Hồ Chí Minh - Một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 1)
http://vulep-books-links.blogspot.com.au/2014/06/ho-chi-minh-mot-gian-iep-hoan-hao-ky-1.html
Hồ
Chí Minh - Một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 2)
Thủ
đoạn đê hèn và đốn mạt của Cộng Sản Việt Nam
Huỳnh Tâm (Danlambao) - "...Sau khi khám phá được công văn mã số 361
của Hồ Chí Minh, ký tên Nhược Đái Lệ (弱戴丽), có
những phân tích giải mã và diễn biến bí mật qua điệp vụ của "Nhược Đái
Lệ", quả nhiên quá gây sốc bởi chúng ta bước vào thế giới ngôn ngữ của
người gián điệp Trung Quốc mà dân tộc Việt Nam không thể ngờ đến."
Bút tích của Nguyễn Tất
Thành
Ông William J.Duiker cho
rằng lá đơn của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống nước Cộng hoà Pháp là để xin
vào học Trường Thuộc Địa, (demande École coloniale de Nguyen Tat Thanh. 1911).
"....đây là một lá
đơn do Nguyễn Tất Thành viết. Tuy nhiên, trong “Hồ Chí Minh toàn tập”, không
thấy có lá thư này."
Bút tích của Nguyễn Tất
Thành xin học Trường Thuộc Địa Pháp (1911). Nguồn: Trường thuộc địa Pháp.
Thêm một sự kiện đáng để
cho người dân Việt Nam chú ý hơn về bút tích của Nguyễn Tất Thành vào thời kỳ
thanh niên suy nghĩ và làm đúng người thực, việc thực. Có thể nói đây là con
người Nguyễn Tất Thành với tất cả ước vọng tương lai trong sáng của đương sự.
Chúng tôi xin chuyễn ngữ sang tiếng Việt toàn văn thư:
"Marseilles
"Ngày 15 tháng Chín
năm 1911
Thưa Ngài Tổng Thống!
Tôi xin trân trọng thỉnh
nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường
Thuộc Địa. Hiện nay, để nuôi thân, tôi đang làm công trong công ty Chargeurs
Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có
chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học vấn. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho
nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi
của nền học vấn… Quê tôi ở tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Với hy vọng rằng Ngài sẽ
phúc đáp theo hướng thuận lợi đề nghị của tôi, tôi xin Ngài Tổng Thống nhận sự
biết ơn sâu sắc của tôi". [1]
Nguyễn Tất Thành
Sinh tại Vinh, 1892
Con trai của Ông Nguyễn
Sinh Huy (tiến sĩ văn chương)
Học sinh tiếng Pháp và
chữ nho"
Rõ ràng ước vọng của
Nguyễn Tất Thành là muốn vào học tại Trường Thuộc Địa ngõ hầu sau này có dịp
phục vụ cho nước Pháp; sẵn sàng tiến thân vào chốn quan trường thuộc địa Pháp.
Nguyễn Tất Thành đầy hy vọng mong sớm đạt được sự nghiệp công chức, ước mơ nào
cũng đầy chói lọi ở tuổi thanh xuân. Việc Nguyễn Tất Thành đã học tại Trường
Quốc học ở Huế cho thấy khát vọng của Thành đã lấy quyết định đi theo hoạn lộ
thân Pháp. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi Nguyễn Tất Thành đã xác
định vị trí của mình khi đặt những bước chân đầu tiên đến Pháp Quốc.
Theo lời kể trên đây của
bản thân Nguyễn Tất Thành, đương sự vẫn thiết tha được học hành để nâng cao
hiểu biết. Hơn nữa, trong nội dung lá đơn gửi cho tổng thống Pháp, Nguyễn Tất
Thành ghi rõ mục tiêu là giúp ích cho nước Pháp. Nhưng nói cho cùng, Nguyễn Tất
Thành chẳng qua cũng chỉ là một kẻ vong bản trong số những thành phần vong bản
đương thời, sống vì tư ích (1911) nhiều hơn là vì đất nước Việt Nam. [2]
Lá đơn xin vào học
Trường Thuộc Địa của Nguyễn Tất Thành đủ xác định bút tích của một kẻ đã một
thời lưu lạc tại Pháp. Chúng ta không cần phải bàn luận nhiều. Tuy nhiên đảng
CSVN đã cố tình mạo nhận cho rằng Nguyễn Tất Thành là Hồ Chí Minh, điều này
hoàn toàn vượt lên trên suy nghĩ của loài người, giả dối đến độ ngoài sự hợp lý
của tư liệu bình thường, nó không vì sự trung thực cõi đời, nếu đem so sánh
những nét chữ ở trên và ở dưới đây, người ta có thể xác minh họ Nguyễn và họ Hồ
hai người hoàn toàn xa lạ. Hai người khác nhau đến bốn điểm nhận diện theo dung
mạo, khẩu vị, tiếng nói, và chữ viết. Ngày nay không cần thử nghiệm ADN, người
ta cũng đã thừa biết, dã tâm của Trung Quốc tạo dựng nên một phối sắc chính
trị, thay vì những tên Hồ Chí Minh đem lại kết quả hơn cả ngàn lần đại binh
đoàn tiến vào Việt Nam.
Bút tích của Hồ Chí Minh
trên tờ báo Thanh Niên.
Tờ báo Thanh Niên số 71
và 72, do Hồ Chí Minh viết tay, phát hành tại Quảng Châu Trung Quốc, vào ngày
28/11/1926 và 5/12/1926.
Hồ Chí Minh để lại bút
tích, trên hai tờ báo Thanh Niên, phát hành tại Quảng Châu Trung Quốc vào ngày
28/11/1926 và 5/12/1926. Nguồn: Hoa Nam và Viện bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.
Chỉ cần so sánh bút tích
trên hai tài liệu viết tay, gồm đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp của Nguyễn
Tất Thành và bài viết trên tờ báo Thanh Niên số 71-72 của Hồ Chí Minh, chúng ta
thấy ngay trước mắt hai bút tích khác nhau thể hiện nét chữ và cá tính của hai
người khác nhau. Chính những nội dung trên đã hé lộ về tư duy và hành động của
hai người này. Họ chưa bao giờ gặp nhau, và càng không cùng quan điểm chính
trị, không những thế, 15 năm sau nét chữ của Hồ Chí Minh quá tệ, khác thường
như những con giun đang bò, hoàn toàn khác biệt đối với nét chữ của Nguyễn Tất
Thành.
Đôi lần đảng cộng sản
biện hộ cho rằng Hồ Chí Minh: "Tuổi đời càng cao, nét chữ thay đổi
viết đẹp hơn". Điều này không sai, quá đúng, tuy nhiên nét chữ vẫn
luôn luôn phản ánh nét người. So sanh hai nét chữ trên, chúng ta thấy Nguyễn
Tất Thành có nét chữ của một người có ít nhiều kiến thức, và thích làm sen
Pháp, và nét chữ trên báo Thanh Niên, phát hành số 71 và 72 của Hồ Chí Minh quá
ư thô kệch, mang nặng ngôn ngữ đại Hán.
Nét chữ thứ ba trên tờ
di chúc của Hồ Chí Minh.
Hồ
Chí Minh bắt đầu viết bản di chúc vào lúc 9 giờ sáng ngày 10 tháng 5 năm 1965,
và hoàn tất vào ngày 10 tháng 5 năm 1969, với nội dung gồm 692 chữ, gói ghém
vào 3 trang giấy "tuyệt đối bí mật", ông đã miệt mài viết ròng rã
đúng 5 năm trường. Nguồn: Viện bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.
Hồ Chí Minh một nhân vật
nổi cộm có quá nhiều vấn đề bí ẩn, kinh khủng hơn, cũng vì nét chữ nội dung
trong tờ báo Thanh Niên số 71 và 72. Nó đã đưa cả đất nước, dân tộc vào ngõ tối
tăm, lịch sử Việt Nam đã kéo dài đau đớn hơn 74 năm qua.
Một lần nữa chỉ cần kiểm
minh lại, nhất định người ta thấy rõ tờ di chúc do một người thứ 3 cùng đóng
một vai tuồng Hồ Chí Minh. Chưa hết, lại xuất hiện thêm một Hồ Chí Minh thứ tư
(4) viết chữ Hán đẹp hơn Mao Trạch Đông, có thể nói thư pháp hoán vũ đã chiếm
lĩnh Trung-nguyên nhiều thập kỷ, chỉ có hai người tuyệt vời thư pháp trên đất
Hán là Hồ Chí Minh và Nguyên soái Trần Nghị (陈毅) đã phóng bút ba chữ
"友谊关" (Cổng Hữu nghị)
với đường nét ngạo nghễ, dán trên đầu dân tộc Việt Nam. Ngoài ra tại cửa Ải còn
có một tấm bảng đá cẩm thạch ghi khắc mạ vàng, "Ngày 05 tháng 3 năm 1965,
chiến công lớn Hồ Chí Minh dâng hiến cửa ải cho Trung Quốc".[3]
Bút tích công văn mã số
361 của Hồ Chí Minh.
Nguyên văn bút tích chữ
Hán, công văn mã số 361 có những ẩn hàm chứa thuật ngữ gián điệp, hành văn khác
lạ với tường trình điệp vụ bí mật. Hồ Chí Minh có hai bí danh "Nhược Đái
Lệ" hay Yếu Đài Lải (弱戴丽), có thể hoán đổi thành 3 mật ngữ, chứng tỏ khả
năng thượng thặng của một gián điệp quốc tế. Có những lý do đặc biệt, một khi
"Bác" tung ra điệp vụ không thể viết chữ Việt, xin nhân dân Việt Nam
thông cảm.
Nhiếp ảnh gia Đinh Đăng
Định, cả đời theo hầu "Bác" cho biết: "Bác" nói rằng, viết
chữ Việt không lưu loát bằng chữ Hán, bởi con chữ không đủ miêu tả "ý
từ" của một công văn, chưa kể nội dung thuật ngữ chuyên chở ẩn ngữ của
đảng ta!". Chỉ có "Bác" và "đảng" đi đêm bán nước cho
Trung Cộng mới phủ nhận viết ngôn ngũ Việt.
Sau khi khám phá được
công văn mã số 361 của Hồ Chí Minh, ký tên Nhược Đái Lệ (弱戴丽), có những phân tích
giải mã biến hiện từng diễn biến bí mật qua điệp vụ của "Nhược Đái
Lệ", quả nhiên quá gây sốc bởi chúng ta bước vào thế giới ngôn ngữ của
người gián điệp Trung Quốc mà dân tộc Việt Nam không thể ngờ đến. Chính
"bác" Hồ tự nhận làm gián điệp với bí danh Nhược Đái Lệ, thủ lĩnh
Chính trị Cục Việt Cộng, gửi công văn mã số 361 đến đảng trưởng Mao Trạch Đông:
Khám phá công văn mã số
361
Nguyên bản, Công văn mã
số 361 của "Bác", nay lưu trữ tại Quân ủy Trung ương Trung Quốc
(CPC). Tất cả công văn viết bằng ngôn ngữ Quan thoại, trình độ học vấn đại học
của một người Hán phong lưu, bút pháp dày dạn, chữ sắc bén ở phần đuôi, thiên
hạ Hán cho đây là loại chữ mã tấu, nếu so sánh với 3 nguyên bản nét chữ ở trên,
hoàn toàn khác nhau, thực tế có đến 3 người do Hoa Nam phối tác thành một Hồ
Chí Minh, dĩ nhiên nét chữ trên hai tờ báo Thanh Niên số 71 và 72 là thực, sau
này có thêm nét chữ bản di chúc và bản công văn mã số 361 gọi là của Hồ Chí
Minh, điều này chỉ có Cục tình báo Hoa Nam mới có khả năng giải thích. Nguồn: Nguyên
bản công văn mã số 361, Hoa Nam lưu trữ.
Lược dịch nguyên văn,
công văn mã số 361:
"Yếu Đài Lải
(Mong) muốn vạn sự đến
với tôi bình thường, đề nghị ý kiến với chỉ thị Trung ương.
(Tài liệu) Tìm cách đã
thông liên lạc coi chừng và đứng ra làm, chúc mừng tình trạng, và tình thế VN
kháng chiến với chính quyền thế giới, trung hậu với anh em đồng chí tự tinh
thần vật chất để giúp tôi (HCM) thường xuyên hỏi thăm các Anh (Trung Quốc) báo
liên hệ VN kháng chiến và thông tin trong đó hy vọng các Anh kháng chiến chung,
hy vọng các Anh liên lạc thường xuyên có ý kiến để chỉ thị.
Nhược Đái Lệ (Hồ Chí
Minh)
Ngày 18 tháng 4 năm 1947
Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam
− Đảng cộng sản Trung
Quốc.
− Quân ủy Trung ương
đảng Cộng sản Trung Quốc".
Nguyên văn bản phân tích
và giải mã, công văn mã số 361. [4]
Lược dịch nguyên văn bản
phân tích và giải mã, công văn mã số 361.
Công văn mã số 361.
Quân ủy Trung ương Trung
Cộng (CPC)
Quân đội Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc (PLA).
Kính gửi:
Mao Chủ tịch, quý yếu
nhân trong Bộ Chính Trị Trung Cộng và Quân ủy Trung ương Trung Quốc.
Nhược Đái Lệ (弱戴丽) phụng mệnh báo cáo:
Vạn sự khởi đầu kháng
chiến cho đến nay, có những tiến bộ khả quan hơn trước, nhờ vào sức mạnh của
đảng ta và bộ phận cố vấn quân sự cũng như chính trị dưới sự hổ trợ, điều động
của đảng, cho nên quân ta thành lập được nhiều cơ sở dân quân VN. Hy vọng của
tôi, mai này thành lập nước Việt Nam xã hội chũ nghĩa bình thường. Tôi đề nghị
quý Anh Cả (长老) trong bộ Chính trị Trung Quốc hãy đề xuất ý
kiến cho thích nghi kháng chiến chống quân Pháp, theo kế hoạch bao vây địch
khoanh từng cụm hay từng vùng, tôi sẵn sàng tiếp nhận mọi chỉ thị của Trung
Ương sẽ tiến hành chiến tranh do đảng qui định.
"Tài liệu" đã
liên hệ (hoạt động) [5] trong vùng quân Pháp cai trị, nổi bật nhất lấy được
những thông tin về quân số, vũ khí và qui luật phòng bị của địch quân. Tình
hình quân ta đã chuẩn bị chiếu đấu, nhất định thắng.
Chúc mừng đảng ta chiến
thắng dịch quân Tưởng Giới Thạch (蒋介石), tống khứ đế quốc Phương Tây ra khỏi Trung
Quốc, đảng ta nhất định chiến thắng và thống nhất Đại lục.
Tình hình mới tại Việt
Nam, quân ta quyết tâm kháng địch, và dân quân VN nhất định chống lại bất cứ
chính quyền nào trên thế giới không Cộng sản.
Tôi đã cho nhân dân Việt
Nam học tập ngày đêm, diễn nghĩa "Trung hiếu" và luôn ghi nhớ xem trọng
"tình đồng chí và tình anh em" (战友和兄弟情谊) đối với đảng ta.
VN-TQ là một, cần giúp
đỡ (viện trợ) lẫn nhau, từ nay xem mọi sở hữu tinh thần, vật chất như một. Kính
thưa quý Anh Cả (长老), cho phép tôi (胡志明-Hồ Chí Minh) thường
xuyên hỏi thăm quý Anh (中国-Trung Quốc). Từ nay mọi báo cáo đồng liên hệ,
Việt Nam cần hồ sơ (viện trợ) kháng chiến và thông in. Tôi hy vọng quý Anh Cả
ưu tiên viện trợ, tất cả cùng chung kháng chiến, quý Anh Cả thường xuyên liên
lạc với tôi, cần thiết những ý kiến và chỉ thị đặc biệt, áp dụng đúng thời,
chiến thắng đúng lúc.
Ký tên
Nhược Đái Lệ (弱戴丽) hay "Yếu Đài Lải,
thành viên CPC Trung
Quốc" (bí danh thứ 221 của Hồ Chí Minh)
Ngày 18 tháng 4 năm 1947
Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam
Nơi lưu trữ:
− Đảng cộng sản Trung
Quốc.
− Quân ủy Trung ương
đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nhược Đái Lệ (弱戴丽), hoạt động gián điệp
bí mật tại Việt Nam, vừa là thủ lĩnh đảng cộng sản Đông Dương và lãnh tụ cộng
sản Việt Nam, theo báo cáo trong công văn mã số 361, gửi đến Mao Trạch Đông (毛泽东), nội dung đề cập thành
tích, thực hiện những điệp vụ và mọi diễn biến ngoạn mục. Nhờ công văn này,
phơi bày mọi hoạt động gián điệp bí mật Hồ Chí Minh.
Ngay nay thời đại khác,
cho dù Trung Quốc che đậy thể xác của Hồ Chí Minh bằng dung dịch thuật hay nối
kết nét chữ và phối sắc chính trị cao tay hay kỹ thuật đến độ hư giả hoá thực,
đồng thời bao phủ những lớp màu dối trá dày đặc như mây bay trên bầu trời, một
khi đến lúc vẫn phải lộ. Mọi sự thực đều có ánh sáng soi rọi chỉ nẻo đường chân
lý, đương nhiên nó sẽ phá vỡ hương hoa ảo bao bọc thây ma thối nát. Ngày nay
mọi hư ảo trong bóng tối cũng không chấp nhận nằm yên đời đời. Một người Hán có
bao giờ yêu nước Việt Nam, tất nhiên đương sự phải thi hành mệnh lệnh cướp nước
Việt Nam dâng cho đại Hán, cho quan thầy Mao Trạch Đông.
Hồ Chí Minh: Con khủng long ba đầu, chín đuôi
Trần Đức Thảo những
lời trăng trối
Phan Thanh Tâm
(Danlambao) - Đã có nhiều tác
giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Đức Thảo Những
Lời Trăng Trối là cuốn rất đặc biệt vì sách đã “phân tích sư thật về những hành
động khủng khiếp” của họ Hồ bởi một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế
giới”. Năm 1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến
chống Pháp; đã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng”
suốt 40 năm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất đã khẳng định, Marx đã gây ra
mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” đã khiến “ông
cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của
đạo lý”. Theo ông, đây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời” và “là một con
khủng long ba đầu, chin đuôi”.
Lời trối trăng của nhà triết học Trần Đức Thảo
cho biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám
đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế
tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của
Việt Nam đã tích tụ quá nặng đầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là
những lời tâm sự sống động của một nhà tư tưởng giúp độc giả hiểu rõ nguồn gốc
của thảm kịch đang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên đất nước ta. Ông cảnh báo
xã hội Việt Nam “đang bị ung thối bởi căn bệnh xảo trá, căn bệnh thủ đoạn của
đảng”. Ông bị tống đi ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé đi một chiều, bị
đuổi khỏi Sài Gòn, buộc phải đi Pháp, không được trở về Hà nôi.
Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Đức Thảo
(1917-1993) đã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ”
mang tính sinh tử với đất nước và dân tộc, đã để lại di sản vô cùng trầm trọng:
“chọn chủ nghĩa xã hội của Marx để xây dưng chế độ, chọn chiến tranh xóa hiệp
định hòa bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao
và đảng Cộng sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí”. Sách có 16 chương, một
chương chỉ để giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng được đề cập tới. Ông
xác nhận, hễ nói tới thảm kịch VN thì “không thể không nhăc tới ông cụ”. Cố
giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao đã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và
“Trung Quốc muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc”.
Đãi ngộ hay bạc đãi
Triết gia Trần Đức Thảo (TĐT), nổi tiếng về hiện
tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre được đảng Cọng Sản Pháp vận
động để được cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu
rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của
Karl Marx”. Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu
gián điệp trí thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Năm
1991 ông “bị đẩy trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua đời ngày 24/4/1993, nhà
cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chưong Độc Lập; ca tụng ông là nhà triết
học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” đã có ảnh hưởng với nhà
triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời đảng, nhà nước rất mực trọng đãi
ông.
Có thật thế không? Trong chương Đãi ngộ hay bạc
đãi, ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một đối xử nghiệt ngã
và tồi tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn
đứng giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ để cho sống; cho tôi khỏi chết đói; chỉ
toàn là bạc đãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập
nhân dân nghĩa là phải cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời đảng”. Ông tiết lộ, tuy
có chức phó giám đốc trường Đại Học Văn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề được tham
dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, điều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không
hề có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay đi theo các phái đoàn thanh
tra là chỉ để “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.
Những điều nói đó phù hợp với bài báo của nhà
thơ Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Đức Thảo đăng trên báo Tiền phong
ngày 11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều
người trong nước được biết rằng đất nước chúng ta đã từng sinh ra một triết gia
tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi
thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ,
mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt
quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà đồng nát
cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh
thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.
Mưu thần chước quỷ
Nhiều người tự hỏi bị đối xử cay đắng như vậy sao
“bác Thảo lại hay có lúc bật cười như điên”; và bị chung quanh chê bai, chế
giễu “bác là người khùng”? TĐT cho hay, ông bắt đầu “hết cười rồi lại khóc” sau
khi tham gia đợt thì hành cải cách ruộng đất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên
Quang năm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh đạo “chọn con đường hành động
nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng
đểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TĐT đi chăn bò, theo ông, đó là
một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính
quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí
thức không bằng cục phân” của Mao.
Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam
rất sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con đẻ của đảng Cộng sản Trung Quốc”. Là
một nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, đánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng
cây tư tưởng của Marx, cho tới nay cây đó chỉ cho toàn quả đắng”. Chính “cái thực
tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự đau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ”
khiến ông muốn “đặt lại vấn đề từ học thuyết”. Triết gia TĐT nói, nhiều lãnh tụ
“từ lầu đài tư tưởng Marx bước ra đã trở thành những ác quỉ”. Theo ông, “quỉ ấy
là ý thức đấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rut” tư tưởng độc hại vô cùng; nó phá
hoại xã hội, nó thúc đẩy con người đam mê tìm thắng lợi, bằng đủ thứ quỉ kế, để
mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng.
Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ”
là một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì
biến không thành có”. Đúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành động muôn hướng,
muôn mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!” Bác Hồ
đánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói đầu bản tuyên bố độc lập của Mỹ; đánh
lừa các đảng trong nước khi thành lập chính phủ đại đoàn kết và mời cựu hoàng
Bảo Đại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản động;
đẩy Bảo Đại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn được triết gia TĐT gọi là một nhà chính
trị “thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao để
được đưa về xứ làm lãnh đạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.
Cố Giáo sư TĐT kể lại rằng, biết mình bị Đệ Tam
Quốc Tế tức Liên Sô loại đuổi khéo về Viễn Đông và biết Mao là thủ lãnh các
phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ
gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc; được Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng
bước loại bỏ tất cả đối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ…
để rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước năm 1945. Dù sự tấn phong
“ông cụ” ở các đại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu uỷ, xử uỷ và
của “Đê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên đã qua mặt những sự phản đối này vì họ
là những kẻ đã từng nhận được sự nâng đỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần
nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội”.
Huyền thoại “bác Hồ”
Vẫn theo nhà tư tưởng TĐT, các nhà nghiên cứu
nước ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của
bộ máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của đảng thì làm sao họ
hiểu hết được mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc,
bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Đó là
những tên giả chính “cụ Hồ” đã tự đặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân
tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai đoạn đổi tên, đổi họ; từ những
cái tên “Tất Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Đấy
là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành
lãnh tụ cách mạng sau khi không được cho vào học Trường Thuộc Địa để ra là
quan.
Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết
sách đề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ
tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân
được. “Ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị điên đảo. Ngoài ra, đám quần thần
chung quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người”. Họ
tôn vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói
“ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TĐT cho biết, năm 1946 gặp “ông cụ” trong
một buổi chiêu đãi ở Paris, ông đã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa
cần tới chú đâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về
nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp tại quê hương”.
Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp
ông được về nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà
nội và Sài Gòn đang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một
giai cấp thống trị mới đang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TĐT càng
thấy huyền thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hóa
trang cao độ”. Cái gì có giá trị là của bác, của đảng. Họ công kênh “ông cụ” lên
làm bậc thần, bậc thánh. Theo TĐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục
tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn
sùng HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành đạt về chính
trị; “không thể nào là mẫu mực về mặt đạo đức”; vì cách sống muôn mặt của bác
đâu phải là gương sáng.
Nhà triết học bị kết tội “cầm đầu âm mưu chống
đảng” vì hai bài viết trên Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em văn nghệ
trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp đứng đầu là
Sartre “tận tình quan tâm, chăm sóc” đến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác
năm 1946 đòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch;
muốn đấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm đội viên cải cách ruông đất và vụ
NVGP, ông có thể “dễ chết như chơi”. Năm 1952 triết gia được dẫn đi chào “Bác”.
Ban lễ tân dặn ông bốn điều cần nhớ: phải đứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần
khi “Người” ra lệnh; không được nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không được chào
trước; không được nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.
Chư hầu ngoan ngoãn
Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TĐT thì HCM
chưa đọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa được”;
nhưng lại “đọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel”, cuốn chỉ bày tận
dụng mọi thứ để người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài
nặng lý trí đến vô cảm; không thiết tha với gia đình; không có bạn hữu thân
tình. “Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận
ít học được ”ông cụ” đào tạo để phục tùng; rồi sau đề bạt lên làm lớn. “Ông cụ”
làm thơ là “do cuồng vọng chính trị”, là để “ca ngợi mình" và “hô hào
quyết chiến”. Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma
quái nó đè. Đó là “ bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của
Mao.”
Vẫn theo TĐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là
một phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên đẹp “khối các nước xã
hội chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một đế quốc đỏ; nó kềm kẹp các dân tộc
nhược tiểu quanh nó. Đó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”;
muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền
lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được nên đã lấy học thuyết “giai
cấp đấu tranh” làm kim chỉ nam để tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà
triết học nói, để nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông
thần”, từ bỏ cả vợ con, mất đi tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài.
Lại thêm, Mao đã cài chung quanh “ông cụ” một đám cực kỳ cuồng tín.
Trong chương “Hai chuyến di chuyển đổi đời” của cuốn
sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông được rời cảnh “sống như bị giam lỏng
ở Hà nội” để vào Sài Gòn ở là nhờ sự vận động của một số đồng chí trí thức Nam
Bộ. "Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện đại;
đâu có đói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt.
Miền bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nẩy sinh những chính sách đầy sai lầm. Sĩ
quan của "bộ đội cụ Hồ” đã có “thái độ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục
mạ, gọi Dương văn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu." Đấy là
những lời thố lộ của TDT mà nhà văn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê đã viết lại qua các
cuốn băng thu những điều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối đời ông
ở Paris.
Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh
Công Sơn là hai người đã thúc đẩy ông phải thoát khỏi thái độ hèn nhát đã ngự
trị trong đầu óc trí thức và văn nghệ sĩ Hà nội; giới này đã ứng xử đồng lõa
với tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho
NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở
Sài Gòn sau 1975, nếu đọc chương “Vẫn chưa được giải phóng” đều nhận thấy những
mô tả của triết gia về Hà nội năm 1954 rất giống Sài Gòn sau 30/4/75: “cả con
người và xã hội ở đây đã không hề được giải phóng” và thật là “vô lý và nhục
nhã” khi so sánh với chế độ cũ. Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù,
tích lũy mà có được; tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký và quyền lực.
Cao vọng hơn “bác Hồ”
Được gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong
vòng 10 ngày TĐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận
không có con người”. Đây là văn bản phản bác giáo điều, được đón nhận như một
bông hoa lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều
trí thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học để
nghe những “lời tiên tri” là “cách mạng đã biến chất để tư bản man rợ tràn
ngập”. Trung Ương thấy số người “phức tạp” đến gặp “bác Thảo” càng ngày càng
đông, nên Đảng đã quyết định “anh phải ra đi”. Nhà triết học than “thôi thì
đành mang thân xác ra xứ người”. Qua Pháp, tuy đã một thời vang danh ở Paris,
ông vẫn “lâm cảnh sống nay lo mai”, và còn bị Toà đại sứ theo dõi kiểm soát
chặt chẽ.
Trong cài xui có cái may. Nhà văn Tri Vũ-Phan
Ngọc Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ để kiếm sống qua các buổi thuyết
trình ở kinh đô ánh sáng mà đã làm quen thân với ông, được nghe ông tâm sự.
Quyển sách ghi lại nỗi hối hận đã thiêu đốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc đời.
Nhà văn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn băng cho những ai muốn nghiên cứu
về TĐT”. Trong sách nhà triết học có lần đã khẳng định: “tôi có tham vọng cao
hơn của “bác Hồ” nhiều lắm”. Đấy là xây dựng “một lâu đài tư tưởng trong đó
toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá
phiếu của mình”. Nhưng mộng đó không thành, triết gia lừng danh một thời trời
Âu bị đột tử. Chúng ta mất đi “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách
mạng”.
Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa
Kỳ, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là để phục hồi
danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc đời
TĐT xem như cuộc đời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào năm 1951
nên mọi sự trở nên vỡ lở. Cuộc đời đó có thể xem như một bài học –“an object lesson”-
với những ai để cho tình cảm, lý tưởng che mờ đi lý trí, kinh nghiệm. Không
những ông mất vợ, không có đời sống gia đình, không có tự do trong bóng tối làm
những việc ông muốn làm cho quê hương đất nước của ông. Sự nghiệp triết học của
ông là một sự nghiệp dang dở." Sách được xuất bản lần đầu với số lượng ít;
tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ để thăm dò ý kiến thân hữu.
Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên
tội đồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai
còn nghĩ đến nước Việt nên đọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên
thế giới - ngoại trừ triết gia TĐT- nêu ra được, thật sáng tỏ, những điều vô
cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông đã trải nghiệm 40 năm trong cuộc.
Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết
thêm về HCM, kẻ đã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt
Nam TĐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự đại
nhưng “không gian trá đến mức tinh quái” để có những “hành động muôn hướng,
muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.
Saint Paul, 6/2014
Hóa
giải công hàm Phạm Văn Đồng khó hay dễ?
Gia Minh, biên tập
viên RFA
2014-06-16
2014-06-16
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của
Bạn
- Email
Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc
RFA files
Sau khi hạ đặt giàn
khoan Hải Dương 981 tiến hành khoan thăm dò và di chuyển tại vùng biển mà Hà
Nội cho là thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung
Quốc đưa ra những văn bản từ thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chứng minh Bắc Kinh
có quyền hoạt động tại khu vực đó và chính Việt Nam đang cản trở phía Trung
Quốc.
Hà Nội đã đưa ra những lập luận phản bác đối với một trong những
văn bản đó là Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng hồi năm 1958. Tuy nhiên theo
một số nhà trí thức Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài thì những lập luận
phản bác của Việt Nam chưa đủ mạnh.
Cảm thông
Ngay sau khi vụ việc giàn khoan Hải Dương 981 xảy ra, không chỉ
người Việt trong nước mà nhiều người Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài đều
quan tâm đến các diễn biến trên vùng biển quê hương.
Nhiều người đều có chung thông tin khu vực Hoàng Sa mà hiện nay
Trung Quốc đang quản lý thuộc Việt Nam từ trước và thời điểm cả quần đảo này bị
thâu tóm bởi Bắc Kinh là vào tháng giêng năm 1974 qua một cuộc hải chiến khiến
74 sĩ quan và binh sĩ của Việt Nam Cộng hòa phải bỏ mình để bảo vệ đảo.
Nhưng rồi Trung Quốc lại trưng ra công hàm do thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký năm 1958 gửi cho ông Chu Ân Lai nói rằng Hà Nội công nhận hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản bác lập luận rằng lúc
đó Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa nên Hà Nội không thể cho cái không thuộc về
họ. Một số ý kiến còn cho rằng thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm đó trong
hoàn cảnh chiến tranh với sự trợ giúp của Trung Quốc để chống Mỹ nên cần thông
cảm cho ông Phạm Văn Đồng.
Những bài trên trang Chinhphu.vn có nói công hàm của ông Phạm
Văn Đồng xuất phát từ một mối quan hệ rất đặc thù giữa Việt Nam với Trung Quốc,
Họ không nói đặc thù là gì nhưng chúng ta đều hiểu dặc thù ở đây là phía VNDCCH
cần phải có sự hỗ trợ về quân sự, tài chính, thậm chí về nhiều vấn đề khác từ
TQ
GS. Nguyễn Văn Tuấn
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, hiện làm việc tại Khoa Y, Đại học News
South Wales, Australia có ý kiến về điều này:
Thực ra quan điểm thông cảm vì thời đó là thời kỳ khó khăn cũng
là một lý giải của phía Việt Nam. Nếu đọc những bài trên trang Chinhphu.vn có
nói công hàm của ông Phạm Văn Đồng xuất phát từ một mối quan hệ rất đặc thù
giữa Việt Nam với Trung Quốc, Họ không nói đặc thù là gì nhưng chúng ta đều
hiểu dặc thù ở đây là phía Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa cần phải có sự hỗ trợ về
quân sự, tài chính, thậm chí về nhiều vấn đề khác từ Trung Quốc -đại khái là
phải có viện trợ từ Trung Quốc thành ra họ phải làm như vậy. Nhưng theo tôi
nghĩ thì ngay cả cách biện minh như vậy cũng không thuyết phục mấy.
Phản bác yếu
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết ông đồng ý với một bài viết của
một giáo sư hiện cũng đang giảng dạy tại Đại học New South Wales, Australia là
giáo Giáo sư Phạm Quang Tuấn phản biện lại một bài viết của giáo sư Cao Huy
Thuần ở Pháp với tựa đề ở thể nghi vấn “Có cần phải thông cảm cho ông Phạm Văn
Đồng?’
Ngoài ra giáo sư Phạm Quang Tuấn cũng có nhận xét về những lập
luận từ phía Việt Nam đưa ra nhằm bác bỏ Công hàm Phạm Văn Đồng:
Những lập luận của Trung Quốc phía Việt Nam rất cần phải phản
bác, và có nhiều cách phản bác. Nhưng tôi thấy cách phản bác mà báo chí của
chính phủ ở Việt Nam nói thì không có hiệu nghiệm. Chẳng hạn họ nói thời đó
Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về miền nam Việt Nam thành ra miền bắc không có quyền
gì về hai đảo đó, nên công hàm của ông Phạm Văn Đồng là vô hiệu. Nói như vậy
không có hiệu nghiệm vì chính phủ miền Bắc từ trước họ tự coi họ là chính phủ
của cả nước Việt Nam chứ không phải chỉ của riêng miền Bắc thôi. Hay họ nói ông
Phạm Văn Đồng khi viết công hàm đó chỉ cốt để ủng hộ hải phận 12 hải lý của
nước Tàu thôi. Theo tôi phản bác đó cũng không công hiệu vì ngoài câu 12 hải lý
đó, ông Phạm Văn Đồng còn viết, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ghi nhận và
tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Và Trung Quốc nói bản tuyên bố đó áp
dụng cho Hoàng Sa, Trường Sa. Thành ra không thể chối cãi là ông Phạm Văn Đồng
không nói tới Hoàng Sa, Trường Sa.
Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam
Cách hóa giải?
Tuy cả hai vị giáo sư hiện đang ở đại học News South Wales đều
đồng ý rằng những phản biện từ phía chính quyền Hà Nội hiện nay đối với Công
hàm Phạm Văn Đồng không mấy hiệu quả; họ cũng đề cập đến những cách thức có thể
giúp hóa giải nó đi.
Họ nói thời đó Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về miền nam Việt Nam
thành ra miền bắc không có quyền gì về hai đảo đó, nên công hàm của ông Phạm
Văn Đồng là vô hiệu. Nói như vậy không có hiệu nghiệm vì chính phủ miền Bắc từ trước
họ tự coi họ là chính phủ của cả nước Việt Nam
GS. Phạm Quang Tuấn
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn trình bày:
Một vài quan chức trong nước bây giờ họ cũng dùng cách lý giải
mà các học giả Việt Nam ở nước ngoài đã đề nghị từ lâu ( theo tôi biết đã trên
10 năm rồi, lúc đó trong nước người ta chưa quan tâm nhưng ngoài này người ta
đã quan tâm); tức là trong thời gian đó năm 1958, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
không có chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà đó là thuộc Việt
Nam Cộng Hòa. Theo tôi lý lẽ này là hợp lý vì anh không thể sang nhượng cái mà
anh không có được; tôi nghĩ như thế hợp lý nhưng nếu các quan chức chính phủ
Việt Nam bây giờ nói như thế thì điều hợp lý đó phải xảy ra với điều kiện là
phải công nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Thế nhưng khổ nỗi phía bên bắc Việt
Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, luôn xem Việt Nam Cộng Hòa là ngụy, và đó là
vùng đất tạm chiếm. Họ không công nhận Việt nam Cộng hòa như là một chính phủ
hợp pháp. Thành ra để lý giải điều đó thì họ phải công nhận Việt Nam Cộng hòa,
đòi hỏi phải thay đổi một quan điểm trong quá khứ. Như thế may ra mới thuyết
phục được người ta!
Gần đây tôi có đọc một bài viết, thực ra vài bài chứ không phải
một, nhưng bài này đặc biệt vì là bài của một nhà nghiên cứu bên Trung Quốc.
Ông này đặc biệt chỉ viết về công hàm Phạm Văn Đồng, và lý lẽ của ông này là
Việt Nam không thể nào bỏ qua công hàm đó. Ông này còn mỉa mai, thách thức nữa
chứ. Ông nói rằng ông mong Việt Nam sẽ ra tòa án quốc tế và đừng quên mang theo
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng!
Theo giáo sư Phạm Quang Tuấn công tác hóa giải công hàm Phạm Văn
Đồng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu sâu về mặt pháp lý và ông nói tiếp:
Đây là vấn đề rất khó khăn và có nhiều người đang nghiên cứu để
tìm cách có thể nói hóa giải công hàm này. Có nhiều cách đã được đưa ra. Chẳng
hạn có người nói hồi đó Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, hai
miền bắc- nam không thực sự là hai quốc gia vì không cai quản cả nước Việt Nam,
cả dân tộc Việt Nam. Có người lại nói miền bắc và miền nam thời xưa là hai quốc
gia khác nhau nên chính phủ Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa bây giờ thửa hưởng chủ
quyền Hoàng Sa- Trường Sa là từ chủ quyền của quốc gia miền nam thời xưa, tức
Việt Nam Cộng Hòa, sau đó là ‘Cộng hòa Miền Nam’; do đó Việt Nam bây giờ vẫn
thừa hưởng chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều ý kiến đóng góp đều cho rằng vấn đề hóa giải Công hàm Phạm
Văn Đồng năm 1958 nay hoàn toàn tùy thuộc vào chính quyền Việt Nam hiện nay.
Ngoài công hàm Phạm Văn Đồng, vào ngày 9 tháng 6 vừa qua, Trung
Quốc khi đệ thư cho tổng thư ký Liên hiệp quốc trình bày về những diễn biến tại
khu vực giàn khoan Hải Dương 981 cũng đính kèm thêm một số chứng cứ mà theo họ
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đối với những chứng cứ mới đó, phía Việt
Nam đến lúc này vẫn chưa có phản bác nào.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết