tất cả là một lũ bù
nhìn. Những thành phần nổi tiếng hay tạm đưọc coi là có công khéo đóng kịch cho
Đảng Cộng Sản thì được cho làm Đại Biểu Quốc Hội qua chủ trương “Đảng cử, Dân
bầu”. Thí dụ: Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra danh sách sẵn 11 người
thì dân chọn 10. Vì Dân Chủ của Cộng sản là “Dân Chủ Tập Trung” Đảng năm hết
mọi quyền hành, Đảng chỉ ai thì dân bầu người đó. Thành phần ít nổi tiếng hơn,
thì được cho làm Đại Biểu Nhân Dân ở cấp dưới như Tỉnh, Huyện, Thành phố. Vai
trò Đại Biểu là vai trò trang trí, bù nhìn. Khi họp là phải tuân theo lệnh
Đảng. Đảng bảo sao làm vậy. Cả đám “Nghị gật” này chỉ có nhiệm vụ là “giơ tay”.
Bởi thế mà có bài thơ diễu:
Đảng
chỉ tay
Quốc
Hội giơ tay
Mặt
Trận vỗ tay
Công
an còng tay
Nhân
dân trắng tay…
Chủ
trương của Cộng Sản trước sau như một là “Hồng hơn Chuyên” và “Trí phú địa hào,
đào tận gốc, trốc tận rễ”. Đừng tưởng rằng những khẩu hiệu này chi áp dụng cho
thời kỳ “Cải Cách Ruộng Đất” ở Miền Bắc từ 1953-1956, nhưng là áp dụng triệt để
suốt trong thời gian Cộng Sản cầm quyền từ khi thành lập đến nay, nghĩa là phải
tiêu diệt giới giàu có và trí thức. Nếu có dùng thì chỉ dùng giới hạn và giai
đoạn khi những thành phần này biết lột xác, và đạt tiêu chuẩn là triệt để trung
thành và tùng phục Đảng cách thành khẩn. Và nếu muốn được như vậy thì trước hết
phải biết chia động từ “SỢ” như Nguyễn Tuân từng tâm sự. Nhìn lại khoảng thời
gian khoảng trên 60 năm qua, từ khi Cộng sản nổi lên nắm chính quyền, xem chúng
đã áp dụng phương châm này ra sao?
Tại
Miền Bắc thì những nhân vật trí thức như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo bị đì
trối chết! Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt bớ, tù đày. Hàng trăm ngàn người bị
quy là phú nông, địa chủ dù chỉ có vài mẫu ruộng đã bị đem ra đấu tố. Những
người giàu và có công với Đảng như bà Cát Thanh Long ở Thái Nguyên đã bị đấu tố
chết! Ngây thơ như Nguyễn Khắc Viện từ Pháp về VN phục vụ Đảng cũng chỉ cho làm
chuyên viên!
Còn
tại Miền Nam, thời thế thay đổi, Cộng Sản không dám áp dụng Cải Cách trắng trợn
như tại Miền Bắc, nhưng chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản” đã làm nhân dân cả
nước đói khổ. Cả bọn chóp bu của MTGP, LMCLL/DTDCHB, và cái chính phủ ma
CMLT/CHMNVN chỉ được ban cho chức “Phó” ngồi chơi sơi nước hay những ông bà Đại
biểu chi biết gật và giơ tay, đi đâu cũng có Công an “bảo vệ” (nghĩa là theo
dõi, kiểm soát). Đảng viên trung thành lâu năm như Trần Bạch Đằng đặc
trách trí vận Sài Gòn Chợ Lớn cũng không được tin dùng, chỉ cho làm Ủy Viên
Trung Ương để dễ bề kiếm soát. Vợ Trần Bạch Đằng là dân i tờ rít từng bị Cảnh
Sát Quốc Gia của VNCH bắt giam từ trước Tết Mậu Thân 1968. Sau đó lại được Tòa
Đại Sứ Mỹ mượn để trao đổi với Việt Cộng. Sau 30-04-1975, vợ Trần Bạch Đằng
được Đảng ban cho chức Thứ Trưởng Tư Pháp Miền Nam để gật đầu, giơ tay và lãnh
lương! Bởi thế Trần Bạch Đằng cay cú viết cuốn Kẻ Sĩ Gia Định than thở đủ điều!
Riêng Trịnh Đình Thảo may mắn sao vớ được “cô đầm lai” trẻ trung tối ngay đi
dung dăng dung dẻ mà không sao cả! Có lẽ Thảo già rồi, sắp xuống lỗ nên
Đảng lờ đi để khóa mõm và bắt tiếp tục đóng kịch.
Riêng
thành phần Tứ Quý tại Sài Gòn và Huế thì còn rõ hơn. Anh chị nào ngoan ngoãn,
biết vâng lời thì cho ra làm Đại Biểu Quốc Hội như Huỳnh Công Minh, Phan Khắc
Từ, Chân Tín, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm. Còn những
tên khác như Trần Thúc Linh, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Ngô Bá Thành, Lê
Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng, vân vân chỉ được tham gia Mặt Trận Tổ Quốc cấp
Quận, Huyện hay Thành phố. Thực chất như bao người biết Mặt Trận Tổ Quốc chỉ là
cái lồng, cái rọ để Đảng CS buộc các đoàn thể và Tôn giáo tham gia để chúng dễ
bề kiểm soát. Nếu thời gian đầu thử thách, ông bà anh chị nào tỏ ra ngoan ngoãn
thì sẽ cho làm Đại Biểu Quốc Hội. Trường hợp Ngô Bá Thành là
điển hình nhất. Vì những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Ngô Bá Thành cho mình là
trí thức thuộc “thành phần thứ ba” với Dương Văn Minh. Y thị còn hy vọng sẽ
có Chính phủ ba thành phần và đã cực lực phản đối việc Dương Văn Minh nhận chức
Tổng Thống VNCH từ tay Tổng Thống Trần Văn Hương. Y thị thổ lộ với Đại Đức Nhật
Thường (một ông sư duy nhất được phép cưới vợ để nối dõi tong đường vì thuộc
gia đình con một) và các bạn khác rằng: “Ông Dương Văn Minh nhận như vậy tất
nhiên mất tư cách Thành phần thứ ba” là hỏng rồi! Ngô Bá Thành tuy là trí thức
có bằng Luật sư nhưng cũng rất ngây thơ và nông cạn. Y thị đâu có biết
mình chỉ là con rối và Dương Văn Minh chỉ là một tên tướng tham, hèn, ngu mà Mỹ
đã dùng chỉ để phá đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa (1963) và để hốt rác dùm Mỹ: đuổi
Mỹ và đầu hàng Cộng Sản (1975)! Cho nên mới đầu Cộng Sản không cho Ngô Bá
Thành chức vụ gì cả. Sau này y thị tỏ ra ngoan ngoãn mới được Đảng cho làm Đại
Biểu Quốc Hội vài ba khóa chỉ để “giơ tay”!
Nói
chung, trước 30-4-1975, được sống trong tự do, bọn Tứ Quý múa rối làm loạn
cả Sài Gòn.
Sau 30-04-1975,
Cộng Sản vào đàn áp, tịch thu tài sản của nhân dân, cả lũ im như thóc. Bởi vây
mới có thơ rằng:
Tranh
đấu đâu rồi chẳng thấy la?
Năm
năm giải phóng kiếm không ra!
Cô
đòi Quyền sống, đòi đầu nhỉ?
Cụ
chống Lao tù, chống thế a?
Cứu
đói nhân dân chờ rã họng,
Cầu
no Tổ quốc muốn trầy da.
Mới
hay tranh đầu buồn như thế,
Sĩ
khí tâm can rõ khéo là!
Tại sao Cộng Sản đối xử với cánh Miền Nam như vậy?
Bởi
vì CSBV dư biết rằng trong một thể chế tự do dân chủ như tại Miền Nam mà bọn
này còn bất mãn và dễ dàng nghe lời dụ dỗ để theo chúng mà chống lại VNCH thì
làm sao bọn này có thể sống dưới chế độ kiềm kẹp của Cộng Sản mà không bất bình
uất ức? Cho nên Cộng Sản chỉ lợi dụng mà không tin dùng bọn này có lòng trung
thành như những anh “bần cố nông” thứ thiệt từ trong rừng chúng nhào nặn ra như
Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải và sau này như Nguyện
Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, vân vân. Ngay như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Định,
Nguyễn Thị Bình, Trần Bửu Kiếm đã theo Đảng từ lâu mà chúng có tin dùng đâu
(Chỉ dành cho chức Phó hay Đại Biểu Quốc Hội). Huống chi có học như Nguyễn Hữu
Thọ, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, hay những anh Việt Cộng non trẻ và ngây thơ
như Nguyễn Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Nguyễn Thị Đoan Trinh, vân vân. May lắm thì bọn này được chúng cho chức Uỷ viên
Mặt Trận Tổ Quốc cấp Quận, Huyện hay Thành phố. Có lẽ duy nhất Nguyễn Đăng
Trừng được chức “Bí Thư Chi Bộ Đảng trong Đoàn Luật Sư Thành Phố Hồ Chí Minh”.
Đây chỉ là thế kẹt phải làm, chảng lẽ lại đưa một anh hay một chị thuộc loại i
tờ rít làm Bí Thư giữa những anh chị Luật sư có học ở Miền Nam thì kỷ
quá. Nhưng biết đâu, bên cạnh Bí Thư Nguyễn Đăng Trừng lại có một “Siêu Bí Thư”
thuộc loại i tờ rít để kiểm soát Bí Thư thì sao? Câu chuyện tiếu lâm sau
đây có thể giải thích cho cái nghịch lý này:
Tại
chợ HÀNG CHIM ở Hà Nội, có ông bán Vẹt biết nói (trong Nam gọi là con
Két).
Khách
đến mua, đưa tay chỉ vào con số 1: “Giá bao nhiêu?”
Chủ
trả lời: “5 ngàn vì nó biết hô to: Hồ Chủ Tịch Muôn Nam!”
Khách
chỉ vào con số 2: “Giá bao nhiêu?”
Chủ
trả lời: “10 ngàn vì nó biết nói: Mao Chủ Tịch Muôn Nam!”
Khách
chỉ tiếp vào con số 3: “Bao nhiêu?”
Chủ
trả lời: “15 ngàn vì nó biết hô to: Đả Đảo Đế Quốc Mỹ!”
Khách
lại chỉ vào con số 4: “Bao nhiêu?”
Chủ
trả lời: “20 ngàn vì nó nói được câu: Tình Hữu Nghị Việt Hoa Nồng Khắm!”
Khách
chỉ vào con số 5: “Bao nhiêu?”
Chủ
trả lời: “Con này giá đặc biệt 50 ngàn, nhưng nó không biết nói.”
Khách
ngạc nhiên hỏi lại chủ: “Không biết nói sao lại đắt thế?”
Chủ
trả lời: Nó không biết nói, nhưng nó chỉ huy được những con kia!”
Hình
ảnh mấy đàn Két (hay Vẹt) đó chính là hình ảnh của Đảng Cộng Sản, của Nhà Nước
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đảng viên cán bộ gồm toàn những con vẹt. Con vẹt
khôn, biết nói thì luôn phải làm cấp dưới. Chỉ những con không biết nói, không
biết suy nghĩ mới có thể đứng đầu tức là Lãnh Tụ Đảng, là Chủ Tịch, Tổng Bí Thư
Đảng! Cho nên không lạ gì Cộng Sản luôn luôn kỵ trí thức, nhất là trí
thức được giáo dục, được đào luyện dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa hay tại các
quốc gia có tự do dân chủ. Còn trí thức xã hội chủ nghĩa của Đảng phải xuất
thân từ bần cố nông, là “con ông cháu cha”, biết vâng lời, tùng phục và nhất là
biết sợ. Cứ nhìn vào con các ông lớn Việt Cộng hiện nay thì đủ rõ: học hành láo
lếu, dốt dặc cán mai, chỉ lo ăn chơi đàng điếm, phung phí tiền bạc với gái. Vậy
mà lại được cha anh chúng cắt cử vào những chức vụ cao trong chính quyền theo
kiểu phong kiến vua chúa ngày xưa. Chúng có làm bậy, phạm lỗi cũng không ai dám
đuổi. Vì thế mới có 5 C và 5 Đ.
Năm
(5) C tức là “Con Cháu Các Cụ Cả” và năm (5) Đ: Đếch Đuổi Đi Đâu Được”.
Tâm trạng và phản ứng của Tứ Quý
Sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm
và sư sãi Ấn Quang rước hình Hồ vào Sài Gòn ngay sau khi cộng quân chiếm được
miền Nam (ảnh trái)
Thích Đôn Hậu, Đệ Tam
Tăng Thống GHPGVNTN, vui vẻ trò chuyện cùng Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp sau khi
nhóm Phật giáo tranh đấu dọn đường cho cộng quân xâm lược miền Nam (ảnh phải)
Khi
Sài Gòn mới được “giải phóng” thì các anh chị Tứ Quý hồ hởi ra mặt, tìm đủ cách
để tâng công với hy vọng Đảng sẽ đãi ngộ xứng đáng. Nào ngờ, chỉ sau vài tháng
khi tình hình đã ổn định, đặc biệt sau khi chúng đã lùa xong hằng triệu Quân
Dân Cán Chính VNCH vào các trại Học Tập Cải Tạo (nhà tù Việt Cộng) thì gọng kìm
an ninh bắt đầu khép lại. Báo chí bị đóng cửa hết. Mấy anh nhà báo thân Cộng
bây giờ đói vêu mõm, vì không có việc làm. Mấy anh Dân Biểu đối lập trước kia
thì hầu hết vô các trại tù ngoại trừ mấy anh có công đếm trên đầu ngón tay như
Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Ngô Công Đức, Phan Xuân Huy. Lúc ấy, người dân
Sài Gòn nhìn thấy các anh chị ăn mặc xuề xòa kiểu Bộ đội xa hội chủ nghĩa với
áo để ngoại quần, đi đôi dép râu, đạp xe cọc cạch trông thật là thảm hại! Còn
mấy ông Sư Ấn Quang có công đã ra tận Xa Cảng Phú Lâm đón rước Bộ Đội Cộng Sản
vào thành ăn mừng giải phóng, cũng biết thân bìêt phận âm thầm về Chùa tụng
kinh gõ mõ chờ Đảng cho ra cái gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và dẹp luôn
GHPGVNTN. Chín chục phần trăm (90/100) sư sãi đã gia nhập Giáo Hội quốc doanh
của Nhà Nước. Ông Sư bà Vãi nào cứng đầu thì cho đi tù! Đó là cái giá mà phe
Phật Giáo Ấn Quang phải trả. Thích Minh Châu là Đảng viên, nhưng mất chức Viện
Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Mấy đệ tử đi theo cũng chung số phận, về vườn hay
đi tù cả lũ! Thích Huyền Quang bị giam lỏng. Thích Quảng Độ bị lôi ra tòa và
tống cổ ra miền Bắc ở Thái Bình. Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ còn bị lên án tử
hình sau đưọc giảm án nhờ biết thay đổi lập trường và hối cải (?).
Bây
giờ các ông bà Tứ Quý mới mở mắt ra và mới biết Độc Lập, Thống Nhất, Tự Do, Dân
Chủ kiểu Cộng Sản là gì? Là đi theo bánh xe lịch sử của Đảng, phải tùng phục
vâng lời và phải biết sợ, đừng có dại dột mà xuống đường biểu tình như trước.
Xin hãy đọc các hồi ký hay hồi ức hoặc các bài viết, bài phát biểu riêng tư của
mấy anh Tứ quý Miền Nam: Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Dương Quỳnh Hoa, Trương
Như Tảng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, vân vân thì sẽ thấy tâm trạng chán chường,
não nề của mấy anh chị. Nhưng những năm từ 1975 đến 1991, khi chế độ Cộng Sản
còn đứng vững ở nhiều nơi trên thế giói, nhất lại các nước Á Phi và Châu Mỹ La
Tinh như Việt Nam, Cu Ba, Đông Âu, Đông Đức… thì không anh nào dám ho he. Anh
nào khôn thì kiếm đường vượt biên. Không vượt biên được thì nằm im chịu trận.
Chỉ từ sau 1991 khi Khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Sô sụp đổ thì các anh mới bắt
đầu rục rịch. Trung thành như Hồ Ngọc Nhuận mà cũng còn tìm cách cho con qua
Pháp. Ngang ngược như Khối Ấn Quang với Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang,
Thích Đôn Hậu cũng phải nằm im, chẳng ma nào dám nhúc nhích, cựa quậy. Nhờ biến
cố Đông Âu, Thích Huyền Quang mới dám công bố Tuyên Ngôn 9 điểm, nhưng có một
điểm rất dở là nói “Đảng Cộng Sản đã ưu đãi Thiên Chúa Giáo” thật sai lầm! Đoàn
kết chưa thấy đã thấy thái độ hẹp hòi thiếu khôn ngoan. Đáng lý ra Hòa Thượng
Huyển Quang nên lợi dụng cơ hội này nói lên tinh thần đoàn kết Liên Tôn thì hay
biết mấy thay vì đẩy Tôn giáo bạn đứng xa Phật Giao Ấn Quang. Vì từ năm 1977,
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã mạnh dạn lên tiếng bênh vực Phật Giáo Ấn
Quang tại Hội Nghị do Thành Ủy Huế - Thừa Thiên tổ chức vậy mà sao không thấy
Hòa Thượng Huyền Quang nhắc tới?
Thời gian trôi qua, nhờ công nghệ thông tin qua các trang mạng toàn cầu và nhất là Phong Trào Dân Chủ trên thế giới như một xu thế của thời đại, thổi bay các chế độ độc tài, không có gì cản lại được. Nhiều Đảng viên CSVN đã thức thời, tỉnh ngộ, nhận ra sự thật và dám lên tiếng nói đòi Tự Do Dân Chủ thay vì nằm im chịu trận như trước. Những Bùi Tín, Dương Thu Hương, Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Hộ, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyên Huy Thiệp, Nguyễn Khắc Toàn, vân vân bắt đầu lên tiếng mạnh mẽ. Nhiều tài liệu và tác phẩm của họ đã được công khai đưa lên các trang mạng toàn cầu hay được ấn hành ở nước ngoài như tại Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Âu châu. Đến nay sau 38 năm ngày CSBV tấn chiếm Miền Nam (1975-2013) thì hầu như cả nước đều thấy rõ giữa hai miền Nam Bắc, giữa hai chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1946-1975) tức Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975) chế độ nào văn minh, tôn trọng nhân quyền và quyền Tự do của người dân hơn? Chế độ nào làm cho nhân dân hạnh phúc hơn? Chế độ nào dân chủ hơn? Chế độ nào bán nước cho giặc phương Bắc? Chế độ nào thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Cộng? Chế độ nào là Viêt gian tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế? Vân vân và vân vân.
Đặc
biệt bây giờ thì giới trẻ còn can đảm hơn nữa, họ đã mạnh dạn đứng lên bày tỏ
quan điểm, lòng yêu nước và quyền tự do của mình cách công khai trên các trang
mạng cũng như giữa thành phố đông đúc dầy đặc công an canh giác. Bởi vì bộ mặt
thật của chế độ Cộng Sản Việt Nam đã bị lột trần qua các hành vi ác ôn và tệ
hại của chúng. Đó là chế độ Việt gian chỉ biết làm tay sai cho ngoại bang, hèn
với giặc ác với dân. Bọn này đã tự nguyện dâng đất dâng biển cho Tàu Cộng rồi
dùng bạo lực để cướp đoạt ruộng đất của dân nghèo. Tử vụ Văn Giang (Hưng Yên)
đến vụ Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng, Hải Phòng) và Đặng Ngọc Viết (Thái Bình), khi
người dân đã phải dùng đến vủ khí, súng đạn, dao búa để tự vệ và tự sát thì đủ
biết sự uất hận của họ đã lên đến tột đỉnh đối với chệ độ độc tài toàn trị. Họ
nghĩ rằng chỉ có sức mạnh kể cả bạo lực mới giải quyết được nguyện vọng chân
chính của họ. Vì họ đã và đang bị dồn đến đường cùng nên phải vùng lên tranh
đấu đòi quyền sống. Thật đúng như câu nói “Ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”.
Câu
hỏi được đặt ra là trong thời gian qua nhóm Tứ Quý ở Miền Nam có làm gì không?
Thưa rằng có. Họ có lên tiếng, nhưng rất lẻ tẻ. Lớp già như Nguyễn Hộ đã lên
tiếng nhưng nay đã mai một chết dần chết mòn cả rồi. Lớp trẻ hơn như Huỳnh Tấn
Mẫm, Lê Văn Nuôi thì có bất mãn nhưng vì có tật (vợ làm ăn bê bối, giựt nợ, phá
sản) nên biết thân phận nằm im. Chỉ có Lê Hiếu Đằng trong lúc bệnh nằm nhà
thương, tưởng sắp phải đi về chầu Các Mác, Lê Nin nên mới dám bày tỏ quan điểm,
đòi nhân quyền, đòi tự do dân chủ, đòi đa nguyên đa đảng, kêu gọi lập Đảng Dân
Chủ Xã Hội. Tiếp theo, Hồ Ngọc Nhuận viết bài phụ họa “Phá Xiềng, Lập Đảng
Mới”. Nhiều người đã tỏ ra nghi ngờ Lê Hiều Đằng đang đóng vai trò cứu Đảng?
Thực hư thế nào thì cũng chỉ là chuyện nghi ngờ. Vì dưới chế độ Cộng sản ác ôn
dân Việt mình đã phải ăn quá nhiều “quả lừa” rồi!
Tuy
vậy, nếu chịu đọc kỹ các bài viết, các hồi ký, hồi ức, và nhìn vào cuộc sống
của họ từ 38 năm qua, từ khi chế độ Cộng Hòa ở miền Nam bị bán đứng cho đến
ngày hôm nay, ta có thể thấy được tâm trạng bất mãn, chán chường của bọn Tứ
Quý, trong đó có Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận. Họ mong muốn tự do dân chủ,
nhưng 38 năm qua chỉ là con số không và là cái bánh vẽ to tướng. Họ đã lầm lỡ
theo Việt Cộng, đã lỡ chửi bới, đả kích chế độ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng
Hòa, nay thì há miệng mắc quai. Họ không dám ra mặt khen chế độ tự do ở Miền
Nam, nhưng gián tiếp cho thấy họ tiếc nuối nhưng không đủ can đảm lên tiếng.
Nói chung là họ hèn. Tứ Quý là bọn hèn dù đó là Sư, Cha, Dân Biều hay Trí thức,
Sinh Viên. Tất cả là một lũ ngây thơ, tham, hèn, ngu. Cơm không ăn mà lại đi ăn
cám!
Hồ
Ngọc Nhuận viết hối kỳ Đời năm 2003 dày 617 trang, gồm 18 chương, nhưng không
được phép xuất bản, hiện đã được phổ biến ít nhiều trên các trang mạng. Quý độc
giả có thể mở coi để thấy tâm trạng bất mãn, chán chương của một ông Dân biểu
chỉ vì thiếu suy nghĩ, đã lầm lỡ theo voi (Cộng sản) mà kết quả chỉ được ăn bã
mía!
Qua
bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh”, Lê Hiếu Đằng tự xưng là “Luật
gia”, không biết Đằng đã tốt nghiệp Trường Đại Học Luật Khoa hay chưa? Nhưng
với tư cách là Giảng Viên Triết Học Mác Lênin, 45 tuổi Đảng, Phó Chủ Tịch Ủy
Ban Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố Hồ Chí Minh thì Đằng tất phải biết tường tận
Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa như thế nào rồi, nhất là khi pháp chế ấy nói về quyền
Tự do.
Trong
cuốn Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa bằng tiếng Nga do Hà Nội dịch
và ấn hành năm 1980, Frederik Engels viết về quyền Tự do: “Nhà nước chỉ là
một công cụ của giai cấp này để đàn áp giai cấp khác. Nhà nước được lập nên
không phải vì tự do. Nói cách khác, có Nhà nước thì không có Tự do; mà có Tự do
thì không có Nhà nước”.
Là
giảng viên triết học Mác Lenin, chắc chắn Lê Hiếu Đằng phải biết và thuộc nằm
lòng câu nói trên của Engels. Câu nói ấy đem áp dụng vào chế độ XHCN Việt Nam
thì quá rõ ràng:
Nhà
nước CHXHCN Việt Nam là công cụ của Đảng Cộng sản Việt Nam để đàn áp mọi
từng lóp dân chúng Việt Nam, đàn áp các Tôn giáo, đàn áp mọi tổ chức không
thuộc Cộng sản. Nhà nước CHXHCNVN được lập nên không phải vì Tự do cho Dân tộc.
Bởi đó, có Nhà Nước XHCNVN thì không có Tự do Dân chủ. Mà có Tự do Dân chủ thì
không có Nhà Nước XHCNVN.
Vậy
mà tập đoàn Cộng sản Hà Nội cứ ngoạc mồm ra mà hô to khẩu hiệu: “Độc Lập - Tự
Do - Hạnh Phúc”. Trên nửa thế kỷ lừa bịp, bóc lột dân chúng suốt hai miền Nam
Bắc, chúng không hề biết ngượng miệng là gì. Lại còn hô to khẩu hiệu Dân Chủ
Tập Trung. Dân chủ tập trung kiểu gì mà kỳ vậy? Thưa rằng đối với Việt Cộng
không kỳ đâu! Câu trả lời của bọn Việt gian Cộng Sản là: “Chúng mày (dân
chúng) là dân, còn tao (Đảng) là chủ tức là Dân Chủ đấy!”
Giảng
viên triết học Mác Lê- Nin Lê Hiếu Đằng chắc phải biết câu nói của Engels về Tự
do và Nhà Nước chớ? Nếu Lê Hiếu Đằng không biết thì Lê Hiếu Đàng đúng là một
con Vẹt biết nói ở chợ Hàng Chim Hà Nội. Suốt 38 năm chỉ biết hô to những khẩu
hiệu: “Hồ Chủ Tịch Muôn Năm. Đảng Cộng sản VN Muôn Năm…” Còn nếu Lê Hiếu Đằng
biết mà phải câm họng suốt 38 năm qua thì quả thật Đằng và bọn Tứ Quý ở Miền
Nam như những Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Chân
Tín, Thích Trí Quang, vân vân chỉ toàn là những tên tham, hèn và ngu, không
đáng xách dép cho giới trẻ đáng tuổi con cháu mình như Việt Khang, Nguyễn
Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Lê Quốc Quân,
vân vân. Người ta nói chó ba ngày mở mắt. Bọn Tứ Quý tay sai của Việt Cộng ở
Miền Nam phải mất 38 năm mới dám mở miệng! Đọc các bài viết của Lê Hiều Đằng và
Hồ Ngọc Nhuận rõ ràng người đọc thấy Đằng và Nhuận đã bóng gió xa gần tỏ ra
nuối tiếc cái không khí tự do dân chủ và nhân đạo của Miền Nam Quốc Gia. Lúc đó
Hồ Ngọc Nhuận làm Dân Biểu được tự do biểu tình phản đối, tự do viết. Và tên
Việt Cộng Lê Hiếu Đằng ở tù mà vẫn được cho ra thi Tú Tài.
Cho
nên, khi nhìn lại bọn Tứ Quý cùng những hành động tay sai phá hoại của chúng,
nhiều người đã thốt lên: “Đó là hạng người không biết ăn cơm !” Câu chuyện tiếu
lâm sau đây đã diễn tả đúng cái tâm trạng của hạng người đó.
Cạnh
bức tường Bá Linh, chó Đông Đức gặp chó Tây Đức, than thở:
-
Các anh ở Tây Đức được ăn uống thế nào mà cười nói vui vẻ nhỉ?
-
Tây Đức là xứ tự do dân chủ nên chúng tớ được ăn no, chơi bời thỏa chí. Muốn
cười, muỗn dỡn thì dỡn, chẳng ai cấm. Thế còn các cậu ở Đông Đức thì sao?
-
Bên Đông Đức, chúng tớ ăn xong rồi nằm im cả ngày, chán lắm. Các anh có cách gì
giúp chúng tớ chạy qua bên đó không?
-
Chán thật à. Da dẻ các cậu cũng hồng hào, lông cũng mượt đấy chứ.
-
Nhà nước cho ăn và bắt phải nằm im. Nhưng chúng tớ lại thèm sủa. Chó mà không
được sủa thì còn gì khổ hơn?
Kết luận:
Luợc
qua những nét đại cương như trên, có lẽ bạn đọc cũng hiểu được ít nhiều vai trò
của Tứ Quý trong cuộc chiến vửa qua. Miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản một phần
cũng là do bọn chúng chỉ vì tham vọng, cao ngạo, ngây thơ, dễ tin bị Cộng sản
lừa bịp đưa vào cái rọ để làm tay sai cho chúng đánh phá chế độ Việt Nam Cộng
Hòa. Lợi dụng xong rồi, mục tiêu tấn chiếm để nhuộm Đỏ miền Nam đã đạt, Cộng
Sản Hà Nội cho bọn Tứ Quý ngồi chơi sơi nước đúng với bài bản của phong kiến
Tầu xa xưa: “Giảo thố tử, cẩu tẩu phanh. Cao điểu tận, lương cung tàn. Địch
quốc phá, mưu thần vong”. (Được thỏ giết chó. Được chim bẻ ná. Thắng địch rồi
dẹp tay sai).
Nằm
trong cái rọ rồi, bọn Tứ Quý mới biết thân biết phận, nhưng không dám nhúc
nhích, cựa quậy. Bây giờ tỉnh ngộ và hối hận thì đã quá muộn.
Năm
1954, qua Hiệp Định Genève, Cộng Sản chiếm được nửa nước. Ngót một triệu người
đã chạy vô Miền Nam để tìm tự do. Năm 1975, chúng chiếm nốt Miền Nam thì hằng
triệu người dân đã chạy thục mạng ra nước ngoài bằng đường biền, đường bộ để
tìm tự do bất kể bao hiểm nguy đến tính mạng. Hơn nửa triệu người cũng đã làm
mồi cho tôm cá ở đáy biển! Cộng Sản là gì mà người dân lại sợ đến thế? Đến
nỗi cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng tự động nhổ lên mà đi.
Nhưng
với Cộng Sản thì cái chủ trương rủ rê, mua chuộc, xâm nhập, nuôi dưỡng Tứ Quý
để làm tay sai cho chúng vẫn không ngừng theo đuổi. Trong nước, chúng đã dùng
bọn Tứ Quý xong rồi dẹp bỏ. Bây giờ, chúng lại nhòm ngó Cộng Đồng Việt Nam Hải
Ngoại, “Khúc ruột ngàn dặm của Quê hương Việt Nam thân yêu” nghe sao mà tha
thiết hấp dẫn đến thế. Gần ba chục năm trước, khi chế độ Cộng Sản đưa đất nuớc
đến chỗ nghèo đói mạt rệp, Hà Nội đã phải “lạy Mỹ cứu Đảng” xin lập quan hệ
ngoại giao vì “Đồng Đô La hơn đồng chí Liên Sô” và tìm đủ cách ve vãn “khúc
ruột ngàn dặm” mà bao năm chúng đã nguyền rủa, chửi bới là bọn theo chân Đế
quốc! Chúng đã dành ra ngân khoản hằng trăm triệu cho công tác kiều vận nhằm
thực hiện Nghị quyết 36. Dân cả nước đều biết rõ Cộng sản là bọn đểu cáng, tráo
trở, chuyên lừa bịp, dối trá, thứ Việt gian tay sai bán nước cho đế quốc thực
dân Đỏ. Vậy mà vẫn có một dúm Việt kiều sống nơi xứ tự do, được ăn sung mặc
sướng đã vội quên cuộc chạy trốn Cộng sản đầy máu và nước mắt, nhắm mắt nghe
lời rủ rê của chúng.
Một
Trịnh Vĩnh Bình, vua chả giò Hòa Lan, đem bạc triệu về đầu tư suýt nữa mất
mạng!
Một
Trần Trường ngây thơ trưng ảnh Hồ Chí Minh bị đả đảo, về VN cũng thân tàn ma
dại.
Một
Nguyễn Cao Kỳ về nịnh bợ ve vãn lập công để kiếm ăn cách nhục nhã sống sượng.
Một
Đỗ Mậu tên lừa thẩy phản bạn xin làm tay sai.
Một
Phạm Duy bán rẻ nhân cách, từng viết tục ca nổi tiếng “Cầm cụ:
Cầm
cụ cho nói đái, nói đái lên đầu bay.
Cầm
cụ cho nói chơi, nó chơi vào mặt mày.
Cầm
cụ cho nó đụ nó đụ cho mày coi.
Cầm
cụ cho nó bơi, hễ qua sông là thôi”
thế
mà ông nhạc sĩ tài ba lại mon men về “cầm cụ cho Việt Cộng” khiên cả Cộng Đồng
phải lắc đầu!
Một
“Thiền sư” Nhất Hạnh về lập Chúa Bát Nhã ở Lâm Đồng bị lừa cả bạc triệu.
Chưa
kể những anh chị không tên tuổi mon men vè làm ăn bị lột hết cả quần áo!
Vân
vân và vân vân.
Đúng
là một lũ “chó mửa ra rồi, chó lại ăn”.
Những
cái gương tày liếp như vậy mà vẫn có kẻ tự xưng là trí thức, bác sĩ, luật sư,
nghị viên, vân vân không biết mở mắt ra nhìn, cũng lại mon men về nước xin làm
đầy tớ cho chúng. Cộng Đồng phản ứng. Bao nhiêu người lên tiếng chỉ trích. Mấy
anh trí thức nửa vời lại mặt trơ trán bóng nói rằng về nước để truyền dạy con
đường dân chủ hóa cho nhà nước Cộng sản! Thật là ghê tởm, điếm non mới ra lò
đòi dạy tổ sư điếm già Cộng sản mà không sợ chúng cười vào mũi? Có ngon thì về
ở luôn trong nước! Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sẵn sàng đón
tiếp nồng nhiệt!
Chó
ba ngày mới mở mắt. Bọn tứ quý tân thời ở hải ngoại 38 năm vẫn chưa mở mắt.
Phải ví bọn này với loại chó nào đây?
Xin
trả lời bằng chuyện cười sau đây:
Chó
Việt kiều gặp chó Việt Cộng bày tỏ ước vọng muốn về Việt Nam.
Chó
Việt Cộng hỏi:
-
Các cậu ở Hoa Kỳ ăn no ngủ kỹ sướng nhỉ. Về Việt Nam làm gì cho khổ?
Chúng tớ muốn sang Mỹ lắm đây mà không được. Sao các cậu lại muốn về?
-
Cậu nói đúng. Ở Mỹ cái gì cũng có, không thiếu cái gì kể cả tự do. Muốn ăn thì
ăn, muốn nói gì cũng được, muốn chửi cũng không sao.
Tối
ngày ăn uống no say, phủ phê lắm. Nhưng ăn nhiều món ngon quá rồi, chán lắm.
Bây giờ chúng tớ chỉ thèm ăn c..'t thôi, mà ở Mỹ không có c..'t. Chỉ Việt Nam mới
có.
Chó
Việt Cộng khuyến khích:
-
Ừa, về luôn đi các cậu. Bảo đảm các cậu sẽ tha hồ mà ăn c..'t.
San
Jose ngày 16 -10-2013
Phạm
Quang Trình
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết