--
Kính
Chuyển
MG
Những
Ngày Cuối Cùng
Tại Tỉnh/Tiểu Khu
Bình Thuận
Mường Giang
(Phan Thiết 1966)
Bốn mươi mốt năm về trước, thành phố Phan Thiết
sau mấy cơn mưa đầu mùa, đẫm đầy nước mắt, máu lệ và đạn pháo kích của quân Bắc
Việt, thêm sự tàn phá ghê gớm của đám đặc công, quân phạm, trà trộn trong đoàn
di tản từ Miền Trung về, làm cho tháng 4-1975 mùa hè hoa phượng, không còn thơm
nồng trong những trang lưu bút. Khắp nơi, những trận đánh long trời lở đất đã
diễn ra hằng ngày, càng lúc càng ập sát Phan Thiết cũng như Sài Gòn. Trong cơn
mưa rào nước mắt tháng tư, mọi người ai củng cố dầm mưa, để níu lấy một chiếc
giây diều tuổi nhỏ, đang mong manh sắp đứt , giữa cơn bão tố loạn cuồng.
Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường
Sơn, lửa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận
Bình Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa
đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.
Những ngày tháng tư, Phan Thiết càng lúc càng thêm cô quạnh, vì một số lớn người
thành phố, trong số này hiện diện không ít các cấp chỉ huy quân cán chính có phương
tiện, đã nối tiếp di tản về Nam lánh tai ương chiến nạn. Ðây là một sự thật não
nùng của Ba trăm hai chục năm Bình Thuận, một nơi chốn luôn khóc tiển nhưng người
đi, bọn nhà giàu sau khi vơ vét đầy bao bố tiền vàng chạy về Sài Gòn lập nghiệp
ẩn tích làm sang. Lũ khoa bảng.thành đạt, những kẻ sống nghề cầm ca xướng hát,
khi nổi tiếng với đời, cho dù có chôn nhao cắt rún ở dây, cũng vẫn cố chối, vì
sợ mang tiếng với thiên hạ, bởi mùi nước mắm, cá mực và rơm rạ nơi thôn ổ, quê
mùa. Nên những ai còn lại chắc là người nghèo, nhưng cũng ở lỳ trong nhà vì thời
thế không biết đâu mà mò.
Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ còn có những người lính trận,
lúc nào cũng nhạt nhòa vì lệ và giọt mưa cô đơn, lăn vèo trên hai khóe mắt. Cứ
đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những
cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vừa phủ đẹp trên nấm mộ của
người lính, thì tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa
rã, đã bị giày mồ xới mộ để trả thù. Tháng tư, những căn hầm tránh đạn của lính
, ngày mưa đêm gió, nước ngập tới võng, khiến cho lính lẫn quan, cứ mở to đôi mắt
để mà nghe tiếng nước , từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng mình.
Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai
phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đã làm nhạt nhòa nước mắt của
người lính, bao chục năm đã sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xã hội
vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.
Thật thắm thiết biết bao, khi đọc lại những lời tâm sự đầy nước mắt của Ðốc sự
Phạm Ngọc Cửu, một viên chức hành chánh, đã phục vụ tại Bình Thuận nhiều năm, từ
Phó Quận trưởng Hải Long, Trưởng Ty Kinh Tế, Chánh Văn Phòng cho tới chức vụ cuối
cùng là Phó Tỉnh Trưởng . Ông viết ‘ Chỉ có những kẻ tự cho rằng mình hoàn hảo,
chỉ có những kẻ không làm một cái gì cả, để thấy khả năng mình ở đâu ? Nhưng lúc
nào cũng chờ cơ hội để mà phê bình chỉ trích.’. Chính những kẻ này mới ganh tị,
phỉ báng và bôi xấu quê hương mình.
Ngày nay, trang sử Bình Thuận vẫn còn đó, hồn thiêng sông núi Phan Thành
cũng đâu có tan biến, nên lúc nào anh linh của các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị
VC thảm sát oan khiên hay gục ngã khi đối mặt với giặc thù .Máu của họ đã tưới
hồng thêm ruộng đồng, sông núi của quê hương. Tất cả đã trở thành những thiên
hùng ca bất tử của quân dân Bình Thuận, cho dù xác thân của họ ngày nay đã tan
biến theo cát bụi , vì mồ mả đã bị VC liên tiếp san bằng hay ra lệnh di dời, để
lấy đất bán cho Việt kiều, xây khách sạn, sân golf và các tụ điểm du lịch.
1-Ngày 4-4-1975
: Bỏ Ngỏ Bình Thuận.
Sáng mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp được coi là lịch sử, đã được tổ chức tại
Phòng khách danh dự trong Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm BCH. Hành chánh, Tiểu
khu và bảy Quận trưởng. Ðây là một buổi họp đặc biệt, mục đích để tìm cách đối
phó hữu hiệu với đoàn di tản chiến thuật, từ Cao nguyên và Miền Trung, sắp tới
Phan Thiết vì kể từ đêm qua tới nay, Bình Thuận vẫn không hề nhận được một chỉ
thị hay câu trả lời ‘Ðã ghi nhận’ , chừng ấy thôi, từ BTL SĐ23BB, QĐ2,Trung tâm
hành quân của Bộ TTM/QLVNCH và Phủ Thủ tướng. Thời gian này, tại địa phương, VC
chỉ quấy rối lẻ tẻ nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể. Xa hơn, tình hình chiến
sự Lâm Ðồng, vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong cho biết rất sôi động,
nhất là tại mặt trận giáp ranh với Quận Ðịnh Quán (Long Khánh). Phía Nam, QL 1
đã bị VC bít cứng ở Rừng Lá (Bình Tuy), quân số tập trung cả Quân đoàn, với ý đồ
chuẩn bị một trận tấn công khủng khiếp vào SÐ18BB tại Xuân Lộc. Ở Bình Tuy cũng
đã lập một nút chặn rất hùng hậu, từ Căn cứ 10, ở Ngã ba cây số 46 chạy tới Thị
xã La Gi, với mục đích giải giới Ðoàn quân trên.
Như vậy Ðoàn di tản chắc chằn sẽ bị khựng lại và dội ngược về Bình Thuận, chừng
đó Phan Thiết sẽ hứng chịu toàn bộ sức nặng này. Ðể giải quyết một biến động
tàn khóc, mà không một thẩm quyền nào, từ Trung Ương cho tới Quân Khu và các Tỉnh
Thị đã bó tay, nên các cấp chỉ huy tại Bình Thuận, trong cuộc họp trên, đã đề nghị
thật nhiều giải pháp như nhờ BTL.Không và Hải Quân, yểm trợ phương tiện, chuyển
vận đoàn di tản từ Bình Thuận về Nam bằng máy bay và chiến hạm. Laị có những đề
nghị có tính cách quân sự như dùng mìn, đánh sập vài chiếc cầu lớn trên
QL1, hay xử dụng pháo binh làm thành hàng rào hỏa lực và cuối cùng là thiết lập
một nút chặn tại Cà Ná, ranh giới giữa Quân Tuy Phong và tỉnh Ninh Thuận.
Nhưng dù có gọi cuộc di tản trên bằng một cái tên nào chăng nửa, thì đối với những
người có trách nhiệm tại Bình Thuận, nó cũng được đánh giá như một cuộc tấn công
vĩ đại nhất từ trước tới nay, trong lịch sử chiến tranh của Ba Trăm Hai
Chục Năm Miền Biển Mặn. Trong khi đó, không một ai có đủ thẩm quyền bắt nó dừng
lại, mà chỉ hy vọng giới hạn phần nào sự tàn phá của nó, để tiết kiệm bớt máu
xương của đồng bào, giảm thiểu thiệt hại vật chất, giữ được tinh thần chiến đấu
của quân, cán, chính trong tình huống xôi động này.
Hơn nữa các đối tượng trước mắt, tuyệt đại đa số không phải là địch, mà là một
lực lượng vì hoàn cảnh phải di tản chiến thuật. Nên dù không một cấp chỉ huy
nào nói ra hay chỉ thị, thì ai cũng phải hiểu rằng nó phải được che chắn an
toàn, để tái phối trí, chứ không phải là đoàn quân phản loạn, thật sự chống lại
quân Chính Phủ như tại Vùng I Chiến Thuật, vào những năm xáo trộn 1965-1967. Do
đó, không một ai dám, kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện
Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên vào lúc đó, công khai ra lệnh tàn sát Họ. Cuối
cùng cho dù có ra mặt đối phó, liệu ngăn cản đuợc hay không, trước một lực lượng
đông đảo, tuy là ô hợp nhưng cũng đủ xe tăng, đại pháo, quân số và súng đạn để
trả thù, tàn sát, tàn phá và cảnh nồi da xáo thịt giữa những người lính cùng
chung một màu cờ sắc áo lại tái diễn, chẳng những có lợi cho giặc, mà còn trúng
kế bọn Việt gian phản tặc, đám khoa bảng trí thức thân Cộng, đang thấp thỏm
theo dõi tình hình từng giây phút, để mà viết bài đăng báo, làm vui đảng và
‘bác Hồ tặc Nguyễn Tất Thành’.Ðó là một bài toán nát óc, một sự khó khăn nhất
trong cuộc đời quân ngũ, mà Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng phải quyết
định trong phiên họp lịch sử hôm đó “Bỏ Ngỏ Thành Phố Phan Thiết” suốt thời
gian Ðoàn Di Tản đi ngang qua.
Rồi điều không ai muốn cũng phải làm trong khi đợi chờ. Tất cả đặt trong tình
trạng báo động cao nhất. Ðối với các Ðơn Vị đóng dọc QL1, được lệnh lùi sâu vào
phía trong, để tránh tình trạng ngộ nhận, khiêu khích giữa hai phía, và phải trở
lại vị trí cũ ngay, để bảo vệ cầu đường thông suốt và ngăn chận mọi sự tấn
công, đóng chốt của địch.
Tại Phan Thiết,bắt đầu ngày 2-4-1975, đã có một số đồng bào và các gia đình cán
bộ, công chức, quân đội., hưởng ứng theo lời kêu gọi của Chính quyền địa
phương, đã tạm thời thu xếp lánh ra ngoại ô nhất là Phú Hài, Rạng, Mũi Né để tạm
lánh nạn. Ty Dân Vận Chiêu Hồi, Ðại Ðội Chiến Tranh Chính Trị, Tỉnh Ðoàn
CB/XDNT cùng với Xã Châu Thành Phan Thiết, cũng đã sử dụng tất cả phương tiện
truyền thanh, để trấn an và kêu gọi đồng bào bình tỉnh, trước mọi tình huống xấu,
để tránh nguy hiểm, thiệt hại tài sản và sinh mệnh. có thể sẽ xảy ra.
Quận trưởng Hải Long được giao trách nhiệm, bảo vệ an ninh tỉnh lộ từ
Phan Thiết tới Mũi Né, thông suốt 24/24, đồng thời bằng phương tiện sẳn có cùng
phối hợp với Ty Giáo Dục và Thanh Niên, Tỉnh Ðoàn CB/XDNT.. thành lập các Khu Tạm
Trú tại Trường Học, Chùa, Nhà Thờ, Nhà Lều Nước Mắm.. để chuẩn bị tiếp nhận đồng
bào các nơi tới tạm trú. Quận Hàm Thuận giữ an ninh tuyệt đối trên QL1, từ Phan
Thiết tới cây số 25 giáp ranh với Bình Tuy. Quận Thiện Giáo hành quân, mở rộng
vòng đai, hạn chế VC pháo kích về thành phố, gây thêm chết chóc và hổn loạn khi
có mặt đoàn di tản. Tiểu đoàn 229ĐP của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến được điều động
về bảo vệ TK và Tòa Hành Chánh Tỉnh.
Con đường huyết mạch, nối liền Phan Thiết với Phi trường và nhất là Quân Y Viện
Ðoàn Mạnh Hoạch, đã được BCH. Tiểu Khu bảo vệ chặt chẻ và cẩn mật, để sẳn sàng chuyển
vận các nạn nhân đến chữa trị. Ty Y Tế và Bệnh Viện Phan Thiết trên đường Hải
Thượng Lãn Ông hoạt động 24/24, đồng thời cũng lập thêm Hai Toán Y Tế cứu
cấp lưu động, thường trực tại Trường Tiểu Học Ðức Thắng và Nam Phan Thiết, trên
Ðại lộ Trần Hưng Ðạo, để kịp thời cứu cấp bệnh nhân, khi không thể chuyển vận họ
tới được Bệnh viện hay QYV.
Riêng Ty An Ninh QÐ , Ty Cảnh Sát QG và Phòng 2 TK sẳn sàng đối phó với Ðặc
Công CS, bọn này đang trà trộn trong Ðoàn Di Tản, để kích động, khiêu khích, tạo
hổn loạn kể cả đốt phá các cơ sở chính quyền , cây xăng, chợ búa. Riêng Xã Phan
Thiết , phải theo dõi bọn trộm cướp, du đảng có tiến án, để ngăn chận kịp thời,
bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào. Ngoài ta Tiểu Khu phải thiết lập ngay Một
BCH nhẹ, đóng trên Lầu Ông Hoàng vớí hệ thống truyền tin 24/24.
Cuối cùng Tỉnh cũng đã dự trù kế hoạch dành cho giờ thứ 25, mở lại đường bay
Dân sự Phan Thiết-Sài Gòn, ký hợp đồng thuê mướn các ghe tàu đánh cá tư nhân, để
sẵn sàng chuyên chở cán bộ và gia đình, kể cả đồng bào khi cần thiết. Tiền
thanh toán được rút từ Ngân khoản Khai Hoang Lập Ấp, hiện đang tạm đình chỉ, vì
tình hình chiến sự. Ngoài ra Phái Viên Hành Chánh Phú Quý cũng đã chuẩn bị sẳn
sàng một đoàn ghe, khi cần thiết sẽ vào Phan Thiết công tác.
Ngày 2-4-1975, Bộ Tư Lệnh/ Quân Ðoàn II lần lượt tan hàng tại Pleiku và Nha
Trang., và cuối cùng bị xóa tên, vào lúc 1giờ 45 trưa cùng ngày, qua quyết định
của Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, sáp nhập phần lãnh thổ còn lại vào QÐIII. Một đêm
trôi qua và cuối cùng Ðoàn Di Tản cũng đã vào lãnh thổ Bình Thuận. Các Quận Tuy
Phong, Hải Ninh nhờ không nằm trên QL1 nên ít bị thiệt hại vật chất. Ngược lại Quận
Hòa Ða bị tàn phá nặng nề, từ Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành,Chợ Lầu vào tới Lương
Sơn nằm dưới chân núi Tà Dôn. Tiệm ăn, quán giải khát, cửa hàng tạp hóa đều bị
cướp sạch.
Trước tình hình như vậy, BCH/ Tiểu Khu Bình Thuận điều động Tiểu Đoàn 229/ĐP do
Th/tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Đoàn Trưởng, lúc đó đang làm nhiệm vụ giữ an
ninh cho Khu định cư Nghĩa Thuận nằm bên kia Đập Đồng Mới, thuộc xã Lương
Sơn .Tiểu Đoàn rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào ngày 1-4-75, Đại đội
4/248/ĐP do Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi làm Đại Đội Trưởng thay thế T Đ /229/ĐP .
Trong ngày này Tiểu Đoàn được tăng phái cho Chi Khu Hàm Thuận, riêng Đại
Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng, phụ trách bảo vệ Nông
Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ Campuchia tại Bình Tú, thế cho đơn vị của
Đại úy Huỳnh Văn Quý đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn (Kim Bình, Hàm
Thuận ).
Ngày 3-4-1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ
Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh . Đại đội 2/229 do Đại úy Lê Viết Duyên làm Đại
Đội Trưởng, phòng thủ chu vi Tòa Hành Chánh . Đại đội 3/229 do Tr/úy Nguyễn
Dương Quang làm Đại Đội Trưởng trú đóng tại Vườn Hoa, Lầu nước . Đại Đội 1/229
do Tr/úy Nguyễn Văn Thứ làm Đại Đội Trưởng, đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố dọc
theo đường Hải Thượng Lãn Ông . Đại Đội 4/229 của Trung Uý Cao Hoài Sơn, đóng dọc
theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt sau Tiểu Khu
.
Một ngày đêm trôi qua trong hồi hộp lo sợ, cuối cùng đoàn di tản cũng tới Phan
Thiết theo ngã Quốc Lộ 1 từ Bắc Bình Thuận , sau khi đã tàn phá tất cả trên đường
đi, gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Thành,Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương Sơn
.....Tại
Phan Thiết sáng ngày 4-4-1975,trên các con đường phố tràn ngập những quân xa,
có cả Thiết giáp M113 và Tank M41, M48 . Xe Honda và người tràn ngập trên vỉa
hè, tất cả các Chợ, Quán ăn, Tiệm tạp hóa, Cây xăng đều đóng cửa .
Một số côn đồ trà trộn theo đoàn di tản, đã lợi dụng tình thế cướp giật. Đồng thời
không ít Cộng quân đã đột nhập vào thị xã Phan Thiết, gây tình trạng rối ren hầu
tìm cách đánh úp ta .Thành phố bị đập phá tan hoang, các cửa tiệm, cây xăng bị
cướp phá . kể cả các kho chứa gạo dự trữ cũng bị cướp đi . Ai nhìn cảnh này
lòng cũng đều đau như cắt, nhưng vì lệnh không được nổ súng, để tránh gây
thêm hỗn loạn, dân lành sẽ chết và đặc cộng địch sẽ lợi dụng cơ hội giết thêm
dân, rồi vu vạ cho ta . Đó là lý do Đại tá Nghĩa để Phan Thiết bỏ ngỏ, tránh cảnh
huynh đệ tương tàn !
Sáng ngày 4-4-75 tại Cầu Bằng Lăng ở đoạn đường vắng gần núi Tà Dôn, đoàn di tản
đã bị VC phục kích. Có hai binh sĩ của Đại đội 4/229 đang công tác may mắn
thoát chết.Theo lời tường thuật của hai nhân chứng thì đoàn di tản bị thương
vong rất nhiều, vì VC bắn bừa bãi vào đoàn xe, trên đó đa số là Dân chạy nạn từ
vùng hỏa tuyến về . May nhờ có chiến xa tiến lên tiêu diệt địch quân,yểm trợ
cho đoàn di tản tiếp tục tiến vê Phan Thiết .
Cơn lốc tàn phá cuối cùng cũng đã tới, khi một số lượng lớn người và xe cộ di tản
vào Phan Thiết, một số khác đi thẳng về Bình Tuy. Hỗn loạn khắp nơi, đến 10 giờ
đêm thì bọn cướp đốt cháy ngôi Chợ Lồng trên đường Gia Long. ĐĐ4/229 của Tr/úy Cao
Hoài Sơn đã được lệnh đến hiện trường, tìm cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng
trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp phá. Tới hừng sáng mới dập tắt được
đám cháy trong chợ thì VC bắt đầu pháo kích vào BCH / Tiểu Khu . Nhưng đạn lạc
ra ngoài quanh Vườn Hoa, dọc bờ sông đường Trưng Trắc, và Ngân Hàng Việt Nam
Thương Tín . Có hai trái rớt vào khu dân cư ở Khu II Bình Hưng làm nhiều thường
dân vô tội thương vong. Nhờ ta pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của
đích lúc đó đang đặt tại Xuân Phong, Đại Nẫm.
10 giờ, địch lại pháo vào Phan Thiết nhưng rớt vào nhà dân, làm tử thương thêm vài
người . Một bọn du đảng ở Lò Heo nhặt đâu được một chiếc xe Jeep quân đội bỏ lại,
cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK 47, mang băng đỏ, lái xe
băng qua cầu Quan chạy khắp phố như chỗ không người. Nhưng khi tới
trước rạp Chiếu bóng Bình Thuận và Khách sạn Anh Đào thì đụng ngay với Đại đội
1/229/ĐP của Tr/úy Nguyễn Văn Thứ . Những tràng đạn M16 của ta đã diệt gọn
không sót một tên, xác chết nằm vắt trên xe, bọn này có lẽ bị VC nằm vùng giật
dây, cho rằng chính quyền đã bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền lập
công dâng đảng .
Buổi trưa có hai hỏa tiễn 122 ly từ hướng Xuân Phong, Trinh Tường pháo vào
trung tâm Phan Thiết làm thương vong thêm một số người . Chừng ấy đoàn di tản mới
chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại cây số 37 trên QL1.
Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết .Tuy
vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn được lệnh tiếp tục bảo vệ Thị Xã Phan Thiết thêm hai
ngày mới rút.
Ngay khi Phan Thiết được giải tỏa,Tỉnh Ðoàn CB/XDNT/BT, chỉ thị cho Ðoàn
CB/XDNT từ Nông trường Sao Ðỏ về Trường Nam Tiểu Học, để tiếp nhận hơn 10.000 đồng
bào chiến nạn, từ các tỉnh Cao nguyên và Duyên Hải Miền Trung chạy về. Sau đó,
số đồng bào trên, đuợc chuyển tiếp bằng GMC, tới các Trại Tạm Cư, vừa được tỉnh
thiết lập, dưới rặng dừa xanh, chạy dài từ Ðá Ông Ðịa, tới Trường Tiểu Học Rạng,
thuộc Xã Thiện Khánh, Quận Hải Long. Ðoàn được tăng cường thêm 10 cán bộ địa
phương của Phùng Bửu Hưng, phối hợp với Ty Giáo Dục và Ty Xã Hội dựng lều trại,
lập danh sách cấp phát gạo, cá thịt hộp, chăn mền, quần áo cũ, thuốc men và các
phương tiện, cho những gia đình muốn về Nam.
2-Những Ngày Cuối Cùng Của Tỉnh/Tiểu Khu Bình
Thuận.
Ngày 7-4-1975, sau khi Lâm Ðồng bỏ ngỏ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công
Chi Khu Thiện Giáo và Trung Ðội Nghĩa Quân,bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ,đồng thời
pháo kích vào TĐ230 ĐPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt., VC
mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ,bởi mìn
Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự
của hai Ðại Ðội thuộc TĐ230, do Ðại Uý Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào yểm
trợ của Pháo Binh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, VC chém vè, bỏ lại
chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ thương nặng.
(Dương Vận Hạm 503
vớt quân cán chính Phan Rang à Tuy Phong ngày 16/4/1975)
Ngày 12-4-1975, VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện Giáo, đồng thời chiếm Xóm Ðộng
Giá, Phú Long, làm gián đọan lưu thông trên QL1. Ðại Uý Huỳnh Văn Quý, được
chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm Tiểu Ðoàn Trưởng TĐ 249/ĐPQ. Đại Uý
Nguyễn Văn Hạnh, một sĩ quan kỳ cựu thuộc Liên Đoàn 4BĐQ thuyên chuyển về Phan
Thiết, được chỉ định làm Tiểu Đoàn Phó. Tiểu Đoàn được tăng cường thêm
ÐÐ283/ĐPQ biệt lập của Ðại Uý Nguyễn Văn Ba (Một sĩ quan thuộc binh chũng
LLĐB), đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long và thị trấn, sau những trận đụng độ
ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu
Thiện Giáo. kể cả các xã trên QL1 như Long Phú, Hòa Vinh, Tuỳ Hòa đang do Tiểu
Đoàn 275ĐP trách nhiệm.Do trên Tiểu Khu cho lệnh Chi Khu di tản khỏi Ma Lâm và
điều động TĐ230 về phòng thủ Phan Thiết.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vỡ, trước sự tấn công biển người của mấy
sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang,
Ðại Tá Nguyễn Thu Lương.. cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền
Phương của QĐ3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SĐ2BB
là tướng Trần Văn Nhựt đuợc HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong
ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận.
Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được Tàu Hải Quân vớt tại vịnh
Cà Ná.
Tại Bắc Bình Thuận, Đại đội 4/ TĐ 248/ĐP là đơn vị tiền phương xa nhất của
TK Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá Chẹt (Cà Ná) là ranh giới của Tiểu
khu Bình Thuận và Ninh Thuận trên QL1 . Vì tình hình chuyển biến quá nhanh, nên
sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được lệnh bỏ Cà Ná và
rút toàn bộ Đại đội (-) đến đóng quân ở một ngọn đồi thấp, đối
diện với sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý
tưởng, hơn nữa nếu nguy cấp Đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển
..
Lúc 10 giờ sáng ngày 16-4-75, từ trên núi Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi,
ĐĐT/ĐĐ4/248ĐP qua ống dòm, phát hiện đoàn xe địch di chuyển từ Cà Ná
vào và dừng lại tại xóm Vĩnh Hảo . Lúc này mặt trận Phan Rang còn đang tiếp diễn
ác liệt thì làm sao có thể phá hủy cầu Đá Chẹt được là đường duy nhất để đoàn
quân tại Phan Rang lui quân . Đại Đội liên lạc về BCH/TĐ xin phi vụ để oanh
kích đoàn xe địch đang dồn cục tại Vĩnh Hảo và phá hủy cầu Đá Chẹt. Lúc đó đoàn
xe của CSBV chỉ cách ĐĐ4/248ĐP chừng 4-5 cây số và BCH/TĐ 10 cây số..
Cuối cùng đơn vị trên đã liên lạc được với không quân khoảng giữa trưa,
chỉ rõ mục tiêu cần oanh kích cho viên Phi công là đoàn xe địch tại xóm Vĩnh Hảo,
nhưng không hiểu vì lý do gì ? Hai chiếc F5 lại thả hai trái bom xuống vị trí
đóng quân của ĐĐ4/248, cũng may bom lạc ra phía sau hướng về cầu Đại Hòa nên
không ai bị thương vong .
Theo Trung Uý Hợi qua máy vẫn nghe họ gọi danh hiệu mình là “Bản Thế” nhưng đã
không lên tiếng . Ông sợ nếu họ biết được đơn vị còn thì dám có thể ăn tiếp
hai trái nữa lắm . Vì không nghe trả lời nên phi công bay về hướng “ Lê Lai-Sơn
Tây” tức Lương Sơn, để thanh toán 2 trái còn lại xuống một đơn vị nào đó mà họ
biết! Sau này có gặp Thiếu úy Đỗ Văn Khuyến ĐĐP/ĐĐ4/TĐ/212/ĐP đóng tại Đồn
Cây Táo (hiện ở Seattle), nhờ có theo dõi tình hình trên máy, nên kịp
thời rút ra khỏi đồn Cây Táo và cuối cùng quả nhiên đồn này nhận 2 quả
bom còn sót lại . Đoàn xe địch khi vào đến gần Lương Sơn thì bị chặn lại tại dốc
Bà Chá với bãi mìn chống chiến xa làm 7 chiếc bị phá hủy . Dấu tích còn lại sau
1975 là xác 3 chiếc Tank địch còn nằm tại bờ Sông Lũy gần dốc Bà Chá xóm Ruộng Lương
Sơn . Công lao này do Đại úy Vĩnh ĐĐT/ĐĐ1/TĐ212/ĐP .
Cuối cùng toàn bộ ĐĐ4/248ĐP (-) cũng ra được tàu nhờ sự cứu vớt tận tình của
Duyên Đoàn 27, nhưng thật vất vả. Gần sáng ngày 17-4-1975, Đơn vi trên được
chuyển tới chiếc Dương Vận Hạm 503 đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná - Cửa Xuất.
Tàu đang thi hành công tác cứu vớt các đơn vị còn kẹt trên bờ. Lúc này các vị
Sĩ quan Hải quân trên tàu ra dấu hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại gần, cho
họ dầu nhờ họ đi vào bờ bốc lính ra . :
Giữa lúc công tác cứu vớt các đơn vị bạn còn đang tiếp diễn, thì pháo 130
ly của CSBV từ trong bờ bắn ra, vì chiếc DVH 503 rất gần vịnh Cà Ná. Nhiều
quả đạn trúng pháo tháp chỉ huy và boong tàu . Trên tàu lúc này có rất ít người
nên thương vong không đáng kể . Chiếc tàu lắc lư dữ dội vì đã bị thương.
Trong lúc đó, Hải pháo từ các Chiến Hạm khác bắn tới tấp vào chỗ đặt
súng của địch để giải cứu cho DVH 503. . Nhờ vậy tiếng súng từ bờ biển bắn ra mới
im bặt. Sau đó một chiến hạm khác cặp vào bên hông, giúp DVH 503 lấy lại thăng
bằng khi được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Tàu cập bến Vũng Tàu vào lúc
10 giờ sáng ngày 18-4-75. ĐĐ4/248ĐP được đưa lên những chiếc xe GMC do
quân cảnh hướng dẫn, về TTHL /Vạn Kiếp khu tiếp tân .
Hai
chiếc trực thăng hư, bị bỏ lại trước Đài Chiến Sĩ Trận Vong Bình Thuận đêm
18-4-1975, hình của Ngô Đình Cường)
3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên đã lọt vào bãi mìn
chống chiến xa tại Dốc Bà Chá (Xóm Nùng) trên QL1 gần Lương Sơn, do Ðại Ðội 1.
Tiểu Ðoàn 212/Liên Ðoàn 925 ÐP/Bình Thuận của Ðại Uý Vĩnh. Theo tất cả các nhân
chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay
hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy còn lại hiện nằm tại Lương Sơn
(Bắc Bình, Bình Thuận).
Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành phố Phan Thiết. Hải Quân
07 và Hải vận hạm Ninh Giang HQ 403, được lệnh tới bờ biển Phan Thiết yểm trợ hỏa
lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập. Chiều ngày 18-4-1975, tăng
pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TĐ249 và Đ Đ283 ĐPQ kể cả Trung Ðoàn
6/SĐ2BB (từ Long Phú rút về đóng tại Phước Thiện Xuân) đều lui quân ra hướng
biển. Ác chiến đã xảy ra trên Liên Tỉnh Lộ 8 từ Tân Điền, Tân An, Trinh Tường
giữa VC và các Tiểu Đoàn 202,229, Đại Đội trinh Sát 206 Tỉnh..mãi tới 8
giờ 30 tối cùng ngày, xe tăng VC , mới chỉ vào tới Cầu Trần Hưng Ðạo, sau khi
vượt qua các chốt chận của TĐ275 ở Phước Thiện Xuân (Đi đường vòng) lúc này
trên QL1, TĐ229 còn đang giữ vững tại Cầu Sở Muối. Do đó chúng đã cố thủ
tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác, vì khắp
Phan Thiết vẫn còn nhiều đơn vị cố thủ chờ lệnh
Sáu giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Nghĩa và BCH Hành Quân Nhẹ tại Lầu Ông Hoàng rời
vị trí di chuyển về gần cửa Thương Chánh chờ Tàu Hải Quân vớt. Trong đoàn có một
chiếc Thiết Vận Xa M-113 bên trong chở nhiều thùng bạc do Bộ Tài Chánh vừa
mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4/1975, nên chưa kịp phát cho một số Ðơn
Vị ĐPQ+NQ, CB/XDNT.(lương tháng 4-1975). Chiếc xe bọc sắt này đã chìm không xa
Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc đều bị VC tich thu,
kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được. Riêng chủ ghe đưa Đại
Tá Nghĩa ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện còn người em ruột vượt
biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận. Nhờ Đại Tá Nghĩa thoát chết
khi bị té xuống biển, nên Ông đã liên lạc được với Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh lúc
đó là Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, mới có cuộc lui quân tại bến tàu Kim Hải.
(Tank
T54 do Nga viện trợ cho CS Bắc Việt vào thị xã Phan Thiết đêm 18-4-1975, hình
do Ngô Đình Cường chụp)
Tại Phú Long, lúc 3 giờ chiều ngày 18-4-75 , sau khi bị trận địa mìn ở Dốc Bà
Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc và hư hại nhiều chiếc khác . Đoàn Tank địch
sau hơn một ngày tán loạn nên chờ bộ binh tăng viện mới tiến vào Phú Long, Trước
cả binh đoàn của địch có tăng pháo yểm trợ, các đơn vị phòng thủ lúc đó gồm
Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP, Tiểu Đoàn 275/ĐP, ĐĐ290/ĐP của Đại Uý Nguyễn Duy
Sâm, ĐĐ của Đại Uý Uý, cùng các đơn vị tăng phái của Sư Đoàn 2BB + Chi Đoàn Thiết
Giáp .. lần lượt rút bỏ Phú Long di tản chiến thuật theo kế hoạch “Lui Binh”,
hoặc ra Hải Long hay về Bình Tú, chờ các Chiến hạm Hải Quân của BTL/V2DH
đến chở về Vũng Tàu.
.
Dù vậy, Tank địch chưa dám vượt qua cầu Phú Long vì sợ lại lọt vào trận địa mìn
bẫy . Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững phía bên này cầu (thuộc xã Kim Ngọc) và
tiêu diệt Tank địch . Lúc này đơn vị kiểm điểm lại chỉ còn 7 quả M72 vì đã bắn
nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm . Xe Tank địch thì rất nhiều như
những con thiêu thân chờ đêm tối mới tràn qua cầu.
Tr/úy Nguyễn Minh Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì được biết đã có lệnh rút lui
về Bình Tú, nhưng Tiểu Đoàn rút đi mà không thông báo cho đơn vị biết . Dầu vậy
anh đã ra lệnh chờ xe Tank địch tới gần 30m mới cho bắn, để chắc chắn . Nhưng Tank
địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước Thiện Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân
do anh Néo làm Trung Đội Trưởng. Tại đây một chiếc Tank T54 đã bị NQ bắn hạ .
Trung úy Luân gọi Hải pháo bắn chận địch để đơn vị rút quân . Đơn vị anh từ đó
đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây, tự tìm đường đi về Vũng Tàu . Riêng anh nhờ
một chiếc ghe vớt anh trên thúng khi đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng
Tàu, gặp lại Tiểu đoàn tại dây .
3-TRUNG ĐOÀN
BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 4 –
75
Theo lệnh lui binh, Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu Đoàn
Trưởng, từ Đồn Tân An đã đến bến tàu Kim Hải từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo
vệ Nông Trường Sao Đỏ, trước đây do Đại úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba
Hòn . Vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch lúc đó do Y
Sĩ Đại Uý Lê Bá Dũng XLTV/CHT , đồng thời di chuyển Thương Bệnh Binh ra bãi biển
chờ tàu Hải quân vào đón . Sáng 19/4 thì Tiểu Đoàn 229ĐP của ThT Tiến , TĐ 275/ĐP
của Thiếu tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu tá
Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia, Phú Hội, Mương Mán .. cũng đến
được bãi biển Kim Hải .
Ngoài ra còn có Đại đội 948 ĐPQ của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều Đại Đội khác của
các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng về được điểm hẹn . Nói chung thì hầu hết các
đơn vị tại Nam Bình Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây, trừ lực lượng cơ hữu của
Chi Khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐPQ của Đại úy Phạm Văn Sáu theo
Thiếu tá Dụng Văn Đối di tản từ chiều 18-4-75 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị Tiểu
Khu Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo kể cả Đại bàng
. Riêng Chi Khu Hải Long do Thiếu Tá Hàng Phong Cao làm Chi Khu Trưởng rời Mũi
Né vào trưa ngày 18-4-1975 bằng ghe chở nước mắm và chiếc Thương thuyền
Hương Giang từ Nha Trang vào bi kẹt bỏ lại . Các đơn vị tại Bắc Bình Thuận gồm
4 Chi Khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan lý Chàm, Hòa Đa và Liên đoàn 925/ĐP đóng tại
Lương Sơn, phần lớn cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải quân và ghe đánh
cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm.. Riêng Chi Khu Thiện
Giáo coi như tan hàng trước ngày 16-4-75.
Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một thêm căng thẳng . Trời về trưa càng
oi bức ngột ngạt, gió biển vẫn không đủ xoa dịu nỗi cái nóng của hơi cát bốc
lên từ bốn hướng . Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh vùng II Duyên Hải,
đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28 Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc
các Thương Bệnh Binh của QYV Đoàn Mạnh Hoạch . Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment
và tàu há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần lượt bốc hết
các đơn vị tại chỗ . Trong lúc đó nhiều chiến hạm kể cả Chiến hạm Trần Khánh Dư
HQ04 cũng tiến sát vào bờ, sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên
trong, đang dồn dập ủi bãi đón người . Đại đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn
chỉ huy là đơn vị rút sau cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển . Ba
chiếc Hải thuyền tiến vào bờ đón đại đội 4/229/ĐP, lúc này bãi biển Kim Hải trở
nên vắng lặng . Cuộc di tản Chiến thuật của Tiểu Khu Bình thuận và các đơn vị
từ Phan Rang vào coi như kết thúc vào lúc 1 giờ trưa ngày 19-4-75, với sự thành
công tuyệt diệu .
Trong giây phút sắp từ giả Phan Thiết yêu thương, bỏ lai sau lưng vợ con, cha mẹ,
bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại, trái tim người lính trận bổng dưng khựng
điếng như vô cảm . Trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ04, hiện đang có mặt Phó Đề Đốc
Hoàng Cơ Minh và Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, bên trong những boong tàu hơn 6000 quân được
vớt từ bãi Kim Hải.
Trong lúc đoàn tàu chưa rời bãi Kim Hải, thì có tiếng còi báo động từ
Soái hạm HQ04 vang lên . “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến đấu”
. Lệnh vừa dứt, đã thấy các chiến sĩ Hải quân đang khoắc vào mình
chiếc áo phao màu cam, tiến đến các ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu . Trong
lúc hệ thống Ra đa trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ địch
. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng về Nam . Cuối
cùng giờ chót Phi cơ địch không tấn công đoàn tàu, nhưng Soái Hạm HQ04 ở lại
vùng biển Phan Thiết để đoạn hậu bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam .
Gần tối đoàn
tàu qua mũi Kê Gà với tháp Hải đăng chiếu sáng cả một vùng biển . mệt mỏi và
say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới lúc ánh mặt trời chiếu
vào mặt mới thức giấc .Nhìn ra ngoài thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ
neo ngoài biển chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu .
Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 229/ĐP, được sự ủy nhiệm của
Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ trước gặp Quân cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch
giao nạp vũ khí, quân dụng cho Quân trấn vì sợ chúng tôi làm loạn khi được lên bờ
.Từng người một bị khám xét, và bị tịch thu tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn
trước khi lên Bến Đình . Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45
và một máy PRC 25 dùng để liên lạc với Đại tá Nghĩa.
Hỡi ôi ! Đánh
trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà nay đoàn lính trận Bình
Thuận lại bị chết nhục bởi đám Quân cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những
lệnh lạc từ trên trời rơi xuống . Nhưng chúng tôi là những người lính có kỷ luật
và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên không có chuyện gì xảy ra .Nhưng đây
cũng là lý do làm cho một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay
không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính quan không ra quan
. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự khi bị đám quân cảnh trấn lột thẳng
tay
.
Nhưng trái lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng nhiệt
đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào . Dọc theo Bãi Trước gần cầu tàu,
các quày thức ăn cung cấp tự do cho mọi người . Xen lẫn trong số này có các
quày của các Soeur bên Thiên Chúa Giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự . Các món ăn
chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật tử cảm động muốn khóc vì
nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ ra sao ? Nói chung đồng bào và các
đoàn thể ở Vũng Tàu, chính quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở
về từ giới tuyến . Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng nàn diểm tuyệt,
luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình không bao giờ phai lạt trong suốt cuộc
đời còn lại .Đoàn Quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về Trung
Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa . Khi đi ngang qua Đặc Khu Vũng Tàu có ghé lại,
để các cô Nữ Quân Nhân ủy lạo cấp phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng
nhiều nên chúng tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình Huynh đệ Chi binh .Trưa
20-4-75 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn
Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà Ria. Tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn
về Sài Gòn tìm thân nhân .
Lúc đó có khoảng 10.000 người tập trung về đây, đủ các quân binh chủng,
nhưng đông nhất là Tiểu khu Bình Thuận hơn 3000 ngàn người . Trong khi đó từng
đoàn xe GMC chở đầy binh sĩ Sư đoàn 18/Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo vừa từ
Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn Vũng Tàu, chạy ngược về hướng
Long Thành trên QL15.
Cũng tại
Trung tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại tá Lại Văn Khuy, Liên Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc
Bình Thuận) và Thiếu tá Nguyễn Quốc Quân Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 212/ĐP .
Sau khi chận đánh đoàn xe Tank địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, Đơn vị này rút
quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong mật khu Lê Hồng Phong
để chờ tàu Hải quân đến đón . Đại úy Bá, Tiểu Đoàn Phó cùng một số binh sĩ vài
chục người tách ra đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi, nhưng từ đó đến
nay không nghe tin tức gì về đoàn quân này .
Sáng ngày 19-4-75 Đại Đội Trưởng Đại Đội 1/212/ĐP, Đại úy Vĩnh là người trực tiếp
chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe
nhỏ ra biển đón được 3 ghe giả cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP
và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an toàn. Lúc này, Đại tá
Khuy và Thiếu Tá Quân không mặc quân phục hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu
tá Nguyễn Hữu Tiến được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp chỉ
huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn xin lương bổng và tái trang
bị cho đơn vị .
Ngày 21 tháng 4-75 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào được chở ngược về
Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau . Trung
Đoàn Bình Thuận được thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân
dụng . Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán bớt để mua cá thịt
cho anh em ăn . Ngày 22-4-75 Đại tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC
Vũng Tàu mang theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phâm, mỗi
người nhận tạm 200đồng/ngày . Ngày25 tháng 4 lại mang đến thêm 2 triệu đồng nữa
. Đích thân Th/tá Nguyễn Hữu Tién nhận tiền và Tr/úy Cao Hoài Sơn giúp cấp phát
số tiền này cho các binh sĩ Trung Đoàn Bình Thuận (Th/tá Tiến đã qua đời tại Úc
vì bạo bệnh sau nhiều năm sống trong Trại tù CS ngoài Bắc) . Quân số Trung Đoàn
Bình Thuận lúc đó khoảng 3000 người gồm Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, và Binh Sĩ các đơn
vị tác chiến .
Riêng BCH/Tiểu
Khu, BCH/Liên Đoàn 925, và các BCH Chi Khu, An ninh Quân Đội, các ban ngành coi
như tan hàng ngày 19-4-75 , ngoại trừ “ người Lính già Ngô Tấn Nghĩa,
đã theo anh em đến giờ phút cuối cùng từ mọi nẻo đường”.nên đã bị kẹt
lại ở Sài Gòn dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối, nhưng
ông vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó .
Trong ngày 25-4-75, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung Đoàn Bình Thuận một xe
Dodge, Các Tiểu Đoàn nhận lại Máy PRC 25 và bản đồ Tỉnh Phước Tuy . Lúc này bắt
đầu hỗn loạn vì VC bắt đầu áp sát Thành Phố, pháo kích bừa bãi vào dân chúng đang
tập trung tại Sân vận động . Phi trường bị pháo kích liên tục làm tê liệt các
chuyến bay . Tệ hại nhất là tai Sân vân động, những người không nhà lại phải bồng
bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của VC. Hơn 10.000 người tại đây hoảng loạn kêu
khóc rất thương tâm . Không thấy có ai có lấy một lời lên án hành động dã man
này .Lương tâm loài người đâu rồi ? Các đài BBC , VOA, PHÁP đâu không tố cáo tội
ác chống nhân loại này.
Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố, xác người cháy đen nằm
trên lề đường, quân cướp giật lợi dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm
. Tình hình trở nên nguy ngập khi Sư đoàn 18/BB được lệnh rút về Biên Hòa .Các
Tiểu đoàn 274/ĐP của Th/tá Bình và 275/ĐP của Th/tá Tư chỉ huy thuộc Trung Đoàn
Bình Thuận được lệnh bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía đông
bắc thành phố Vũng Tàu .Các Đại đội biệt lập và Tiểu đoàn 229/ĐP trách nhiệm giữ
căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính, tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu.
Ngày 29-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên thân cận từ Biên
Hòa dùng Trực thăng đáp xuống Căn cứ TQLC, lúc đó do Trung Đoàn Bình Thuận trấn
giữ . Buổi trưa cùng ngày các vị đã “di tản chiến thuật” bằng Trực thăng ra Hạm
đội Mỹ đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu . Cùng lúc VC tấn công vào Long Hải, Trước
sức tấn công dữ dội của địch và không có sự yểm trợ tối thiểu nào của Đặc Khu
Vũng Tàu nên hai Tiểu đoàn 274/ĐP và 275/ĐP đã lui binh về căn cứ TQLC
Trên QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ, bị VC tấn công dữ
dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây nhiều thương vong cho giặc . Tại
căn cứ TQLC do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng
lối tiền pháo hậu xung cổ điển . Trung đoàn đã đánh với giặc trận chiến cuối
cùng vô cùng oanh liệt .Từng đơn vị địch như những con thiêu thân lao vào, ác
liệt nhất là mặt phái tây có rừng dương liểu, và động cát . Xác địch nằm ngỗn
ngang vì mìn bẫy và những lằn đạn của ta . Tới chiều gần tối biết không thể nào
ngăn chặn được nữa, Trung đoàn Bình Thuận rút đi dọc theo bãi biển tiến về Bãi
Trước . Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang theo đạn dược,vũ khí nhẹ và lương thực
vì vũ khí nặng không còn đạn nên phá hủy trước khi rút .
Chúng tôi chiếm ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ .
Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng trước đây hồi Đệ
nhị Thế chiến ( Có tài liệu nói do người Pháp xây dựng) . Trong đó có hệ thống
giao thông hào, hầm trú ẩn kiên cố và có giếng nước . Dân chúng xung quanh kéo
đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn người .
Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như những đêm dài VN suốt 20 năm
chinh chiến trên quê hương khổ đau . Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn
không ngớt, kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30-4-75 và cuối cùng là lệnh đầu hàng
của Tổng thống hai ngày Dương Văn Minh . Kết thúc vận hội của dân tộc VN Tự do,
bước vào ngưỡng cửa của Thế giới đói nghèo .
Bốn mươi mốt năm qua rồi, nhưng lịch sử cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ
không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu .Hãy nói lên những sự
thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút, là người Lính hay
ít nhất cũng là một bình dân lương thiện . Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối
ân tình đối với người chiến sĩ một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình
cho đời .
Người Lính
Bình Thuận, những Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán bộ Cảnh sát .. một đời xứng
đáng để các thế hệ sau trân quý, noi gương . Chúng ta đã không lầm lẫn khi
viết bất cứ một trang sử nào nói về “ Sự hy sinh cao quý của người lính VNCH".
Sáng ngày 19-4-1975, hai Phản lực cơ A-37, được lệnh Quân Ðoàn III, thả bom
đánh xập các cây cầu trên sông Mường Mán nhưng thả lạc mục tiêu, làm hư xập nhiều
nhà cửa của đồng bào, trong khu phố Thương Mai, quanh các đường Gia Long, Nguyễn
Tri Phương và Ngô Sĩ Liên.
Tại Phan Thiết sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán,
Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay khi kẹt lai, từ 19 tới
30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác đã gục ngã trước đạn súng và
lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây,qua ba mươi tám năm trầm
thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống,một thời là nạn
nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được
những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC .BT đã vô
lương vô nhân đạo, bắn giết những kẻ ngã ngựa sa cơ..
Ðời lính là như vậy đó, cho nên đâu cần phải là sử gia, nhà văn trí thức,hay những
kẻ một thời nắm quyền hành, mới ghi lại được những thảm kịch của chiến tranh. Cá
nhân của người viết chỉ là một quân nhân sinh trưởng tại địa phương nhưng trong
mười năm quân ngũ, đã xuôi ngược mọi nẻo đường đất nước, khắp các vùng chiến thuật
và ở trong nhiều đơn vị. Và điều vinh hạnh nhất của đời người, là đã cùng với
quân dân Bình Thuận, sống trọn vẹn trong 18 ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975.
Bởi vậy với tôi, tháng tư là một khoảng thời gian kỳ diệu, với những trang lịch
sử đẳm máu treo lơ lửng trên đầu, luôn cho người lính già sống sót, môi cảm
giác rất xa rất gần, như những người bạn cũ đã nằm xuống hôm qua, giờ chỉ biết
nhớ mà không bao giờ gặp lại được.
Ðó cũng là lời giải đáp thắc mắc mà tôi đã đeo đẳng suốt 38 năm qua, là đã
không hề nuối tiếc cho bản thân mình.
Bây giờ như mới hôm qua, những ngày tháng tư lửa máu tại Phan Thiết, xin kính cẩn
tưởng niệm những người đã mất. Bổng thấy tâm hôn như chết khựng, không phải vì men
rượu, mà là nỗi xót xa khi nghĩ tới những cơ cực của miền biển mặn, như đang úa
vỡ ở cuối chân trời, trong đó có mẹ, có em, có quê hương gió cát, đang quằn quại
trong thiên đàng Xã Nghĩa, không biết bao giờ mới ngoi lên được, để mà làm người.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
MƯỜNG GIANG
Cựu Tham Sự Hành
Chánh 2
Phó Ty Cựu Chiến
Binh Bình Thuận
KBC 4508
VIẾT QUA CÁC CUỘC
PHỎNG VẤN :
-Cựu Đại Tá Tỉnh/Tiểu
Khu Trưởng Bình Thuận Ngô Tấn Nghĩa
-Cựu Phó Tỉnh Trưởng
Bình Thuận Phạm Ngọc Cửu
-Cựu XLTV Trưởng
Ty Giáo Dục Thanh Niên Bình Thuận Phạm Quang Giai
-Cựu Trung Tâm Trưởng
Chuân Chi BT Phan Bái
-Cựu Đại Uý Tiểu
Đoàn Trưởng TĐ 249ĐP Huỳnh Văn Quý
-Cựu Đại Uý Q.Tiểu
Đoàn Trưởng TĐ 202ĐP Huỳnh Văn Hoàng
-Cựu Đại Uý Trần Hữu
Thân, ĐĐT/ĐĐ4/TĐ274/ĐP
-Cựu Đại Uý
ĐĐT/ĐĐ290ĐP Nguyễn Duy Sâm
-Cựu Đại Uý
ĐĐT/ĐĐ/948ĐP Mai Xuân Cúc-
-Cựu Trung Uý Cao
Hoài Sơn ĐĐT/ĐĐ4/TĐ229ĐP
-Cựu Trung Uý Nguyễn
Tấn Hợi ĐĐT/ĐĐ4/TĐ248ĐP
-Cựu Đại Uý Lê Văn
Tuân Chi Khu Phó CK Thiện Giáo
-Lê Ngọc Lan Quận
Đoàn Trưởng XDNT/BT
-Cựu Đại Uý Lê Phi
Ô Tiểu Đoàn trưởng TĐ344ĐP/TK Bình Tuy
-Cựu Thiếu Tá Lê
Văn Trung, Đại Uý Hàng Vinh Hiển, Nguyễn Văn Hạnh, Lê Bá Hùng..
-Cựu Trung Uý Phạm
Ngọc Bảng Chỉ Huy trưởng CSQG Tuy Phong.
-Cựu Trung Úy Ngô
Trúc Khánh (TKBT).
-Bà Quả Phụ Trương
Đức Nghi, phu nhân cố Thiếu Tá Trịnh Văn Bình TĐT/TĐ274ĐP
-Bà Quả phu Hồ Ngọc
Trai phu nhan cố Đốc Sự Phạm Ngọc Thành Phó QT Hòa Đa
-Bà Phan Thị Sâm
Nhân Viên Quận Hải Long
-Cựu Trung Uý Vũ Mạnh
Minh Trưởng Ban Truyền Tin Chi Khu Hàm Thuận
-Bà Nguyễn Thị
Dung, Nhân Viên Ty Hành Chánh Bình Thuận
(Đồn xưa còn đó, người
đâu tá ?
***
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết