From: KimChi
Nguyen <
Date: 2014/1/21
Subject: Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến Sách giáo khoa thời VNCH
To:
Date: 2014/1/21
Subject: Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến Sách giáo khoa thời VNCH
To:
Nhìn lại nền Giáo dục
VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến
Nhạc Xuân Tuyển Chọn - Vol 1
http://www.youtube.com/watch?v=pFgDhvQZCLg
Sách giáo khoa thời VNCH
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt
Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng
Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục
cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những
người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng
với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc
học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có
một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng
Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và
đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp
dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính,
tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm
1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần
Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền
Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục
cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt
mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các
nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của
mình.
Một buổi lễ khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn viên ( công viên 30/4 hiện
tại ), nằm trên đường Boulevard Norodom – ( Đại Lộ Thống Nhất trước Dinh Độc
Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà ).
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo
dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia,
tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết
lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương
tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường
học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy
mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa
dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã
hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có
tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một
phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo
dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh
trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước
tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học
ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các
trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng
nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì
ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội
vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ
khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã
phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân,
đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào
việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát
triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ
mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc
sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh
đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà
lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ
cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp
Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ
huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền
và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu
học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic),
“dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức
hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục
của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc
căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt
Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong
thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn
bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công
cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác
biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để
đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa
phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá
trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt
Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh
hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và
phát huy được những tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc.
Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát
huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp
đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt
Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết
phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa
học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã
hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã
hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề
ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục
tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo
dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối
với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục thời
VNCH:
Bích chương của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển
toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học
sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự
nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất
lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng
riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin
và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ
cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng
đi định sẵn nào.
Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa
2. Phát triển
tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã
hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch
sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của
người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng
Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết
nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những
phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống
tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự
tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng
Sa, năm 1974.
3. Phát triển
tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm
việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp
học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp
phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp
nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
Chiến Sĩ)
Chiến Sĩ)
Giáo dục tiểu học:
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến
lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt
buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít
nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải
học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn
phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu
học[8]
|
||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
400.865
|
8.191
|
1957
|
717.198[9]
|
|
1960
|
1.230.000[9]
|
|
1963
|
1.450.679
|
30.123
|
1964
|
1.554.063[10]
|
|
1970
|
2.556.000
|
44.104
|
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo
quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi
chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh
tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu
học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc
tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc
tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường
tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi
tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công
dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước
năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và
địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng
mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài
chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông
thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Giáo dục trung học:
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học
sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;
có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975
thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường
trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ
Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền
thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu
Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các
trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí
khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu
học
|
|
trước 1971
|
sau 1971
|
lớp
năm
|
lớp
một
|
lớp
tư
|
lớp
hai
|
lớp
ba
|
lớp
ba
|
lớp
nhì
|
lớp
tư
|
lớp
nhất
|
lớp
năm
|
Tên các lớp bậc trung học
đệ nhất cấp
|
|
lớp
đệ thất
|
lớp
sáu
|
lớp
đệ lục
|
lớp
bảy
|
lớp
đệ ngũ
|
lớp
tám
|
lớp
đệ tứ
|
lớp
chín
|
Tên các lớp trung học đệ
nhị cấp
|
|
lớp
đệ tam
|
lớp
mười
|
lớp
đệ nhị
|
lớp
11
|
lớp
đệ nhất
|
lớp
12
|
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trung học đệ nhất cấp:
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước
năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện
nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ
chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn
lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số
trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinhkhông vào được
trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm
học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học
sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn
Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ
Vovinam (tức
Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9
thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có
hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67
thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Sân trường Marie Curie
Trung học đệ nhị cấp:
Nam sinh Võ Trường Toản
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971
gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay.
Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ
sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào
đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay
còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ,
thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ
hai. Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến
năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải
thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội
dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng
bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính
cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung
học[8]
|
||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
51.465
|
890
|
1960
|
160.500[9]
|
|
1963
|
264.866
|
4.831
|
1964
|
291.965[10]
|
|
1970
|
623.000
|
9.069
|
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng
8. Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập
nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng
lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được
đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu
ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm,
mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có;
hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ”
(10/20).
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì
có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và
các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần
Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh và các
trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh
(Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc
Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ
sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài
trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu
xanh dương.
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive
high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm
giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là
James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo
dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt
nặng vào các môn tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm
trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau
khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo
có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình
sinh sống.
Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương
trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình
này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ
Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm
1965) , sau đó mở rộng cho một
số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận
10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần
chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường
Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Bổ sung ( theo góp ý của độc giả Nguyễn ):
Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã
thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần
Thơ.
Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Trung học kỹ thuật:
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ
thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển
vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi
tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công
lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân
là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ
Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ
thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do
các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là
Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ
thuật Cao Thắng.
Các trường tư thục và
Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ
đề:
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2
năm 1974
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư
thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học
sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học
sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt
Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000
trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi
tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina
Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ
sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái
(Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có
tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có
hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính
đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung
học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ
Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956,
tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc
tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt
Nam. Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ
Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau
năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng
cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành
trường công (hầu hết mang tên mới).
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue
Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa
Tử:
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư
viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam
Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là
trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho
các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc
ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà
Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học
sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia
Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các
trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh
chứ không đượchuấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa
tử khác trường Thiếu sinh quân.
Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học:
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một
trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên
vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi
tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ
Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên
khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh
viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một
vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm
học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại
học
|
|
Niên học
|
Số sinh viên
|
1960-61
|
11.708[45]
|
1962
|
16.835[10]
|
1964
|
20.834[10]
|
1974-75
|
166.475[46]
|
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba
cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì
lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…);
nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví
dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia
Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư
Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến
sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle;
tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận
án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của
Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi
học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong
chương trình đại học.
Bổ sung của đọc giả Trần
Thạnh (26.12.2013):
Thạc Sĩ người Việt đầu tiên là ông Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩ Phạm Duy.
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ôngPhạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ôngPhạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou
Theo hệ thống của Pháp (ngày trước): Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).
Theo hệ thống của Hoa
Kỳ: Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng
cấp này), Tiến Sĩ (PhD).
Khó có thể so sánh
Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau. ( Hiện nay
trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).
Từ “Thạc Sĩ” trước đây
được dùng để chỉ những người thì đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation),
người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.
Đại học Luật khoa Sài Gòn
Mô hình các cơ sở giáo
dục đại học:
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam
Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình viện
đại học (theo Việt-Nam
Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là
hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit).
Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường
gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân
khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng
Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học
Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong
mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh,
v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng
Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện
nay).
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm
Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường
lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường
phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng
Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang
diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết
sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ
liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để
tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo
dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường
đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và
đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn,
hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng
đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa
phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã
hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ
Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một
luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm
1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance
to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng
đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt
Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang,
thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này
được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm
Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ
Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành
lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến
các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các
trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và
Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường
đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại
trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy
luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành
chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn
bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán
theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường
hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngànhhọc. Các “trường
đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học
Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa
Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì
chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng
hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và
Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ
bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại
học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào
tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa
ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công
lập:
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906),
rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc
gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại
học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn
tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng
tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường
Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh
viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân
khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục ,
Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống
VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện
Đại học Huế từ 7/1957-1965
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học:
Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là
Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ
sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công
Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học,
Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục
26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội
phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222
đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định
với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng
dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có
hơn 3.000 sinhviên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc
ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn.
Viện đại học này thuộc khối Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Namcó 3
phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên
1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long
Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc
tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật
Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở
Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư
phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài
Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế
Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công
Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường
Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp
(1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ
quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà
Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện
Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc
biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng
(theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học
Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà
Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp;
Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ
còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở
Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng
cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và
huấn nghệ:
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia
Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như
Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang
thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông
Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo
cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên
thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn
thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công
nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông
Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc
gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp
nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường
Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình
Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú
Thọ: Thành lập năm 1957 thời
Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng
Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm
1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi
thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại
học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc
Gia:Thành lập năm 1966 để
đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia
Các trường nghệ thuật:
Trường Quốc gia Âm Nhạc
và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12
tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau
được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền
thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần
Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn
Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang
Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971,
trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là
Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài
Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại
quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước
ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522)
và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO
KHOA
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho
lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa
cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962,
Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học,
và 9 sách đại học.[82]
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.
NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành
lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu
khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên. Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt. Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học. Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên. Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt. Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học. Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài
Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11
năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đời sống và tinh thần
giáo chức:
Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học
bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư
trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như
vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có
cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa,
đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn,
nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy,
lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người
mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn
nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa
phương.
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm.
THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT
QUẢ HỌC TẬP
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.
Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.
Một số nhà lãnh đạo giáo
dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ
trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã
có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền
Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:
Ông Phan Huy Quát
- Phan Huy Quát: sinh năm 1911,
mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới
chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
- Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa
Đéc; tiến sĩ vạn
vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia
Giáo dục 1952-53 thời Quốc gia Việt Nam,
kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.
- Trần Hữu Thế: sinh
năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952),
từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học
thuộc Viện Đại học Sài
Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo
dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời
Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng,
và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại
hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào
năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai
phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- Nguyễn Văn Trường:
sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế;
hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng
hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần
Thơ vào năm 1966.
- Trần
Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu
và giáo sư Trường
Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam
tại Viện Đại học Vạn
Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ
nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[98]
- Lê
Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường
Đại học Y khoa Sài Gòn, làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu
đạn năm 1969.[100]
- Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc
tại Trường
Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy,
và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái
đoàn Việt Nam Cộng hòa ở
Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.
- Ngô
Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa
Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm
Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới
chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Đỗ Bá
Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa
Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa,
Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng
hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được
xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết
lập Viện Đại
học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của
các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với
vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
- Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho;
tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa,
Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng
hòa.
- Các
Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn
Quang Trình
ĐÁNH GIÁ
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
“Điểm nhận xét đầu
tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối
với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
…
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét )
…
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét )
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần
sau sự kiện ngày 30
tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng
thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số
ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề
khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với
miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong
lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát
triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có
nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự
ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự
định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được
thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh
đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện
trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ
tướng Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ
thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở
miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational
emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community
colleges”).[104]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai
Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng
Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm
Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc
đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có
thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều
tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã
hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho
nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học
hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính
độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…“[106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi
đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam
vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai
đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc
trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới
trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học,
sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng
Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật
đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã
nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền
giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện
giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một
tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể
sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên
này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn
như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như
vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“[107]
(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết