QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Tuesday, June 17, 2014

VC không còn gọi "Quốc Phòng" nữa! Ðã được dân tộc VN đổi thành Bộ "Phản Quốc".


Aujourd’hui à 9h39 AM
Bộ Quốc Phòng VC không còn gọi "Quốc Phòng" nữa!
Ðã được dân tộc VN đổi thành Bộ "Phản Quốc".
Muốn biết lý do xin mở xem "attachement" đính kèm.
(attachement bị tường lửa )
Trân trọng thông báo
Duong Van Loi

Le Mardi 17 juin 2014 13h40, "hung vu 
 
On Tuesday, 17 June 2014 3:59 PM, "Son Dang   wrote: 


Lời thú tội kinh hoàng của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Tập 2: Cải Cách Ruộng Đất

Tập 1: Nhân Văn Giai Phẩm

WEDNESDAY, 04 JUNE 2014 23:57
TRÚC GIANG

1* Mở bài
Ngày thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đưa tin như sau:
“Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nói quan hệ Việt-Trung vẫn "phát triển tốt đẹp" và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với 'mâu thuẫn gia đình'.

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Ông Thanh nói:"Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi." (Phùng Quang Thanh)

Ông Thanh ví cuộc tranh chấp như mâu thuẩn trong một gia đình rất đúng. Về mâu thuẩn gia đình thì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc “gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)

Mâu thuẩn trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là hiện thực, Tây Tạng và Tân Cương là một chứng minh cụ thể.
GS Carl Thayer cho biết: "Giới chức Việt Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể", do đó ta có thể nhận ra 'mâu thuẫn gia đình' nằm trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.

“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu”. Đó là lời xác nhận của một cán bộ Việt Cộng cao cấp thuộc Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao, đã tuyên bố sau Hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990.

Bài nầy nêu những bằng chứng cụ thể để chứng minh hoạt động của hai bên Việt-Trung trong chương trình 30 năm về mọi mặt gọi là “đại cuộc”, và ngụy trang bằng cụm từ “16 chữ vàng”
Do kinh nghiệm ở hai khu tự trị Tây Tạng và Tân Cương, chính quyền trung ương ở Bắc Kinh đã kiềm chế CSVN bằng cách đã cấy sinh tử phù và đặt chiếc vòng kim cô lên đầu CSVN cho nên những tên Hán ngụy hiện nay như cá nằm trên thớt, vô phương cục cựa.

Giang Trạch Dân đã cho CSVN thời gian 30 năm để tiến hành sự kiện vĩ đại đối với Việt Nam cho nên gọi đó là “đại cuộc” và việc thực hiện chương trình 30 năm nằm trong khuôn khổ “16 chữ vàng”. Vì thế cứ mỗi lần có tranh chấp thì Bắc Kinh khuyên nhũ Việt Cộng hãy vì “đại cuộc”, và CSVN luôn luôn cam kết thực hiện 16 chữ vàng.

Tuyên bố của Phùng Quang Thanh thật đúng là lời thú tội kinh hoàng đối với người Việt trong nước.

Cho dù Wikileaks không tiết lộ, xem như không có biên bản đó, thì xuyên qua những hành động mà đảng CSVN đã thể hiện và nhiều người đã xác nhận đó là hành động bán nước.
2* Đảng Cộng Sản Việt Nam xin được làm một khu tự trị trực thuộc Bắc Kinh

Từ trái qua phải. Lý Bằng, Giang Trạch Dân (nắm tay Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng (chắp tay).
Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư., (3) Phạm Văn Đồng,
(4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân),
5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), 6) Lý Bằng, 7) Đỗ Mười, 9) Hồng Hà (bìa phải).

Wikileaks xác định văn kiện đó là một trong 3,100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tài liệu chi tiết như sau:

“Biên bản buổi họp kín giữa Nguyễn Văn Linh , Tổng Bí Thư đảng CSVN, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện phía Việt Nam, và Giang Trạch Dân, TBT/CSTQ, Lý Bằng, Thủ tướng, đã họp 2 ngày từ 3 và 4-9-1990, tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ”.

“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản, đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây”.

“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN “giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)

3* Bí mật của chương trình 30 năm sát nhập Việt Nam vào Trung Cộng

Hội nghị tái lập bang giao giữa hai nước được tổ chức công khai vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, nhưng nội dung CSVN xin được sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là bí mật.

Cho mãi đến khi Wikileaks phổ biến tài liệu mật đó thì người Việt ở nước ngoài mới biết đến, nhưng đối với đa số người trong nước thì nó vẫn còn là một bí mật. Vì thế, để lừa bịp nhân dân Việt Nam, chương trình 30 năm mà hai đảng Cộng Sản nầy thực hiện được ngụy trang dưới những từ ngữ mỹ miều như “đại cuộc”, “phương châm 16 chữ vàng”, “hợp tác chiến lược toàn diện”, “Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác toàn diện”…

Những cụm từ nêu trên là cái nhãn hiệu che giấu chương trình 30 năm ở Thành Đô.
4* Sự ra đời của “16 chữ vàng”
4.1. Bước mở đầu
Tháng 11 năm 1991, sau hội nghị Thành Đô, lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Sự giao lưu, hợp tác giữa hai bên về các lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá… được mở rộng, nâng lên tầm cao là bước đầu của việc hội nhập.

Trung Cộng cho biết con đường hợp nhất của hai nước vô cùng thuận lợi vì đó là những đặc thù về địa lý tự nhiên, chế độ chính trị, văn hoá, xã hội và vận mệnh của hai dân tộc, của hai đảng được xem như một.

“Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”
Việt Trung tuy hai mà một, tương nhập là lẻ tất yếu và hợp tình, hợp lý.
4.2. Trung Cộng khởi tạo phương châm 16 chữ vàng


Tiếp tục thúc đẩy tiến trình bí mật 30 năm Thành Đô, Giang Trạch Dân đưa ra chiêu bài để ngụy trang là phương châm 16 chữ vàng. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu nhất trí ngay và cam kết luôn luôn thực hiện với quyết tâm cao độ để hoàn thành “đại cuộc” đó.

Thế là phương châm 16 chữ vàng ra đời từ đó. Bản tuyên bố chung về 16 chữ vàng chính thức được Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu ký vào tháng 2 năm 1999.
16 chữ vàng:
Láng giềng hữu nghị (mục lân hữu hảo), hợp tác toàn diện (Toàn diện hợp tác), ổn định lâu dài (Trường kỳ ổn định), hướng tới tương lai (Diện hướng vị lai).

Tháng 11 năm 2000 khi tân Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang diện kiến thì Giang Trạch Dân nhắc đến và nhấn mạnh, phương châm 16 chữ vàng là cái khung chỉ đạo căn bản và nhất quán để Việt Nam phát triển quan hệ với Bắc Kinh. Cũng giống như những người tiền nhiệm, Nông Đức Mạnh hạ quyết tâm thực hiện nội dung của 16 chữ vàng.

5* Thực hiện chương trình 30 năm trên cơ sở 16 chữ vàng
5.1. Nội dung chương trình
Chương trình 30 năm Thành Đô được các đời Tổng bí thư CSVN ký kết qua những bản tuyên bố chung về hợp tác toàn diện để Việt Nam hội đủ điều kiện sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Hợp tác toàn diện về các mặt:
- Việc quản lý đảng, quản lý nhà nước thông qua những cuộc thăm viếng của các lãnh đạo cao cấp hai bên.
- Giao lưu về các mặt: chính trị, kinh tế thương mại, quân sự, văn hóa, hữu nghị nhân dân…từng bước nâng lên tầm cao mới sẵn sàng cho ý nguyện hội nhập theo tinh thần của hội nghị Thành Đô năm 1990.
5.2. Những bước cụ thể đã được thực hiện
5.2.1. Hợp tác toàn diện về việc quản lý đảng và quản lý nhà nước

Các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước hai bên liên tục có những cuộc viếng thăm quan trọng, không ngừng vun đắp quan hệ hợp tác toàn diện, từng bước nâng lên tầm cao mới để đáp ứng “nguyện vọng của nhân dân hai nước” là hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
1). Những lãnh đạo Trung Cộng sang thăm Việt Nam


Từ tháng 11 năm 1992 đến năm 2013 đã có 8 lãnh đạo cao cấp Trung Cộng đến thăm và làm việc với lãnh đạo đảng CSVN.
Thủ tướng Lý Bằng (tháng 11 năm 1992). Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch Đàng (tháng 11, 1994 và tháng 3, 2002). Chủ tịch nước Giang Trạch Dân (tháng 6, 1996). Thủ tướng Chu Dung Cơ (tháng 11, 1996). Thủ tướng Ôn Gia Bảo (tháng 12, 1996).

Từ 31-10 đến 2-11-2005 Hồ Cẩm Đào kinh lý Việt Nam. Đó là chuyến viếng thăm cao cấp nhất, đầy đủ cương vị: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy TW, là bước ngoặt quan trọng thúc đẩy Việt Nam hội nhập vào Trung Quốc.
Sau đó là viếng thăm của Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Quốc Cường. Ngoài ra còn có nhiều lãnh đạo cấp thấp tới lui rộn rịp.

2). Về phía lãnh đạo Việt Nam sang chầu thiên triều
Tất cả những Tổng bí thư, chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội và thủ tướng đều phải qua diện kiến lãnh đạo Trung Cộng. 

Tổng bí thư, chủ tịch nước đều phải ký những bản Tuyên bố chung xác định quyết tâm thúc đẩy, hợp tác toàn diện trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt mà thực chất là hoàn tất chương trình 30 Thành Đô, sát nhập vào “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.

Ngoài những bản tuyên bố chung, Việt Nam bị bắt buộc phải thành lập “Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Toàn Diện” để làm việc một cách cụ thể với Ủy ban Hợp tác Toàn diện của Trung Cộng.

Phiên họp lần thứ tư, phiên họp lần thứ 5 Ủy ban Chỉ đạo Hợp Tác Toàn Diện .
Vì sao phải thành lập ủy ban chỉ đạo hợp tác toàn diện? Một quốc gia độc lập chỉ cần xác định chính sách ngoại giao là đủ. Khi cần thì ký những hiệp ước, những thỏa thuận riêng biệt cho mỗi vấn đề.

5.2.2. Hợp tác toàn diện về kinh tế với Bắc Kinh
1). Thiết lập những nguyên tắc luật pháp căn bản về kinh tế
Năm 2005, trong số 44 hiệp định và thỏa thuận về kinh tế và thương mại, Việt Nam và Trung Cộng đã có 20 văn bản thỏa thuận làm căn bản pháp lý trong quan hệ giữa Việt Nam với các địa phương bên Trung Cộng. Đó là: Hiệp định thương mại, Hiệp định mua bán vùng biên giới, Hiệp định thành lập Ủy Ban Việt-Trung về kinh tế và thương mại.

Hiệp định giao thông đường sắt cao tốc và đường bộ, đường hàng không để lưu thông hàng hóa giữa địa phương với trung ương Bắc Kinh.

Từ ngày 1-1-2004 Việt Nam và Trung Cộng thực hiện bãi bỏ thuế xuất, nhập khẩu. Các cặp cửa khẩu hai bên đã được khai thông tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông tự do, mở ra một thời kỳ giao lưu hàng hóa không biên giới giữa hai bên.
2). Kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào chính quyền trung ương Bắc Kinh

Hợp tác toàn diện về kinh tế thương mại.
a. Về đầu tư xây dựng
Nhà thầu Trung Cộng hầu như thắng thầu hầu hết những công trình quan trọng với loại thầu trọn gói EPC, còn gọi là “hợp đồng trọn gói” hay “hợp đồng chìa khoá trao tay”.
EPC là Engineering , Procurement and Construction. (Thiết kế, mua sắn, xây dựng).
Hiện nay có 90% gói thầu EPC được giao cho Trung Cộng thực hiện, bao gồm những dự án lớn và quan trọng về năng lượng (nhà máy điện), kim loại, hoá chất…điều nầy cho biết Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng rồi.

b. Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
Thương lái Trung Cộng xâm nhập vào các vùng sâu, dùng thủ thuật giá, mua những thứ như cây tràm cỗ ở Quảng Ngãi, và những thứ không biết để làm gì, nhưng đã để lại những tác hại vô cùng to lớn. Đó là đánh phá thị trường VN.

Nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp giá rẻ, mà không được kiểm soát về chất lượng, vệ sinh, an toàn, thậm chí có những mặt hàng Trung Cộng mà dán nhãn sản xuất ở VN. Nhiều trường hợp dán cờ Trung Cộng trên các sản phẩm bày bán ở các siêu thị VN.
Hàng hóa rẻ tiền của Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, giết chết các công ty trung bình và nhỏ trong nước, đưa đến công nhân thất nghiệp.

c. Nhập siêu của Việt Nam chứng tỏ lệ thuộc kinh tế
Năm 2013, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa Trung Cộng (TC) 36tỷ 960 triệu USD, trong khi đó xuất khẩu chỉ có 13tỷ 960 triệu USD. Đó là nhập siêu. Sự chênh lệch về cán cân mậu dịch nầy khiến cho VN phụ thuộc vào TC.
TS Lê Đăng Doanh nêu nhận xét: “Mức nhập siêu to lớn nầy gây sức ép rất nặng khiến cho VN phụ thuộc vào TC: mất ngoại tệ, mất thị trường trong nước, công nhân mất việc. Khi người dân mua hàng hóa TC đồng nghĩa với việc trả lương cho công nhân nước nầy”.

5.2.3. Hợp tác toàn diện về văn hóa giáo dục

1). Việt Nam cam kết giáo dục nhân dân về 16 chữ vàng và 4 tốt
Ngày 21-2-2013, Nguyễn Thiện Nhân, ủy viên BCT dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao sang Bắc Kinh. Hai bên đã ký một thỏa thuận hợp tác toàn diện cho giai đoạn 5 năm từ 2014-2019.

Nguyễn Thiện Nhân, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cam kết, với tư cách Chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc VN (MT/TQ/VN), ông sẽ vận động quần chúng nhân dân thực hiện tốt 16 chữ vàng và 4 tốt để hoàn thành tốt thoả thuận của hai bên từ khi bình thường hóa năm 1990. Ông Nhân cho biết MT/TQ/VN sẽ triển khai chức năng và nhiệm vụ mới trong Hiến pháp 2013 là “giám sát phản biện xã hội” để tăng cường hiểu biết của nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc.


Việt Nam sẽ thực hiện Cung Văn hoá Việt-Trung tại Hà Nội. Trong 15 năm, kể từ 2005 Việt Nam đã cử hơn 100 đoàn đại biểu văn hóa trên các lãnh vực: báo chí, âm nhạc, điện ảnh, kịch nghệ, truyền hình sang tham quan học hỏi và trình diễn ở Bắc Kinh.
2). Giáo dục thanh niên

Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam và Bí thư Thứ nhất TƯ Đoàn Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Nguyễn Đắc Vinh giao lưu với các đại biểu thanh niên hai nước.
Hữu nghị giữa hai đoàn thanh niên khu tự trị VN & Trung Quốc.
Theo một hiệp định, mỗi năm Trung Cộng cấp 130 suất học bổng cho sinh viên VN, đồng thời VN chỉ cấp 15 học bổng cho sinh viên Trung Cộng, có nghĩa là Bắc Kinh đào tạn cán bộ tương lai cho họ.
Việt Nam đưa những đoàn thanh niên sang thăm viếng, hợp tác hữu nghị với thanh niên sắc tộc của các khu tự trị. Nổi bật nhất là Liên hoan thanh niên VN-TQ được tổ chức vào ngày 26-11-2013, 3,000 thanh niên do Nguyễn Thiện Nhân hướng dẫn tham dự liên hoan. Trong diễn văn, ông Nhân cho biết: “Đây là dịp để thế hệ trẻ hai nước kết chặt quan hệ hai đảng, hai nước, không ngừng đơm hoa kết trái, vun đắp tình hữu nghị của hai dân tộc”.

Định hướng dư luận, Lập Viện Khổng Tử, nằm trong hợp tác văn hoá giáo dục cho thanh niên.
16 chữ vàng và 4 tốt là chiêu bài ngụy trang cho chương trình 30 năm để VN hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc, nói thẳng ra là chương trình bán nước của đảng CSVN.

5.2.4. Trung Cộng di dân vào Việt Nam
Bọn Tàu khựa vào Việt Nam không cần Visa nhập cảnh, nên tự do đi luông tuồng như đi vào Tây Tạng, Tân Cương, Mãn Châu, Nội Mông. Bọn họ đã có mặt trên khắp hang cùng ngỏ hẻm của đất nước Việt Nam. Trong 65 khu chế xuất, khu công nghiệp, không nơi nào vắng bóng người Hoa cả.
Chúng chiếm đóng các vị trí chiến lược, từ việc thuê đất 306,000 hecta trong 50 năm với giá rẻ mạt ở biên giới phía Bắc, từ Bauxit Tây Nguyên đến Cà Mau, có thể thành lập nhiều sư đoàn của đạo quân thứ năm với những công nhân, mà thực chất là binh sĩ, tình báo, đặc công. Họ nắm trong tay những bản đồ vị trí các nhà máy điện, nhà máy quốc phòng, cơ xưởng…

Những người di dân tạo lập thành những khu riêng biệt của người Hoa mà công an Việt Nam không được vào đó để kiểm soát.
1). Khu phố Tàu Bình Dương

Trung tâm thương mại Đông Đô Đại Phố (Chữ Tàu trên cổng vào).
Khu công nghệ cao                                                       Khu thể thao.
Tờ Việt Báo tại hải ngoại có bài viết tựa đề: “Cờ Trung Quốc treo rợp Bình Dương: Dân Việt có nguy cơ mất đất”
Theo bài báo thì “Cờ Trung Cộng treo tưng bừng tại Bỉnh Dương để mừng Quốc Khánh lần thứ 90 của Trung Cộng bởi vì người Hoa đang cư ngụ đông đảo ở Phố Tàu nơi đây.
Một bài viết có tựa đề “Phố người Hoa, Rừng người Hoa, sòng bạc người Hoa,…và người Hoa” còn đưa ra quan ngại rằng “trong một tương lai không xa, con cháu người VN sẽ không còn được sống trên quê hương mình”.
Bài báo viết tiếp:
“Sau Casino của người Hoa ở Đà Nẳng chỉ dành cho người nước ngoài, lại đến khu phố dành riêng cho người Hoa ở Bình Dương, nơi mà người Việt cũng không được bén mảng tới. Vậy trong tương lai, người Việt sẽ chỉ được sử dụng một phạm vi bao nhiêu bởi vì, biển, rừng, đô thị đều có bóng dáng của người Hoa.
Phố Tàu là khu vực riêng biệt của cộng đồng người Hoa, người Việt khó chen chân vào. Phố Tàu ở Bình Dương mang tên Trung Tâm Thương Mại Đông Đô Đại Phố, trong đó có một trường Đại học quốc tế Miền Đông, một bịnh viện 1,000 giường, một khu phức hợp: thể thao, hội nghị, tiệc cưới, một sân golf, các cửa hiệu thương mại và một khu giải trí.
Bọn Tàu khựa sinh hoạt theo phong tục tập quán của họ và luật pháp Việt Nam bị bỏ ra ngoài. Nhân viên công lực VN không được vào kiểm tra cần thiết để nắm quyền kiểm soát khu vực.
Ngay cả nghĩa địa người Hoa ở Việt Nam cũng là một khu vực riêng biệt bất khả xâm phạm. Vậy hỏi quyền lực quốc gia còn đâu nữa?
6* Những bản tuyên bố chung của lãnh đạo CSVN
6.1. Thỏa thuận 4 điểm của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Ngày 22-8-2006, Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh thúc đẩy tăng cường quan hệ toàn diện và nhất trí với Hồ Cẩm Đào 4 khía cạnh:
Thứ nhất. Lãnh đạo cao cấp hai bên phải duy trì “quan hệ gần gũi” thông qua những cuộc viếng thăm cấp cao.
Thứ hai. Quan hệ kinh tế thương mại phải được nâng lên nấc thang cao mới, cụ thể hơn.
Thứ ba. Vấn đề lãnh thổ phải luôn luôn đạt được “sự đồng thuận”, bảo đảm ổn định lâu dài. (Nếu đồng thuận thì ổn định)
Thứ tư. Hai bên thống nhất về chính sách ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển bền vững và hữu nghị.
Năm 2009, tỉnh Hải Nam và Việt Nam nhất trí hợp tác toàn diện về chiến lược quân sự.
(Tại sao một quốc gia lại phải hợp tác với một tỉnh của quốc gia khác?)
6.2. Bản tuyên bố chung của Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ngày 15-10-2011
1. Hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước.
2. Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
3. Hai bên đã nhìn lại và tổng kết 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ (1990), khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau.( Thôn tính tương lai)
6.3. Bản tuyên bố chung của Trương Tấn Sang
Trong bản tuyên bố chung ngày 21-6-2013 được ký bởi Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, có đoạn ghi như sau:
– Dân sự: Đào tạo nhân dân, văn hóa, giáo dục, y tế, sản xuất, chế biến. Khai thác lãnh thổ, lãnh hải, đất liền, biên giới, cửa khẩu, biển Đông, rừng núi, đầu tư, khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, môi trường, nông nghiệp, ngư nghiệp, dầu khí, giao thông, vận tải và du lịch.

– Chính trị: Xây dựng nguồn máy đảng, và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tham vấn chính phủ, ban tuyên giáo, ban đối ngoại trung ương, ban lý luận, đào tạo hữu nghị quân, dân, cán chính cao cấp.

– Quân sự: Quân đội, quốc phòng, khí tài, an ninh, ngoại giao.
Kế hoạch toàn diện qui định mỗi bộ phận đặt đường dây nóng tự quản và kết nối quản trị Bắc Kinh.
(Đường dây nóng tự quản với Bắc Kinh là nhận lịnh trực tiếp từ chính quyền trung ương ở Bắc Kinh)
Ngoài ra, đảng CS và nhà nước Việt Nam, ưu tiên để 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam được hưởng đặc quyền khai thác toàn diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam, như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Người Trung Quốc được hưởng qui chế "bất xâm phạm" từ khi có mặt tại Việt Nam để thi hành công tác khai thác toàn diện trên lưng người Việt Nam.

“Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các tỉnh, khu vực của hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, hợp tác toàn diện với 4 khu tự trị của Trung Quốc gồm có: Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam”.

Trước hết Trung Cộng muốn Việt Nam hội nhập với 4 khu tự trị để trở thành 5 khu tự trị gồm có: Mãn, Tạng, Hồi, Mông và khu tự trị mới là Việt Nam. Và cờ Trung Cộng trở thành 6 ngôi sao mà VN đã dùng để chào mừng Tập Cận Bình vừa qua.

Thực tế là chỉ có 3 tỉnh của Trung Cộng mà đòi hợp tác toàn diện với 7 tỉnh Việt Nam, tạo điều kiện dễ dàng và hợp pháp cho thương lái, nhân viên Trung Cộng được đi khắp mọi nơi để nắm tình hình các mặt, biết rõ địa hình địa vật, đường đi lối về, tài nguyên, khoáng sản, đặc sản để khi cần thì xử dụng.
Trên Facebook, nhà bình luận Trần Trung Đạo nêu nhận xét như sau: “Đọc bản tuyên bố chung mới thấy số phận chùm gởi của CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già Cộng Sản Trung Quốc đến mức độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ trong một văn bản 8 điểm mà có tổng cộng 29 lần “nhất trí”.

7* Cộng Sản Việt Nam bị cấy sinh tử phù

Trung Cộng đang nắm trong tay những con bài tẩy bằng văn bản chính thức đã được các lãnh đạo CSVN ký và cam kết thi hành. Công hàm bán nước Phạm Văn Đồng chỉ là con bài thứ nhất mà thôi. Những lá bài khác như biên bản bí mật ở Thành Đô năm 1990 và những bản tuyên bố chung đã được ký kết như đã nêu trên.
Thiên la địa võng đã bày ra để khống chế và trừng trị Hán ngụy Việt Nam nếu phản chủ. Các vị trí chiến lược chủ yếu như rừng đầu nguồn, Lào, Campuchia, Tây Nguyên, hệ thống giao thông cao tốc xuyên Việt…và những sư đoàn của đạo quân thứ năm dưới lớp áo công nhân, thương nhân…khiến cho số phận của lãnh đạo CSVN thê thảm như con cá nằm trên tấm thớt của Trung Cộng.
Khi Tập Cận Bình niệm thần chú thì bộ tứ “hùng dũng sang trọng” vừa ôm đầu vừa gật đầu lia lịa.
8* Vì sao Trung Cộng không muốn đưa nội vụ ra tòa án quốc tế?
Ngày 2-6-2014 báo South China Morning Post tường thuật rằng ngày 1-6-2014 Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh cho biết Hà Nội vẫn chưa quyết định bao giờ sẽ yêu cầu toà án trọng tài quốc tế phân xử tranh chấp, nhưng nói đó là tùy thuộc vào hành động của Trung Quốc.

Trước đó, Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết là VN đã chuẩn bị bằng chứng cho hồ sơ pháp lý nầy, nhưng mọi việc sẽ do Bộ Chính Trị quyết định.
Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ lại lên tiếng là kiện chẳng ăn thua gì.
Có thể dùng câu “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” để biết bản chất của CSVN trong vấn đề nầy.
Vì sao Trung Cộng không muốn nội vụ được đưa ra toà án quốc tế?
Không phải TC sợ bị thua kiện, vì họ đã có khả năng vô hiệu hóa vụ kiện 100% bởi quyền phủ quyết ở HĐ/BA/LHQ, mà cũng không phải vì Trung Cộng sợ dư luận quốc tế, vì nếu sợ thì đã không làm ngang tàng như thế..

Điều mà Trung Cộng mong muốn là “những mâu thuẩn trong gia đình” phải để gia đình giải quyết. Tập quán Á Đông là nếu đưa chuyện nôi bộ gia đình ra ngoài thì chẳng khác gì “vạch áo cho người xem lưng”. Điều Trung Cộng muốn là Việt Nam phải là một trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc mà Nguyễn Văn Linh đã lặn lội từ Hà Nội đến Thành Đô để thỉnh cầu hồi năm 1990.

Đây là phép thử, xem CSVN có đủ can đảm để thoát ra đại gia đình các dân tộc TQ đó không?
Nếu quan sát kỹ những tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh và Trần Công Trục nêu trên, thì có thể đoán được lãnh đạo CSVN vẫn còn hèn nhát, vì không dám phản chủ, nên chỉ dám nói mà không dám làm. Hơn nữa Việt Cộng đã bị cấy sinh tử phù và niền chiếc vòng kim cô lên đầu rồi thì chẳng còn hành động can đảm nào nữa cả.
Hãy chờ xem!
9* Kết luận
Giả sử như Wikileaks không tiết lộ biên bản bí mật ở hội nghi Thành Đô năm 1990, hoặc xem như không có nó, thì những hành động của đảng CSVN cũng đã bị lên án là bán nước, hèn nhát vì đã đặt đất nước, dân tộc Việt Nam dưới tay bọn Trung Cộng. Sự thật hiển nhiên đó không thể vối cãi được.
Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng từ lâu rồi. Ông Vương Gia Thụy, Trưởng ban Đối ngoại Trung Cộng, đã nêu những bằng chứng cho thấy Việt Nam đã được sát nhập vào Trung Cộng, như sau: “Việt Nam và Trung Quốc đã hợp tác chiến lược toàn diện. Cơ chế xã hội giống hệt nhau. Con đường phát triển tương tự như một. Quan hệ hai nhà nước ổn định và cùng một mục đích phát triển chấn hưng sự nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Đảng CSVN là tội đồ của dân tộc. Hãy đối chiếu với di chúc của vua Trần Nhân Tông thì thấy rõ ngay. Nhà vua di chúc: “Cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không để lọt vào tay kẻ khác. Ta để lời nhắn nhũ nầy như là một lời di chúc cho muôn đời con cháu về sau” (Vua Trần Nhân Tông)
“Các vua Hùng có công dựng nước. Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán nước!”.
Trúc Giang
Minnesota ngày 4-6-2014
---------------------

Nguồn :




Trần Vũ - Quân đội Công dân

Chủ Nhật, ngày 15 tháng 6 năm 2014

Hình minh hoạt (tác giả gởi)
Khiếm khuyết lớn của Quân đội Nhân dân và Viện Sử học Hà Nội là đã chịu chi phối bởi cách nhìn quân sử của Hồng quân Sô Viết về Âu châu, và của Hồng quân Trung quốc về Á Châu, trong một thời kỳ dài. 

Khiếm khuyết lớn của dân tộc Việt là đã say mê khía cạnh chính trị của chiến tranh mà lãng quên khía cạnh thuần học thuật, quân sự của chiến tranh. Clausewitz nổi tiếng với mệnh đề thường xuyên được trích dẫn: "Chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị." Nhưng Clausewitz không viết duy nhất một mệnh đề này, mà soạn thảo tám tổng tập Cẩm nang Chiến tranh mà cho đến phút này vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt, ngay cả tóm lược. 

Clausewitz không duy nhất. August von Gneisenau, Gerhard von Scharnhorst, Helmuth von Moltke và Alfred von Schlieffen là những gương mặt đã cải cách quân đội Phổ, đưa quân đội này từ vị trí thảm bại trước quân Nã Phá Luân đến vị trí thống trị ở Âu châu trong suốt thế kỷ 19 sang đến đầu thế kỷ 20. Có thể kể thêm Hans von Seeckt, đã xây dựng nền móng cho quân đội Wehrmacht. 

Clausewitz là một lý thuyết gia quân sự. Gneisenau mới thật sự là một nhà cải cách. Lịch sử quân đội Phổ đánh một khúc quanh quan trọng sau các thảm bại Jena, Auerstaedt trước đại quân Nã Phá Luân. Tập thể sĩ quan ưu tú đặt câu hỏi: Làm cách nào để ngăn chặn sức bành trướng của đế chế Pháp? Xây dựng sức mạnh của quân đội Phổ từ đâu? 

Những câu hỏi mà quân nhà Nguyễn đã không đặt ra và Quân đội Nhân dân chưa tìm thấy câu trả lời trước uy hiếp của Giải Phóng quân Trung quốc. Các công trình suy nghiệm của Clausewitz, Gneisenau và Scharnhorst đều được biên soạn ở thời kỳ này, khi quân đội Phổ thất thế, ở dưới đáy cùng của bất lực. Điều cần nhấn mạnh là những công trình này, bên cạnh việc tập trung nghiên cứu tìm cách triệt tiêu sức mạnh quân sự của quân đội Pháp, ở cả hai mặt học thuyết và chiến thuật, trong tấn công cũng như trong phòng ngự, còn giải quyết những câu hỏi khái quát, trừu tượng, bằng những giải đáp thực tế.

Gneisenau và Scharnhorst định nghĩa tức khắc, sức mạnh của một quân đội nằm trong 7 yếu tố: Học thuyết, phương tiện, tổ chức, quân số, tinh thần, địa lý và tính tự trị độc lập của quân đội đó. Phải có học thuyết rồi mới có thể vận dụng phương tiện thích ứng để tổ chức, và phải có tổ chức mới có thể thâu nạp, huấn luyện, võ trang, khiển dụng hữu hiệu quân số mà tinh thần làm nên sức mạnh. 

Nếu sức mạnh này còn tùy thuộc vào địa lý của vùng đất phải tấn công hay phòng thủ, sức mạnh đó chỉ đạt đến viên mãn nếu tập thể quân đội có được sự tự trị độc lập với giới chức chính trị nắm giữ hành pháp mà các mục tiêu thường ngắn hạn không cho phép thực hiện một học thuyết chiến tranh lâu dài. Tất cả khái niệm về quân đội của Gneisenau và Scharnhorst thâu tóm trong khái quát căn bản này. 

Trong 7 yếu tố, 3 yếu tố được xem tối quan trọng: Tinh thần, học thuyết và tính độc lập tự trị. Tinh thần không giản dị là tinh thần trách nhiệm, tinh thần tổ chức, tinh thần kỷ luật, hay tinh thần chiến đấu. Đây là những tinh thần phụ, cần có một tinh thần xương sống, xuyên suốt qua 7 yếu tố, để từ tinh thần này nảy sinh các tinh thần phụ kể trên. 

Gneisenau viết: "Tập thể quân nhân tìm sức mạnh trong tập thể công dân mà trách nhiệm ngang bằng với dân quyền."

Tuy ăn lộc triều đình, Gneisenau đã yêu sách: Phải đặt khái niệm công dân lên trên khái niệm thần dân của Phổ hoàng. Đặt khái niệm Quyền lợi Dân sự ngang bằng với khái niệm Nghĩa vụ Quân sự. Có trách nhiệm thì phải có quyền lợi. Có thi hành thì phải có tham dự. Lòng ái quốc vô điều kiện phải chuyển hoán thành lòng ái quốc có điều kiện. Một cách vắn tắt: Tinh thần công dân. 

Trước những tấn công của phái bảo hoàng, Gneisenau phân tích: Một tập thể quân nhân không thể thiếu tinh thần chủ đạo cho tất cả các quyết định. Tinh thần này không thể là tôn giáo, vì một dân tộc không thuần một tôn giáo, vì tôn giáo không cho phép những tư duy khoa học với những phương pháp khoa học. Tôn giáo cũng dễ đẩy đến những quyết định không chiến lược mà thuần đức tin. 

Còn lại tinh thần ái quốc. Nhưng lòng ái quốc là một tình cảm trừu tượng, thiếu cụ thể, dễ biến thiêng và dễ bị ngụy tạo. Tinh thần ái quốc thăng giảm tùy theo đạo đức chính trị của giới cầm quyền. Tinh thần ái quốc có thể dẫn đến sa ngã, làm chán nản, bất mãn, ly khai, khi đạo đức chính trị suy thoái, tác động đến hiệu năng chiến đấu của quân đội. Ngược lại, an nguy của một quốc gia không giới hạn vào một tập thể hành pháp mà có thể có nhiều chính quyền kế tục nhau nắm giữ hành pháp.

 Do vậy, quân đội cần phải tự trị, độc lập với chính trị, để có thể giữ được sức mạnh tinh thần của quân đội trong bất kỳ mọi hoàn cảnh.

 Có nghĩa vụ, phải có quyền lợi. Quyền lợi của công dân trong xã hội là được tham gia việc nước. Quyền lợi của công dân trong quân đội là được tham gia giữ nước ở vị thế bình đẳng với giai cấp quý tộc. Tinh thần công dân phải là tinh thần của quân đội. 

Viết thành văn bản, đề nghị canh tân nền tảng, và hành động, Gneisenau xứng đáng là một gương mặt cải cách. 

Phổ hoàng Friedrich không tầm thường, đã chuẩn y. Nhiều lý lẽ viện dẫn Phổ hoàng không có chọn lựa vì cần tập hợp toàn dân, toàn quân, chống lại Nã Phá Luân. Giải thích này đúng hoặc sai, không quan trọng. Điều quan trọng là Gneisenau và Scharnhorst đã san bằng giai cấp quý tộc, tuy vẫn hiện diện, thăng thưởng ngạch trật, giao phó trọng trách, sẽ dựa trên khả năng mà không còn trên giai cấp. Hàn lâm viện danh tiếng Bá Linh mở cửa cho các sĩ quan xuất thân từ giới thợ thuyền, bình dân và nông dân. Sự kết hợp toàn dân, ở cùng một vị trí công dân, làm nên sức mạnh của tân quân đội Phổ, trở thành một quân đội quốc gia, thay vì quân đội riêng của Phổ hoàng. 

Cùng với Gneisenau, Scharnhorst bắt buộc tất cả các sĩ quan đều phải tốt nghiệp học viện quân sự, không còn sĩ quan chỉ có khả năng thuần trận mạc mà thiếu kiến thức tham mưu, khoa học, quản trị. Từ 3 hàn lâm viện ban đầu ở Bá Linh, Königsberg, Breslau ― Scharnhorst cho xây thêm 10 Kriegschule, học viện chiến tranh, trên khắp lãnh thổ: Anklam, Cassel, Dantzig, Erfurt, Glogaw, Hanovre, Hersfeld, Neisse, Postdam và Munich. Nếu Gneisenau khái quát, còn Clausewitz tổng hợp học thuyết, thì Scharnhorst đào tạo và quảng bá tư tưởng của Gneisenau và Clausewitz. Trong canh tân, Scharnhorst đặt dấu nhấn lên hệ thống giáo dục quân nhân. 

Chưa đầy một thập niên sau trận Jena, quân Phổ chiến thắng ở Leipzig rồi Waterloo. Nếu hai chiến thắng này chưa thể xem là thành quả của canh tân vì có sự tham gia của liên quân Nga-Áo tại Leipzig và liên quân Anh-Áo tại Waterloo, đến chiến thắng Sedan về sau của Moltke, nhận đầu hàng của Nã Phá Luân đệ tam ngay tại mặt trận và giành lại hai tỉnh lỵ Alsace và Lorraine, có thể xem công trình canh tân của Gneisenau, Scharnhorst và Clausewitz đã hoàn tất. Số sĩ quan xuất thân bình dân đã chiếm ¾, tuy chưa lên đến thượng tầng, các sĩ quan này đã hiện diện ở các chức vụ trung cấp: trung đoàn phó, trung đoàn trưởng, phó phòng hành quân, phụ tá tham mưu, và suy nghĩ Clausewitz trở thành suy nghĩ của quân đội Reichswerh. 

Ngoài kết quả chiến trường, cải tổ của Gneisenau còn mang tính chất căn bản: Quân đội Phổ sẽ từng bước đặt sứ mệnh quốc gia trên sứ mệnh hoàng gia, và đặt quyền lợi của dân tộc trên quyền lợi của dòng họ Hohenzollern đang trị vì. Quyết định đơn phương chấm dứt chiến tranh một thế kỷ sau, vào tháng 11-1918, yêu cầu Phổ hoàng Wilhelm thoái vị để quốc gia không bị chiếm đóng, để có thể giữ được tiềm năng của quân đội cho phép phục hưng về sau, là những quyết định của một quân đội quốc gia, không phải của một quân đội hoàng gia, của một tập thể sĩ quan công dân, không phải của một tập thể sĩ quan thần dân. 

Khái niệm quân đội công dân là khái niệm bảo vệ quyền lợi chung của đất nước, thay vì bảo vệ một giai cấp, một cung đình. 

Đối với Quân đội Nhân dân, tập thể cán bộ binh sĩ cần đặt câu hỏi: Quân đội Việt Nam phục vụ dân tộc hay Đảng cầm quyền? Đã thật sự bình đẳng giai cấp trong quân đội hay vẫn còn “Hồng hơn Chuyên”? Một sĩ quan thao lược tài năng có được trọng dụng nếu không vào Đảng? Hệ thống Chính ủy thi hành lệnh Đảng có đi ngược với sứ mệnh bảo vệ tổ quốc?

Quốc gia đang cần một quân đội độc lập với chính trị, vì chỉ một quân đội tự trị mới không trở thành công cụ của một đảng phái cầm quyền. Canh tân, là hướng về một Quân đội Công dân thay vì một Quân đội Đảng viên.

Trần Vũ

Nguyễn Trọng Vĩnh/BVN - Thư ngỏ gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Thứ Hai, ngày 16 tháng 6 năm 2014


Thưa Tổng bí thư,

Dù có danh nghĩa là Đảng lãnh đạo thì Đảng cũng là một thành phần và nằm trong Tổ quốc Việt Nam. Thế mà khi Trung Quốc đặt giàn khoan 981HD lấn chiếm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta mà Hội nghị trung ương 9 không có ý kiến phản đối, dư luận dân chúng cho là Đảng Cộng sản không chống sự xâm lược của Trung Quốc.


Tổng bí thư quá tin những nhà lãnh đạo Trung Quốc, quá trung thành với phương châm “16 chữ, tinh thần 4 tốt” do họ đề ra và quá tin vào hai Đảng cộng sản “cùng chung ý thức hệ” nên quá thân Trung Quốc, không cho làm điều gì mất lòng họ.

Trên thực tế, có bao giờ nhà cầm quyền Trung Quốc thực hiện “16 chữ, 4 tốt” chính họ đề ra đâu vì chiêu bài thâm hiểm “16 chữ, 4 tốt” họ đề ra chỉ cốt để ru ngủ, trói chân trói tay các nhà cầm quyền Việt Nam mà thôi. Ngược lại Trung Quốc không ngừng phá ta về kinh tế, can thiệp nội bộ ta về chính trị, đe dọa, lấn cướp ta về quân sự và làm biết bao nhiêu điều tàn ác trên vùng biển của ta. 

Chỉ kể từ năm 1988 họ đưa tàu chiến đến chiếm đảo chìm Gacma trong quần đảo Trường Sa, vì lúc đó ông Lê Đức Anh lệnh cho bộ đội ta không được nổ súng chống lại. Biết bao nhiêu lần họ bắn chìm tàu của ngư dân ta, bắn chết ngư dân ta, họ phá cáp của tàu Bình Minh và Viking II của ta thăm dò khảo sát trên vùng biển của ta. Họ lập cái gọi là huyện Tam Sa bao chiếm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta, lập căn cứ quân sự ở đó làm tiền đồn để tiến tới bá chiếm biển Đông. Chả nhẽ Tổng bí thư không biết tình hình như trên? Hành động của người bạn láng giềng hữu nghị là như thế đấy!

Cũng không phải băn khoăn về việc Trung Quốc đã giúp ta trong hai cuộc kháng chiến mà phải nhẫn nhịn nữa vì họ giúp ta trong đó có lợi ích của họ và cũng là thực hiện chính sách bành trướng mềm hòng kéo ta vào quỹ đạo của họ. Giúp ta nhưng trong Hội nghị Giơneve, Chu Ân Lai lại phản bội ta khiến nước ta bị chia cắt thành hai nửa trong thời gian dài, 20 năm mất bao xương máu mới thống nhất được. Độc ác nhất là phía biên giới Tây Nam, Trung Quốc trang bị cho bọn diệt chủng Polpot đánh phá bắn giết dân ta, phía Bắc thì Đặng Tiểu Bình huy động 60 mươi vạn quân giết hại nhân dân và tàn phá triệt để các tỉnh biên biên giới của ta. Thế là họ đã đòi nợ quá mức về sự viện trợ cho ta, tự họ xóa mọi ân nghĩa, còn đâu tình hữu nghị Trung Việt?

Tuy Đảng Trung Quốc và Việt Nam đều có tên là Đảng cộng sản nhưng làm gì có cùng chung ý thức hệ mà phải gắn bó với nhau?! Từ khi Đặng Tiểu Bình phát biểu “mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì thực tế Trung Quốc đã vứt bỏ chủ nghĩa xã hội và đi con đường tư bản chủ nghĩa rồi tuy họ vẫn nêu là “xây dựng XHCN mang màu sắc Trung Quốc”.

 Chính vì bằng mọi thủ đoạn thực dụng, đi con đường tư bản chủ nghĩa một cách ma lanh mà hơn 30 năm nay Trung Quốc phát triển vượt bậc, trỗi dậy thành cường quốc ở châu Á. Thêm nữa, họ đương thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” để trở thành một kiểu đế chế bá chủ khu vực, tiến lên bá chủ toàn cầu. Còn ở ta cũng cứ nêu là xây dựng XHCN nhưng từ khi mô hình XHCN Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, có ai hình dung ra mô hình XHCN mới nó như thế nào, tiêu chí ra sao, và thực tế trong xã hội Việt Nam hiện nay, cái gì là CNXH, đố ai chỉ ra được. Cứ nói “cùng chung ý thức hệ” – thật là hão huyền!

Tôi không phản đối giữ tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước nhưng tôi phản đối các thế hệ cầm quyền Trung Quốc luôn ấp ủ mưu đồ nô dịch Việt Nam.

Từ tình hình thực tế nêu trên đây, mong rằng Tổng bí thư nên có suy nghĩ để thay đổi. Trung Quốc đưa giàn khoan 981HD có hơn trăm tàu các loại xâm lấn chủ quyền nước ta, phun vòi rồng làm hư hại, đâm thủng tàu cảnh sát biển của ta, đâm chìm tàu, làm chết ngư dân ta, thái độ ngày càng hung hãn, ngang ngược. Tốt nhất là Tổng bí thư quay lại cùng toàn dân đấu tranh quyết liệt về chính trị, ngoại giao, pháp lý (ta tránh đối đầu quân sự với họ trừ phi Trung Quốc gây chiến đánh ta) để bảo vệ chủ quyền và độc lập, tự chủ, thoát ra khỏi vòng tay nham hiểm của bành trướng Đại Hán.

15 tháng 8 tới, do mùa mưa bão đến, Trung Quốc có thể tạm rút giàn khoan đi đến nơi nào đó lẩn tránh, không nên ảo tưởng là tình hình sẽ trở lại bình thường như cũ .

Việt Nam có chính nghĩa, được dư luận thế giới ủng hộ, lúc này là thời cơ, phải kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế để ngăn chặn sự xâm lăng của họ. Tuyệt đối không nên bỏ lỡ. Nếu còn chần chừ, e ngại không đấu tranh đến cùng thì ngày Việt Nam ta trở thành thuộc quốc của bành trướng Đại Hán không còn xa.

Đề nghị Tổng bí thư dỡ bỏ mọi rào cản để cho dân tộc đấu tranh sinh tồn và Tổng bí thư không phải chịu trách nhiệm nặng nề trước lịch sử.

Kính chào,
N. T. V.



__._,_.___

Posted by: appo covi 

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List