Richard Nixon, Henry Kissinger và
Sự Sụp Đổ Của Miền Nam
26/04/2016
“Không ai biết rõ còn bao lâu nữa và phải làm gì cụ thể để thay
đổi. Có còn chăng là sự tỉnh thức trong chúng ta. Đó là một khả năng tự soi
sáng và tự quyết định về vận mệnh của đất nước mà toàn dân Đông Âu là một thí
dụ. Tỉnh thức thân phận là vấn đề kiến thức; xác định ý muốn để thay đổi là vấn
đề quyết tâm… Không ai có phép lạ để chuyển hoá đất nước thay cho chúng ta. Vấn
đề là sự chọn lựa. Chúng ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong tình tự dân tộc là
một hy vọng khởi đầu: Đất nước đang nguy cơ hơn bao giờ hết, sức mạnh của toàn
dân sẽ đem lại giải pháp và quyền dân tộc tự quyết là phương tiện. May ra một
phép lạ nào đó cho đất nước sẽ đến sau”.
____
Đỗ Kim Thêm*
25-4-2016
Vấn đề
Henry Kissinger và Richard Nixon. Nguồn: internet
“Mỹ
không thể bỏ Việt Nam” đó là một niềm tin son sắt của chính giới và
người dân miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Hơn nữa, VNCH với 1 triệu 1
quân nhân, một không lực đứng hàng thứ tư trên thế giới, kiểm soát trên 50% dân
chúng và 75% lãnh thổ, không ai tin là có thể đầu hàng. Cuối cùng, chuyện không
muốn đã đến khi Đồng Minh tháo chạy. Cho đến nay, vẫn còn có câu hỏi đặt ra là
tại sao VNCH sụp đổ, vì trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, đã chưa có một
trường hợp nào tương tự như vây đã xảy ra và các lý giải vẫn chưa thoả đáng.
Lý do thật dễ
hiểu: Việt Nam không còn các sử gia chân chính; nhiều cán bộ sử học của phe
thắng cuộc đang tiếp tục làm nhiệm vụ tuyên truyền; các sử gia khả tín của phe
thua cuộc không còn cơ hội lên tiếng; sử gia ngoại quốc cũng chẳng soi sáng được
nội tình nhiều hơn vì là người ngoại cuộc. Thế hệ tham chiến không thể kể hết
tiếng lòng của nạn nhân chiến cuộc; các tự sự qua ký ức cá nhân và ký ức tập
thể mờ nhạt qua bụi thời gian. Vì không có một chương trình giáo dục khách quan
cho thế hệ hậu chiến, nên các mờ ảo của lịch sử cận đại còn đó.
Tổng Thống
Richard Nixon và Cố vấn Henny Kissinger là hai chính khách trực tiếp can
dự vào sự sụp đổ của VNCH. Richard Nixon đã thú nhận những sai lầm qua danh tác
“No
More Vietnam“. Henry Kissinger, vốn là nhà sử học và có nhiều trước
tác liên quan; nhưng gần đây ông cũng cho là chưa có một tác phẩm nào về chiến
tranh Việt Nam là khách quan và thuyết phục.
Trước đống tro
tàn của lịch sử, một câu hỏi được đặt lại là Richard Nixon và Henry Kissinger
đã làm gì trong tiến trình Việt Nam Hoá chiến tranh và ai thắng ai thua trong
sự sup đổ của VNCH; đó là nội dung của vấn đề ở đây và bài viết này là một thử
nghiệm khiêm tốn.
Nhậm chức Tổng
Thống và bổ nhiệm Cố Vấn
Sau bao năm
thăng trầm trong chính trường, Nixon thắng cử và trở thành Tổng Thống thứ
37 của Hoa Kỳ. Ông là một luật sư có tài hùng biện, văn tài diễn đạt trong
sáng, mà tác phẩm “No More Vietnam” là một
thí dụ điển hình, nhưng thái độ kiên quyết chống Cộng làm ông nổi danh.
Trước đây,
trong trận Điện Biên Phủ, ông đã từng kêu gọi Hoa Kỳ phải oanh tạc Bắc Việt,
rồi đến việc xây dựng miền Nam, ông ủng hộ Tổng Thống Diệm không điều kiện và
sau này ông còn cáo giác Johnson là không có đủ biện pháp mạnh để giải quyết
vấn đề.
Sau khi nhậm
chức, ông nhận ra rằng cần phải có một chính sách ngoại giao mới, mà khó khăn
nhân sự là hàng đầu. Ngoại Trưởng William Rogers vốn là một người bạn vong niên
mà ông tín cẩn, lại thiếu nhạy bén trong các vấn đề ngoại giao, trong khi
William Laird, Bộ Trưởng Quốc phòng, luôn tỏ ra là người thừa lịnh hơn là đề
xuất sáng kiến.
Để làm việc
hiệu năng hơn, ông quyết định bổ nhiệm Henry Kissinger, Giáo sư Đại học
Harvard, vào chức vụ Cố Vấn An ninh Quốc gia, mà ý kiến sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến các quyết định liên quan với chiến cuộc Việt Nam đang leo thang.
Chiến cuộc leo
thang
Nixon đồng quan
điểm với các bậc tiền nhiệm về học thuyết Domino: Việt Nam lọt vào tay Cộng sản
là một tai hoạ chung cho các nước Đông Nam Á. Tham chiến là một trò chơi quá
nguy hiểm cho uy tín quốc tế của Hoa Kỳ và chiến thắng bằng giải pháp quân sự
là khó; vì có nhiều lý do: quân đội cần hiện đại hoá các trang bị để gia tăng
hiệu năng tác chiến mà ngân sách đang thâm thủng; kinh phí quốc phòng hằng năm
đã lên đến gần 30 tỷ Đô la, chiếm dụng 40% ngân sách. Nếu rút quân để tránh
tiếp tục sa lầy, tình hình sẽ nghiêm trọng. Áp lực chính trị quốc nội ngày càng
nặng nề. Phe Bồ câu kêu gọi thương thuyết, trong khi phe Diều Hâu chủ trương
không kích, nhưng cả hai cùng có một đòi hỏi chung là 543.000 quân nhân Hoa Kỳ
phải hồi hương, nhất là khi số lượng tử vong của binh lính lên tới 14.600.
Nixon và
Kissinger tin là phải chấm dứt chiến tranh bằng cách thông qua Moscow và Bắc
Kinh; nhưng không phải các vấn đề dị biệt ý thức hệ là chính, mà là quyền lợi
cụ thể sẽ thuyết phục Moscow và Bắc Kinh quan tâm giải quyết. Nhưng tìm cách
nối kết các quyền lợi dị biệt này thành quan điểm chung về ngoại giao đó là mục
tiêu, một giải pháp lý tưởng mà Hoa Kỳ chấp nhận được là Moscow và Bắc Kinh
phải ngưng viện trợ vũ khí cho Bắc Việt. Dù bang giao với Moscow đã có nhiều
cải thiện sau thời kỳ giảm căng thẳng, nhưng Hoa Kỳ vẫn còn trở ngại với Bắc
Kinh. Hai giải pháp tương lai của chiến trường và đàm phán đều còn mờ mịt.
Để thực hiện,
ông dựa theo học thuyết Nixon 1969 là tiếp tục ủng hộ VNCH và Đồng Minh, nhưng
chính phủ VNCH phải chịu trách nhiệm chính trong công cuộc chiến đấu. Hoa Kỳ sẽ
trang bị tối đa vũ khí cho QLVNCH cùng lúc với việc rút quân theo lịch trình dự
định và can thiệp quân sự chỉ là trường hợp ngoại lệ.
Khác với các
luận điểm trong chiến dịch tranh cử, Nixon đề ra một kế hoạch tuyệt mật và hy
vọng là sẽ kết thúc chiến tranh trong vòng một năm. Ông theo đuổi ba mục tiêu
chính: Một là gây ý thức trong công luận về triển vọng kết thúc chiến cuộc,
nhưng không nhất thiết phải là chiến thắng quân sự thuần túy. Hai là Hoa Kỳ
không bỏ rơi VNCH và từ bỏ mục tiêu cao cả đã cam kết. Ba là kết thúc chiến
cuộc là một giải pháp khả thi, nhưng đầy danh dự cho Hoa Kỳ.
Ông đề ra các
giải pháp cụ thể: Để phá vỡ hậu cần tại miền Bắc, cần tiếp tục oanh tạc các
đường tiếp vận và phong toả hải cảng nơi nhận các quân dụng viện trợ. Để làm
suy yếu tiềm lực chiến đấu tại miền Nam, cần tăng cường chiến dịch Bình Định
Nông Thôn mà Johnson đã thành công.
Để gây chuyển
biến nhanh hơn, Nixon muốn quyết định táo bạo mà ông gọi là lý thuyết của người
điên (Madman Theory). Dù không có trên văn bản,
nhưng qua các cuộc hội luận với H. R. Haldeman, một công sự viên thân tín, ông
nêu các lập luận qua trích thuật “Tôi sẽ chứng tỏ cho Hà Nội biết rằng
khi nổi điên lên đến cực điểm, tôi sẽ làm tất cả những gì để kết thúc chiến
cuộc. Chúng ta sẽ cho Hà Nội thấy là khi Nixon căm ghét Hà Nội biết chừng nào,
khi Nixon nổi điên, thì không ai kiềm chế được“.
Việc Hoàng thân
Norodom Shihanouk thuận cho CSBV sử dụng lãnh thổ Campuchia làm cơ sở hậu cần
để cho QĐNDVN xâm nhập miền Nam là vấn đề mà Nixon thấy cần phải giải quyết
trước. Từ tháng 2 năm 1969, qua cuộc hành quân Operation
Menu, Nixon ra lịnh cho Không Quân Hoa Kỳ ném bom xuống các căn cứ
của CSBV trên lãnh thổ Campuchia. Công luận và các giới chức cao cấp không được
thông báo về diễn tiến này. Trong 14 tháng liên tục Hoa Kỳ đã ném 100.000 tấn
bom làm cho Hà Nội bị tổn thất nặng nề, nhưng không hề công bố về con số thương
vong và tiềm lực suy giảm.
Vào tháng sáu
1969, Nixon đề nghị Hoa Kỳ và CSBV rút quân khỏi Nam Việt Nam và mọi hình thức
hoà đàm sẽ do hai phiá Bắc và Nam quyết định. So với Johnson, Nixon và
Kissinger mềm dẻo hơn. Ông đề nghị là đến tháng 11 năm 1969, nếu Hà Nội không
chấp thuận thì ông sẽ tăng cường các giải pháp quân sự. Nhưng Hà Nội bác bỏ,
nên hoà đàm không khả thi.
Thoạt đầu, áp
lực của giới phản chiến xuống thấp, khi Nixon tuyên bố rút 25.000 quân vào
tháng 6 năm 1969 và tiếp tục rút thêm 60.000 vào tháng 9. Lịnh nhập ngủ được
thay thế bằng hình thức rút thăm và giới trẻ cũng như sinh viên ít khi gặp
phải. Đến tháng 10 phong trào phản chiến gây sôi động khi Quốc Hội thông qua
đạo luật cấm đóng quân Hoa Kỳ tại Thái và Lào vào tháng 9. Chống đối lên đến
cao điểm khi có 4 triệu người biểu tình trên 200 thành phố. Bài hát của
John Lenon “Give Peace a Chance“ và
việc trưng bài danh sách các binh sĩ nằm xuống tại bậc thềm Quốc Hội là hai
biểu tượng chính.
Trước áp lực
của công luận, Nixon không có phản ứng thích hợp và ra lịnh cho 300 quân nhân
phong toả Toà Bạch Ốc. Trong diễn văn truyền hình ngày 3 tháng mười một, ông cảnh
báo giới phản chiến là một hiện tượng tắm máu sẽ xảy ra khi miền Nam thất thủ
và phong trào phản chiến gây khó khăn cho thiện chí đem lại hoà bình của Hoa
Kỳ. Chính Hoa Kỳ có thể làm suy yếu CSBV, và không có trường hợp ngược lại. Tài
hùng biện trong diễn văn này đem lại thành công đáng kể cho Nixon khi gần 70%
dân chúng đồng thuận với chính sách. Phong trào phản chiến suy giảm khi tiến
trình Việt Nam Hoá chiến tranh bắt đầu.
Việt Nam Hoá
Chiến Tranh
Khi công luận
Hoa Kỳ hoan nghênh việc Việt Nam Hoá chiến tranh và hồi hương các binh sĩ, thì
các giới chức tại Ngũ Giác Đài và Bộ Quốc Phòng VNCH bi quan cho rằng sách lược
này chỉ là để miền Nam đầu hàng CSBV theo thời gian. Chính quyền VNCH, mặc dù
triệt để chống kế hoạch, nhưng không còn cách nào khác hơn là tỏ ra ủng hộ giải
pháp này.
Giữa tháng 6
năm 1970 QLVNCH gia tăng quân số từ 850.000 lên đến một triệu, do lịnh Tổng
Động Viên ban hành, thanh niên trong tuổi từ 18 đến 35 phải nhập ngủ. Hoa Kỳ
trang bị cho QLVNCH vũ khí, quân xa va trực thăng hiện đại. Chiến dịch Bình
Định Nông Thôn thành công đem lại an ninh cho các vùng xôi đậu trước đây. Cuối
năm 1971, chính phủ đã kiểm soát nông thôn nhiều hơn; không khí bình yên trở
lại xóm làng và các cuộc bầu của Hội Đồng Xã là có tự do thật sự. Luật Người
Cày Có Ruộng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đem lại ưu thế chính trị hơn cho
ông, khi số lượng đất cấp phát từ 29% lên đến 56% trong năm 1972, cụ thể là
800.000 nông dân vô sản có được đất để canh tác. Thành phố sung túc hơn với các
mặt hàng tiêu dùng do viện trợ Hoa Kỳ bán ra. Tất cả biểu hiện cho một sự thành
công đáng kể của miền Nam trong việc xây dựng một quốc gia dân chủ trong bước
khởi đầu.
Dù an ninh vãn
hồi, nhưng chiến tranh thay đổi bộ mặt nông thôn, dân chúng bỏ làng ra thành
phố mưu sinh, người ở lại cũng không thể sống bằng canh nông, chương trình cấp
đất không tạo thu hút dân chúng hồi cư vì không hứa hẹn sẽ đem lại một cuộc
sống sung túc. Binh lính VNCH vẫn chưa quen sử dụng vũ khí hiện đại của Hoa Kỳ
nên hiệu năng tác chiến vẫn chưa đạt được, trong khi tỷ lệ đào ngủ còn cao. Sự
tàn bạo của chiến dịch Phượng Hoàng tạo thuận lợi cho MTGPMN chiêu phục thêm
được nhiều du kích quân.
Tháng Ba năm
1970, Nixon công bố đã có nhiều diễn tiến tốt đẹp trong chương trình Việt Nam
Hoá chiến tranh và rút thêm 15.000 quân nhân để tìm hậu thuẩn nơi phe phản
chiến. Thực ra, hoà đàm không chuyển biến làm Nixon lo âu nhiều hơn. Trong khi
phong trào phản chiến ngày càng mạnh, nên tháng 4 Thượng Viện ra cảnh báo về tình
hình nghiêm trọng và yêu cầu Tổng Thống kết thúc chiến tranh. Một cơ hội vãn
hồi hoà bình cho Việt Nam đến, không phải xảy ra tại Việt Nam mà tại Campuchia.
Tấn công
Campuchia.
Thủ tướng Lon
Nol đảo chính Hoàng thân Norodom Sihanouk vào ngày 18 tháng 3 năm 1970. Đến nay
vẫn chưa xác định được là có CIA nhúng tay trong vụ này không. Hoa Kỳ thấy có
thuận lợi để tấn công các cơ sở hậu cần của CSBV nằm trong lãnh thổ Campuchia.
Không theo quan điểm của Bộ Quốc Phòng và Ngoại Giao, Nixon quyết định dùng bộ
binh hành quân vào các khu vực biên giới Tây Nam Campuchia, không phải chỉ cách
Sài gòn 70 cây số mà là toàn bộ các khu vực của MTGPMN chưa hề được phát hiện
trước đây. Mục tiêu của đợt tấn công này là giúp cho VNCH đủ thời gian tập
trung lực lượng cho chương trình Việt Nam Hoá chiến tranh.
Ngày 1 tháng
năm Hoa Kỳ mang 31.000 quân và VNCH mang 43.000 quân tấn công Campuchia. Do có
mật tin tình báo mà các bản doanh của MTGPMN di chuyển trước, nên QLVNCH không
thể nào tìm ra. Thành công của đợt hành quân này quá giới hạn; mức tử vong của
Cộng quân là 2.000 và một số kho vũ khí căn cứ bị huỷ diệt. Phản ứng đầu tiên
của CSBV là phải rút sâu hơn trong nội địa của Campuchia. Với vũ khí của CSBV
và Trung Quốc cung cấp, lực lượng Khmer Đỏ có thêm phương tiện gia tăng kiểm
soát nhiều các khu vực khác. Dĩ nhiên, các cuộc hành quân hỗn hợp này làm cho
xung đột vốn dĩ lâu đời của Khmer Đỏ và chính quyền Campuchia trầm trọng
hơn.
Thoạt đầu, dân
chúng Hoa Kỳ tỏ ra đồng ý dè dặt về việc tấn công Campuchia. Trong một cuộc biểu
tình của giới phản chiến tại khuôn viên Đại học Kent State, Ohio, Vệ Binh Quốc
Gia đã nổ súng làm chết 4 và bị thương 15 sinh viên vào ngày 4 tháng năm 1970.
Tình hình căng thẳng hơn khi 100.000 sinh viên liên tục biểu tình trước Toà
Bạch Ốc. Trước áp lực nặng nề, Nixon tuyên bố sẽ chấm dứt tấn công
Campuchia vào tháng 6. Nixon khó xử hơn bao giờ hết vì thấy rằng Hoa Kỳ không
thể thắng, nhưng lại không muốn kết thúc và cũng không dám công khai thú nhận
là thua.
Sau cuộc xâm
lăng Campuchia, tinh thần dân chúng mệt mỏi và cho là một sai lầm đạo đức, nhất
là khi các cơ quan truyền thông đồng loạt khai thác vụ tàn sát Mỹ Lai và Bí Mật
Ngũ Giác Đài.
Pentagon Papers
Muà hè 1971,
The New York Times phổ biến tài liệu gọi là Bí Mật Ngũ Giác Đài, Pentagon
Papers, làm hoang mang dư luận. Tài liệu này do Daniel Ellsberg
tổng hợp theo yêu cầu của Bộ trưởng Quốc phòng MacNamara. Ông cáo giác chánh
sách tham chiến dựa trên quan điểm là do bị đe doạ nhiều hơn trên các nhận định
quyền lợi thực tế. Các chính quyền Kennedy và Johnson thông báo tin tức sai lạc
cho dân chúng và lý tưởng hoá về tầm vóc tham chiến tại Việt Nam.
Để đối phó với
mặt trận truyền thông ngày càng gay gắt, Nixon phải xin lịnh Toà án ngưng công
bố các tài liệu này, nhưng gặp thất bại. Nixon yêu cầu các giới chức an ninh hỗ
trợ để chận đứng tình hình. Một mặt, ông cáo buộc Daniel Ellsberg bị bịnh tâm
thần; mặt khác, ông dùng các thủ thuật bất hợp pháp như tổ chức đánh cắp tài
liệu mật, nghe lén, theo dõi thư tín và đời tư các người liên quan.
Quốc Hội ý thức
hơn về tầm vóc vấn đề và theo dõi các hoạt động của Tổng Thống. Tháng tư và năm
có hàng trăm ngàn dân phản chiến tham gia biểu tình và có vài thành quả nhất
định. Dù các đài truyền hình ít đưa tin về các hoạt động phản chiến hơn, nhưng
các bất ổn tâm lý lan tràn.
Bất ổn tâm lý
Từ khi phát
động chương trình Việt Nam Hoá chiến tranh, từ Tướng Tư lệnh Abhrams cho đến
binh sĩ có cảm tưởng chung là mục tiêu cao cả của cuộc chiến đấu vì tự do đã
mất đi. Vì chỉ còn chờ ngày hồi hương, nên họ mang tâm trạng phòng thủ và bất
ổn tinh thần.
Tinh thần xuống
cực thấp qua việc sử dụng ma túy. Theo một ước lượng, có khoảng 40.000 binh sĩ
Hoa Kỳ lâm cảnh nghiện ngập. Các vấn đề phân biệt màu da và bất tuân thượng
lịnh trở nên nghiêm trọng hơn. Hậu quả chính trị của vấn đề càng nghiêm trọng,
khi có tin một số tướng lãnh VNCH cũng tham gia việc mua bán ma túy.
Ngay khi còn ở
Việt Nam, binh sĩ Hoa Kỳ không thể suy đoán hết về các diễn biến của các phong
trào phản chiến. Lúc hồi hương, họ càng gặp khó khăn trong việc tái hội nhập xã
hội và nhận ngay ra các bất ổn tâm lý cá nhân, “họ không thể tập trung, lo sợ
trước bóng tối như trẻ con, thường bị mệt mỏi nhanh, ác mộng thường xuyên, phản
ứng quá mức trước tiếng động không bình thường, đột qụy trước trong cơn giận dữ
hay xung động.” Các chứng bịnh tâm thần kéo dài không thể trị hết làm cho nhiều
người thất nghiệp, phạm pháp và vào tù. Trong chiến tranh, họ được ca ngợi là
anh hùng, khi hồi hương họ mới nhận ra mình là một phương tiện cho một chính
sách thất bại. Chính quyền không quan tâm giải quyết các vấn đề tâm lý cá nhân
cũng như gia đình. Họ mang tâm trạng làm điều vô ích cho kẻ vô ơn.
Tinh thần binh
sĩ VNCH cũng sa sút vì mặc cảm bị Hoa Kỳ bỏ rơi và phải tự chiến đấu trong
trong hoàn cảnh thiếu yểm trợ. Khi Quốc Hội cấm binh sĩ Hoa Kỳ hành quân trên
lãnh thổ Lào, QLVNCH gặp vấn đề trầm trọng hơn, mà thảm bại của Hành quân Lam
Sơn 719 là thí dụ chính.
Mục tiêu Hành
quân Lam Sơn 719 nhằm phả huỷ các đường hậu cần, buộc CSBV trở lại hoà đàm khi
nhận ra được khả năng thiện chiến của QLVNCH. Do mật tin của các cơ quan tình
báo mà mọi kế hoạch đều bị CSBV phát hiện và kết quả là QĐNDVN đã gây thảm bại
nặng nề cho QLVNCH. Nếu không có các cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ yểm trợ vào giờ
chót, thì tầm vóc thiệt hại càng thảm khốc hơn. Con số thương vong của QLVNCH
lên tới 8.483 chết, 12.420 bị thương, 691 mất tích. Quân đội Mỹ có 215 chết, 1.149 bị thương, 38
mất tích, 168 trực thăng bị bắn rơi và 618 chiếc khác bị bắn; QĐNDVN bị thương
vong là 2.163 chết, 6.176 bị thương; các số liệu đều là ước đoán.
CSBV và MTGPMN
trong tiến trình Việt Nam Hoá chiến tranh.
Tổng công kích
Tết Mậu Thân mang lại thành công về ngoại vận cho CSBV và MTGPMN, nhưng là một
thất bại quân sự nặng nề và hiệu năng tác chiến trở nên cực kỳ suy yếu. Chiến
dịch tấn công sang Campuchia và Chương trình Phượng Hoàng của QLVNCH làm cho
CSBV chỉ duy trì thế thủ; MTGPMN cần có thời gian để phục hồi và không còn đánh
phá mạnh ở mức độ địa phương.
Nhưng tiến
trình Việt Nam Hoá làm thay đổi tình hình; Quân lực Hoa Kỳ không thể phát triển
được nửa khi quân số đã lên đỉnh điểm và QLVNCH khó khăn hơn khi phải tự đảm
nhận các cuộc hành quân. MTGPMN và CSBV nhận ra rằng đã đến lúc phải phản ứng
trước tình hình thuận lợi, nghĩa là phải công kích đối phương nhiều hơn, kể cả
ngoại vận, cho dù thực lực đang suy giảm.
Thực ra, nỗ lưc
kiện toàn cơ sở và tăng cường tiềm lực không gặp trở ngại vì CSBV nhận nhiều
viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước thuộc khối Đông Âu trong các lĩnh
vực phòng không, xây dựng, kỹ thuật và huấn luyện.
Theo một ước lượng, CSBV nhận viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc khoảng
7 tỷ Đô la, và riêng Trung Quốc mỗi năm khoảng 200 triệu Đô la về trang bị vũ
khí nhẹ.
Sau khi Hồ Chí
Minh chết vào năm 1969, đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống Mỹ xâm lược và
thống nhất đất nước là mục tiêu cao cả của CSBV. Để đạt mục tiêu này, Lãnh đạo
Đảng Lao Động ý thức được các tác động chuyển biến của Việt Nam Hoá chiến
tranh. Vào tháng giêng 1970, họ thay đổi chiến lược bằng cách sử dụng Hoà đàm
Paris là một trận tuyến mới, mà trước đây họ xem là một công cụ tuyên truyền.
Vùng châu thổ
sông Cửu Long, một khu vực đông dân và nhiều luá gạo, có ý nghĩa chiến
lược, nên MTGPMN đã tăng cường mọi biện pháp để bám khu vực. Hành quân tấn công
sang Campuchia của QLVNCH đã làm phân tán sức bảo vệ, nhưng sau đó đành phải
rút về để bám đất và giữ dân.
Điểm ngạc nhiên
nhất là đến giữa năm 1971, tiềm năng chiến đấu của hai bên đều suy yếu, một
tình trạng bất phân thắng bại, không bên nào chứng tỏ có ưu thế quân sự để có
thể chiến thắng. Thuận lợi nhất cho CSBV là Hoa Kỳ bắt đầu rút quân theo lịch
trình, cứ sáu tháng là có 50.000 binh sĩ hồi hương.
Nga-Hoa đang nỗ
lực cải thiện bang giao với Hoa Kỳ để có nhiều thoả ước thương mại và giải giới
vũ khí. Để đánh đổi mặc cả này, cả hai sẳn sàng gây áp lực Hà Nội trong việc
mưu tìm một giải pháp hoà bình. Dù xung đột có vũ trang tại biên giới Nga – Hoa
vào mùa hè 1969 tại vùng Ussuri cũng không làm cho tình hình bang giao của Việt
Nam với Trung Quốc và Liên Xô xấu hơn.
Chuyến đi bí
mật của Kissinger vào ngày 9 tháng 6 năm 1971 tại Bắc Kinh là để mở đường cho
chuyến thăm viếng chính thức của Nixon vào ngày 21 đến 28 tháng 2 năm 1972.
Triển vọng tái lập bang giao Hoa – Mỹ tạo bất lợi cho Hà Nội, vì một trong
những điều kiện tiên quyết mà Kissinger đặt ra cho Bắc Kinh là tạo áp lực cho
Hà Nội phải đàm phán. Lo sợ trước chuyển biến này, Phạm Văn Đồng sang Bắc Kinh
gặp Mao Trạch Đông tìm cách ngăn trở.
Mao phản bác
yêu cầu của Phạm Văn Đồng bằng một hình ảnh bóng bẩy: “Chổi
của Trung Quốc quá ngắn không thể nào quét sạch lính Mỹ tại Đài Loan, chổi
của các Đồng chí ở miền Bắc còn ngắn hơn, thì làm sao quét sạch miền Nam.“
Bắc Kinh chống đề nghị này là một thất bại cho Hà Nội. Nhiều tư liệu giải mật
về sau cho thấy, dù viện trợ cho Bắc Việt tối đa, nhưng Trung Quốc không hề tin
CSBV sẽ chiến thắng.
Bảng Tuyên bố
chung Thượng Hải vào ngày 28 tháng 2 mở đầu giai đoạn bang giao mới giữa hai
nuớc, mà mục tiêu chung là xây dựng một cấu trúc về hoà bình và công lý cho thế
giới (the goal of building a world structure of peace and
justice). Nội dung không đề cập đến các dị biệt ý thức hệ hay giải
quyết các vấn đề Đài Loan, Việt Nam và Bắc Hàn, nhưng là một thay đổi quan
trọng về thế giới quan về hợp tác.
Từ quan điểm
của một vị Tổng Thống chống Cộng cực đoan, Nixon chuyển sang lợi dụng các xung
đột Nga-Hoa hầu tìm một cấu trúc mới cho chính trị thế giới, mà cũng không quên
quyền lợi chính của Hoa Kỳ. Giải pháp cho vấn đề Việt Nam tất nhiên bị ảnh
hưởng trong sự thay đổi này.
Đợt tấn công
muà hè 1972
Bất chấp thành
công của Nixon trong chuyến Hoa du và đợt vận động tranh cử tại Hoa Kỳ vừa kết
thúc, CSBV mở một đợt tấn công miền Nam vào mùa hẻ năm 1972 với 120.000 quân
qua ba ngả phi quân sự, vùng cao nguyên và biên giới Campuchia, lần này
có trang bị nhiều chiến xa tối tân của Liên Xô. Vào thời điểm này, Hoa Kỳ chỉ
còn 6.000 binh sĩ chiến đấu trong tổng số 95.000 quân. CSBV tấn công năm tỉnh
phiá Bắc, khởi đầu là Quảng Trị, rồi đến Komtum thuộc cao nguyên, với hy vọng
là cắt đôi miền này, và điểm cuối cùng là biên giới Tây Nam, cách thủ đô Sài
gòn 70 cây số. Tổng Thống Thiệu phải ra lịnh cứu nguy các thành phố và tạo vòng
đai an toàn cho dân chúng.
Để làm cơ sở
bao vây Sài Gòn, MTGPMN đã bắt đầu kiểm soát vùng châu thổ sông Cửu Long; tấn
công này làm cho tinh thần chiến đấu của QLVNCH lung lai vì thiếu yểm trợ.
Nixon kiên
quyết không bỏ rơi miền Nam và không thể chịu thất bại trong năm tranh cử khi
ông đưa ra cuộc hành quân Linebacker I vào ngày 8
tháng năm. Ông quyết định phong toả hải cảng Hải Phòng và mở các đợt không kích
tàn bạo nhất, cho dù các chuyên gia có cảnh báo về hậu quả nghiêm trọng của
quyết định “điên khùng” này.
Lập luận chung
là ai cũng sợ Hoa Kỳ bị trả đuả; để tỏ tình đoàn kết với CSBV, Trung Quốc sẽ
trực tiếp can thiệp và Liên Xô sẽ cắt đứt ngoại giao với Hoa kỳ. Nixon bất chấp
cảnh báo này và cho ném 112.000 tấn bom xuống miền Bắc.
Điểm ngạc nhiên
là Liên Xô phản ứng yếu kém khi một chiếc hạm của Liên Xô bị phá hủy ở hải cảng
Hải Phòng. Sau đó, Leonid Breschnew tiếp Nixon vào tháng năm với nghi lể trang
trọng dành cho một quốc khách. Trung Quốc cũng tỏ ra không gay gắt trước những
thiệt hại nặng nề của miền Bắc.
Dù Thượng Viện nổi giận, nhưng công luận Hoa Kỳ
tỏ ra đồng thuận với việc ném bom miền Bắc, vì dẫu sao cũng ít gây hậu quả tệ
haị hơn là hành quân bằng bộ binh. Nixon nhận nhiều ủng hộ chính trị hơn trong thời
gian này.
Cuộc hành quân
muà hè 1972 là một thất bại cho Hà Nội; vì mọi hoạt động hậu cần bị tê liệt và
với trên 100.000 quân của QĐNDVN bị thiệt mạng cùng 700 xe tăng Liên Xô bị tiêu
hủy, trong khi quân của VNCH tử vong khoảng 25.000.
Chua chát nhất là Liên Xô
đã cắt giảm viện trợ, còn Trung Quốc gây sức ép để buộc ngừng chiến
đấu. Hà Nội đang trong tình trạng hoàn toàn kiệt quệ mọi mặt và nhận ra
rằng không thể kéo dài chiến lược vưà đánh vừa đàm, vì thiệt hại nhiều hơn
trong khi Hoa Kỳ còn tiếp tục oanh tạc; dù Đảng Dân Chủ của McGovern có thắng
cử, thì tình hình cũng không thể thuận lợi hơn.
Ngược lại, vì
đang được dân chúng ủng hộ, nên Nixon và Kissinger nhận ra một lối thoát trong
danh dự cho Hoa Kỳ đã đến. Dù Hoa Kỳ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho miền Nam, nhưng
Nixon thấy không thể kéo dài mưa bom và áp lực phản chiến trong nước lên đến
đỉnh điểm. Theo công luận thì những thuận lợi về việc xây dựng nền tảng dân chủ
của VNCH cũng như triển vọng thành công trong chương trình Việt Nam Hoá không
còn nửa.
Cả Hoa Kỳ và
CSBV cùng nhận định là phải trở lại hoà hội Paris trong một thái độ nghiêm
chỉnh hơn.
Hiệp Định Paris
Các cuộc hoà
đàm chính thức tại Paris khởi đầu từ 10.5.1968 trong thời Johnson, nhưng vì có
quá nhiều dị biệt nên không đạt kết quả. Từ 4.8.1969 Kissinger đã có nhiều mật
đàm với Lê Đức Thọ và cũng không có tiến triển. Thực ra, vị thế đàm phán của
Kissinger kém hơn CSBV, khi ông đòi hỏi hai bên cùng rút quân. Lúc này, Hoa Kỳ
chỉ còn 27.000 binh sĩ và phương tiện duy nhất là tiếp tục đe doạ không kích.
Cuối cùng, qua
hai cuộc thương thảo 26 tháng 9 và 10 tháng 10 năm 1973, cả hai bên đạt đến một
thoả hiệp chung: CSBV đồng ý cho chế độ VNCH tồn taị và thành lập một Uỷ Ban
Quốc Gia Hoà Giải và Hoà hợp Dân tộc gồm có đại diện VNCH, MTGPMN và các thành
phần thứ ba cùng làm việc chung. Mục tiêu của UB là chuẩn bị cho cuộc phổ thông
đầu phiếu toàn quốc. Cùng với nỗ lực này là một thoả ước đình chiến và trao trả
tù binh cho các bên liên quan. Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đình chiến sẽ hỗ trợ
cho hai miền trong tiến trình này.
Một bất ngờ
trong lúc thương thảo cho Kissinger là gặp phản ứng cực kỳ mãnh liệt của Tổng
Thống Thiệu. Ông thấy nguy cơ sống còn cho chế độ nên không thể ký hoà ước.
Kissinger nhận ra rằng vấn đề không còn phải là chuyện soạn thảo các điều kiện
rút quân hay hoà giải mà sự dị biệt nền tảng trong quan điểm đấu tranh. Miền
Nam không muốn mất vào tay Cộng Sản và cần có một phương cách để bảo đảm cho
chiến thắng. Qua hinh thức ký kết này Hoa Kỳ cũng sẽ không hỗ trợ gì đặc biệt
hơn cho VNCH.
Kissinger nổi
giận vì các mật đàm giữa Hà Nội và Washington đều không đạt kết quả, nhất là
không làm cho Tồng Thống Thiệu tin tưởng thiện chí của Hoa Kỳ. Dù Kissinger dấu
nhẹm mọi tin tức về tiến trình đàm phán, tình báo của Tổng Thống Thiệu cũng tìm
ra được nội dung các điều kiện, nhất là Kissinger cũng sẽ không thương thảo với
Tổng Thống Thiệu, mà chỉ với MTGPMN; chỉ với lý do này cũng đủ làm cho Tổng
Thống Thiệu từ chối ký kết hoà ước.
Tình thế khó
khăn hơn, nhưng Kissinger vẫn hy vọng tìm ra một thoả hiệp. Ngày 19 tháng 7 năm
1972 ông gặp lại Lê Đức Thọ để thương thuyết. Đến ngày ngày 31 tháng 10 là ngày
trước ngày bầu cử Tổng Thông một tuần, ông tuyên bố: “Hoà bình đang ở trong tầm
tay“ (“Peace is at hand”). Đây là một kết luận vội
vàng gây nhiều hậu quả tai hại, trong khi ông không tham khảo ý kiến của Tổng
Thống Thiệu cũng như Nixon. Nixon thú nhận là những lo âu của Tổng Thống Thiệu
là hợp lý và nếu ông thắng cử thì cơ hội cho một hoà ước thuận lợi hơn.
Kissinger cũng không thể lưòng được là 61% dân chúng ủng hộ Nixon thằng cử,
MacGovern thua đậm là một thành tích hiếm thấy cho Nixon.
Sau khi thắng
cử vào ngày 7 tháng 11 năm 1972, Nixon bày tỏ thiện chí ủng hộ miền Nam. Ngay
sau cuộc hành quân Enhence Plus, ông quyết
định trao cho miền Nam một số lượng vũ khí quan trọng. Đáng kể nhất trong đợt
viện trợ này là 600 máy bay, trong đó hơn 200 phản lực chiến đấu và oanh
tạc cơ, hơn 300 trực thăng, máy bay vận tải, thám thính. Tổng số máy bay
VNCH lên đến 2.075 chiếc và không lực đứng thứ 4 trên thế giới về số lượng.
Ngoài ra, trong
các mật thư với Tổng Thống Thiệu, Nixon còn cam kết là dù có ngưng bắn, ông sẽ
tiếp tục ném bom miền Bắc khi CSBV vi phạm thoả ước. Cả Nixon và Kissinger về
sau cũng không hề nhắc đến mật ước này, chỉ có Tổng Thống Thiệu gián tiếp công bố
khi lưu vong.
Muốn chứng tỏ
không bỏ rơi miền Nam, một lần nửa, Nixon kiên quyết tiếp tục ném bom Hà Nội và
Hải Phòng qua cuộc hành quân Linebacker II. Cuộc không
kích kéo dài từ 18 cho đến 29 tháng 12 năm 1972, ngoại trừ đêm Giáng Sinh. Mưa
bom này làm kinh động công luận thế giới, cả Đức Giáo Hoàng Paul VI cũng lên
tiếng phản đối Nixon. Khoảng 2000 thường dân chết và 1500 bị thương, nhưng
thiệt hại các khu dân cư quá nặng nề.
Tại Paris,
Kissinger buộc Hà Nội trở lại đàm phán. Hà Nội hoảng sợ phải trở lại bàn hội
nghi; VNCH lên tinh thần hơn, tin tưởng là mật ước của Nixon sẽ tiếp tục không
kích miền Bắc là khả thi và cũng đồng ý thương thuyết. Cuối cùng, Hiệp Định
Chấm dứt Chiến tranh và Vãn hồi Hoà bình được ký vào ngày 27 tháng giêng năm
1973 với bốn bên là CSBV, VNCH, MTGPMN và Hoa Kỳ.
Các điểm chính
trong Hiệp Định Paris là ngưng mọi cuộc giao tranh, Hoa Kỳ rút quân trong vòng
60 ngày ra khỏi Việt Nam; QĐNDVN được ở lại miền Nam; bù lại Hà Nội trao trả
các tù binh Hoa Kỳ. UBQGHGHHDT sẽ làm việc trong khi VNCH và MTGPMN cùng hoạt
động trên lãnh thổ của mình. Khu phi quân sự là một lằn ranh tạm thời và không
được quốc tế công nhận theo luật quốc tế. Trong một mật ước với Hà Nội, Nixon
hứa sẽ viện trợ tái thiết cho CSBV và sẽ không hành quân trên lãnh thổ Lào và
Campuchia.
Hiêp Định Paris
không phải là một thoả hiệp giữa hai phe thắng và thua, nhưng CSBV và
MTGPMN có ba thắng lợi thuộc loại bất chiến tư nhiên thành: một là toàn bộ binh
sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận sự hiện diện của 140.000 quân
chính quy QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ ”ma” MTGPMN; ba là quy chế khu phi
quân sự sẽ không đuợc luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can thiệp khi vi
phạm.
Dù VNCH kiểm
soát trên 50% dân chúng và 75% lãnh thổ, nhưng là một thất bại nặng nề khi ký kết,
vì không có tiếng nói chính thức trong hội nghị. Hai mục tiêu chính của VNCH là
duy trì binh sĩ Hoa Kỳ để tiếp tục hỗ trợ QLVNCH chiến đấu và phải trục xuất
binh sĩ CSBV ra khỏi miền Nam đều không có kết quả.
Thắng lợi cho
Hoa kỳ là mang binh sĩ hồi hương, một lối thoát danh dự, một thành quả của
Nixon mà Kennedy và Johnson không đạt được. Nixon còn buộc Hà Nội phải công
nhận chính phủ VNCH là một thực thể chính trị để đối thoại, làm cho CSBV phải
từ bỏ yêu sách là một chính phủ liên hiệp không có chính quyền Thiệu tham gia.
Nixon ý thức về khó khăn của việc thực hiện Hiệp Định Paris vì QĐNDVN còn đóng
tại miền Nam và việc tiếp tục ném bom miền Bắc trong tương lai là khó khả thi.
Khi cải thiện
bang giao với hai nước Nga-Hoa, Nixon và Kissinger đem lại ưu thế cho Hoa kỳ;
vì mở rộng vị thế siêu cường, nên các áp lực quốc tế và quốc nội trong cách
giải quyết vấn đề Việt Nam giảm đi.
Nixon vẫn còn
lo âu về mật ước với Tổng Thống Thiệu. Kissinger, vốn dĩ không dành thiện cảm
cho VNCH, nên cảm thấy nhẹ nhàng hơn và không quan tâm đến vận mệnh tương lai
của miền Nam. Ông tiên đoán sẽ có một khoảng cách thích hợp cho việc đình chiến
và sự sụp đổ của miền Nam. Khi đuợc hỏi miền Nam sẽ còn sống được bao lâu sau
ngày ngưng bắn, ông trả lời: ”Nếu có may mắn chế độ Sài Gòn chỉ
sống sót được trong vòng một năm rưởi.”
Quốc Hội và
Watergate
Sau khi người
lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam và Hà Nội trao trả 580 tù binh thì chính giới
Hoa Kỳ không còn lý do để ủng hộ cho VNCH. Dù có nhiều tin tức về vi phạm Hiệp
Định Paris nhưng công luận không còn quan tâm. Hai khái niệm chính yếu cho Hoa
Kỳ trong gia đoạn này là Hoà Bình và Danh dự.
Cuối tháng 7
năm 1973 Quốc Hội tìm cách hủy bỏ các quân viện cho chiến trường Đông
Dương. Nixon phủ quyết quyết định của Quốc Hội, tình hình căng thẳng và không
một thoả hiệp nào đạt được. Ngày 15 tháng 8 năm 1973 các cuộc ném bom trong
phạm vi biên giới Campuchia dọc theo Nam Việt Nam kết thúc. Hoa Kỳ đã ném tổng
cộng hơn 250.000 tấn bom xuống khu vực này, nhiều hơn số lượng bom trong Thế
chiến thứ Hai, làm cho khoảng 7 triệu dân Campuchia phải chạy tỵ nạn.
Quốc Hội tìm
mọi cách gây ảnh hưởng ngăn chận trong mọi tiến trình quyết định của Tổng
Thống. Tháng 11 năm 1973 Quốc Hội biểu quyết luật War
Power Act, quy định trường hợp can thiệp quân sự trong các xung đột
quốc tế; Tổng Thống có quyền điều quân ra nước ngoài trong thời hạn 60 ngày;
nếu Quốc hội không cho phép can thiệp, thì trong vỏng 30 ngày sau đó Tổng Thống
phải rút quân. Do đó, thẩm quyền can thiệp quân sự của Tổng Thống trong tương
lai bị hạn chế.
Biến động
Watergate làm cho Nixon hoàn toàn bất lực. Thông tin sai lạc và lạm quyền Tổng
Thống quá mức lần lượt bị báo chí phơi bày, nên không còn được tín nhiệm Nixon;
Tối Cao Pháp Viện đồng thanh quyết định Nixon phải trao các băng ghi âm các
buổi nói chuyện tại văn phòng Bầu dục cho Uỷ viên Điều tra là Jaworski; Uỷ Ban
Tư pháp của Hạ Viện truy tố Nixon vi phạm ba tội hình sự; toàn thể Hạ Viện và
Thượng Viện đồng thanh chấp thuận tiến hành thủ tục huyền chức (Impeachment)
Tổng Thống, một vụ việc chưa có tiền lệ.
Để tránh khỏi
thủ tục này, ngày 2 tháng 8 Nixon tuyên bố từ chức và không nhận tội. Người kế
nhiệm là Gerald Ford. Ông tuyên bố kế tục chính sách ngoại giao của Nixon và
Kissinger vẫn nắm chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia đến cuối tháng 11 năm 1975.
Trong thời gian này, các mật ước của Nixon hỗ trợ Tổng Thống Thiệu không ai
biết tới, nhưng bất ổn xã hội tại miền Nam càng thể hiện trầm trọng hơn.
Bất ổn xã
hội
Sau khi Hiệp
Định Paris ký kết, cả hai phe Nam Bắc liên tục cáo giác nhau về các vi phạm
ngưng bắn, cùng ngăn trở hoạt động của UBHG và gia tăng phương tiện kiểm soát
lãnh thổ và dân chúng. Trong chiến dịch này QLVNCH chiếm lại được hơn 1000 làng
xã. Thành quả này cũng là một thách thức mới vì QLVNCH còn phải đảm nhiệm thêm
các công tác hành chánh địa phương và bình định nông thôn, vượt quá khả năng bảo
vệ.
Quân số QLVNCH
lên đến tên 1,1 triệu trong khi quân số của CSBV và MTGPMN có khoảng 300.000.
Ưu thế quân số không tạo thắng lợi hơn cho VNCH vì 2/3 Quân lực phải lo cho
việc kiểm soát lãnh thổ, trong khi đối phương chỉ cần có 10% lo chuyện phòng
thủ.
Hà Nội kiên
quyết kết thúc chiến tranh bằng chiến thắng quân sự. Để chuẩn bị cho đột tấn
công mới, CSBV tập trung kiện toàn đường mòn Hồ Chí Minh; nhờ việc tiếp vận từ
biên giới Hoa-Việt đến biên giới Miên-Việt hoàn chỉnh, nên chuyển chở vũ khí,
nguyên liệu và quân dụng nhanh hơn. Trong năm 1974 CSBV tăng cường hoạt động
trong các tỉnh thuộc khu phi quân sự và các tỉnh cao nguyên trong khi MTGPMN
chiếm gần phân nửa vùng châu thổ sông Cửu Long.
Tình hình kinh
tế của Miền Nam suy sụp trầm trọng. Viện trợ cắt giảm, khu vực cung ứng dịch vụ
cho Quân đội Đồng minh không còn, làm mất đi gần 300.000 công việc và tỷ lệ
thất nghiệp lên đến 40%. Đời sống công chức và binh sĩ gặp khó khăn khi giá
lương thực tăng. Thực phẩm khan hiếm khi chánh phủ VNCH kiểm soát thị trường
luá gạo và MTGPMN tìm cách bóp nghẹt các trục vận chuyển.
Quốc Hội chấp
thuận viện trợ 700 triệu cho VNCH trong tài khoá năm 1975, sau khi trừ chi phí
vận chuyển chỉ còn lại 300; hậu quả là QLVNCH không thể trang trải mọi quân
phí. Chiến lược của QLVNCH là theo kiểu Mỹ, nên cực kỳ tốn kém, sử dụng số
lượng vũ khi 17 lần hơn đối phương trong năm 1973, và 12 lần hơn trong năm
1974. Giảm quân viện làm tiêu hao tiềm năng chiến đấu và nhất là khi lương quân
nhân không đủ sống. Ảnh hưởng này làm cho tỷ lệ đào ngũ lên cao, 240.000 người
trong năm 1974, một kỷ lục chưa từng có.
Tình hình kinh
tế càng khó khăn khiến cho dân thành phố, thành phần trí thức, kể giới làm giàu
nhờ chiến tranh tỏ ra chống đối Tổng Thống Thiệu qua chương trình chống tham
nhũng. Giới hữu sản bắt đầu chuyển tiền của và tìm cách định cư nước ngoài. Một
niềm tin còn lại dành cho tất cả mọi người là: “Mỹ
không thể bỏ Việt Nam“, nhưng càng ngày càng mơ hồ hơn vì thiếu cơ
sở luận chứng.
Tất cả mọi
người dân đều mong muốn có sự thay đổi phù hợp cho miền Nam, nhưng không ai có
khả năng để thích nghi khi CSBV khởi động chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
Chiến dịch Hồ
Chí Minh 1975
Hoa Kỳ rút quân
và Nixon từ chức sau vụ Watergate là hai món quà vô giá dành cho CSBV. Gerald
Ford không đủ tư thế và cũng không chống Cộng cuồng nhiệt như Nixon. Không còn
cần Hiệp Định Paris, Hà Nội quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh vào ngày 18
tháng 12 năm 1974 để tiến chiếm miền Nam.
Tháng 12 năm
1974, CS tấn công Đồng Xoài, Phước Long, tháng 3 năm 1975 tấn công Ban Mê
Thuột. Tổng thống Thiệu quyết định bỏ ngỏ cao nguyên để cũng cố lực lượng cho
vùng duyên hải và miền Tây. Quân đội triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum gây hỗn
loạn và nhiều người chết. Vì không còn ai lãnh đạo nên dân chúng và binh
sĩ chạy thoát thân trên các “đại lộ kinh hoàng“ để lánh nạn nơi vùng duyên hải.
Các trạm giao thông tắc nghẻn, quân nhu và vũ khí đều bỏ lại trên đường tháo
chạy. 25 tháng 3 CSBV chiếm Huế và sau đó 30 tháng 3 Đà Nẳng thất thủ.
Ngày 4 tháng 4
Tướng Frederick Weygand, Tham mưu Trưởng Liên quân, còn đề nghị Gerald Ford nên
tăng viện cho Việt Nam 722 triệu. Gerald Ford bác bỏ vì không thể tìm sự đồng
thuận của Quốc Hội. Ngày 23 tháng 4 năm 1975 trước các sinh viên Đại học
Tulane, New Orleans, đang hân hoan về tình hình thay đổi tại Việt Nam, Gerald
Ford tuyên bố là: “Chiến tranh Việt Nam đã qua đi trong mối quan hệ với Hoa Kỳ”
(The
war is over as far as American is concerned). Hoa Kỳ đã học hỏi
những sai lầm của mình; nhưng loại sai lầm nào thì ông không kể tới.
Thắng thế, Hà
Nội quyết định tấn công Sài gòn và các tỉnh miền Tây. Ngày 21 tháng 4 Tổng
Thống Thiệu trao quyền cho tướng Dương Văn Minh và lưu vong sang Đài Loan. Hy
vọng cuối cùng cho người dân miền Nam là Tướng Minh sẽ có một cơ hội đối thoại
với MTGPMN. Vì tương quan lực lượng không còn nửa nên Hà Nội quyết định không
đối thoại và ngày 30 tháng 4 tiến chiếm Sài gòn. Ngày 1 tháng 5 tướng Minh
tuyên bố đầu
hàng.
Tình hình
chuyển biến quá nhanh ngoài sự dự liệu của Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin. Ông bối
rối trong việc tổ chức di tản cho 9000 nhân viên người Mỹ và khoảng 150.000
người Việt. Khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi Toà Đại Sứ, trang sử mới
cho Việt Nam bắt
đầu.
Ai thắng? Ai
thua? Tại sao?
Tại sao Hoa Kỳ
thua?
Hoa Kỳ thua vì
phải trả 167 tỷ Đô la, kinh phí tổng cộng cho chiến cuộc và 58.000 binh sĩ hy
sinh. Về đối ngoại, uy tín của Hoa Kỳ như một siêu cường không còn. Hậu quả là
phong trào chống Mỹ tại châu Âu, vổn dĩ đã có sẳn, nay lên cực điểm; các nước
chậm tiến không còn tin tưởng việc kết ước liên minh quân sự với Mỹ, mà ngược
lại, xem là một tai hoạ. Về đối nội, chiến tranh đã đem lại một vết thương tinh
thần, không phải chỉ riêng với các cựu chiến binh mà toàn dân tộc. Các giá trị
cao cả mà người Hoa Kỳ đề cao và theo đuổi trước đây, nay được đặt lại nghiêm
túc hơn để tìm một hướng đi mới làm hồi sinh dân tộc.
Các cuộc thảo
luận tại Hoa Kỳ về cuộc chiến hầu hết tập trung vào khiá cạnh quân sự. Họ nêu
lên ba luận điểm chính trong ba thời kỳ khác nhau và đi đến kết luận là Hoa Kỳ
đã có nhiều cơ hội để thắng CSBV mà Hoa Kỳ không nhận ra hoặc không theo đến
cùng.
Một là khái niệm Counterinsurgency
của Kennedy là một sách lược chống Cộng đúng đắn cho Việt Nam mà kinh nghiệm
tại Mã Lai đã chứng minh thành công. Lý do hỗ trợ cho quan điểm này là thoạt
đầu chính phủ Ngô Đinh Diệm được hai thành phần nông dân miền Nam và người Bắc
di cư ủng hộ. Chính quyền có hiệu năng trong việc xây dựng đất nước, kết hợp
các giáo phái và giải quyết xung đột điạ phương là thí dụ điển hình. Kinh tế trên
đà phát triển trong một xã hội đang chuyển mình khi MTGPMN chưa có lý do để
tuyên truyền là Mỹ xâm lược hay bom Mỹ phá hoại xóm làng. Chính sách gia đình
trị cũng như kỳ thị tôn giáo của Tổng Thống Diệm chưa thành hình.
Kennedy không
quan tâm kết hợp các thành quả xây dựng của VNCH trong công cuộc đấu tranh toàn
diện, kể cả bằng quân sự để tiêu diệt CS còn trong thời kỳ phôi thai, mà chỉ
gởi các cố vần quân sự là không đủ mạnh. Trở ngại chính một phần là do phản ứng
đầy tự ái dân tộc của Tổng Thống Diệm, một phần do thiếu kiên quyết của Kennedy
gây áp lực. Tổng Thống Diệm thực thi Quốc sách Ấp Chiến Lược có nhiều sai lầm,
gây bất mãn cho nông dân và MTGPMN bắt đầu có cơ hội phát triển cơ sở.
Hai là Johnson quyết định leo thang chiến tranh,
nhưng ông lại áp dụng trong phạm vi giới hạn. Dị biệt quan điểm giữa các cố vấn
dân sự và quân sự về sách lược đấu tranh làm cho Johnson thiếu kiên quyết. Ông
chủ trương không gài mìn hải cảng Hải Phòng sợ làm chìm tầu Nga, luôn lo sợ là Hoa
Kỳ có thể bị Trung Quốc và Nga trả đuả; sai lầm nhất của ông là không theo đánh
đuổi VC qua bên kia biên giới cuả Campuchia và Lào, vì sẽ mở rộng cuộc chiến.
Các biện pháp này Nixon thấy là đúng đắn và thực hiện về sau.
Giới chức quân
sự tin là nếu Johnson oanh tạc các trục tiếp vận và phong toả các hải cảng miền
Bắc mạnh hơn và tiến hành Việt Nam Hoá chiến tranh ở miền Nam vào cuối 1966, đó
là cơ hội thích hợp nhất để thắng CSBV. Ngược lại, Johnson-McNamara cho là
chiến thắng quân sự không là một giải pháp tối ưu như quan niệm cổ điển, mà
nghĩ là xây dựng dân chủ miền Nam và không phá hủy miền Bắc là chính. Mục đích
oanh tạc và đánh phá các căn cứ hậu cần để giảm mức độ xâm nhập của CSBV.
Năm 1967, mặc
dù thực hiện chiến dịch Rolling Thunder và tăng
quân lên 425.000 nhưng CSBV không chịu đàm phán, nên không có triển vọng kết
thúc chiến tranh.
Sự hiện diện
binh sĩ Hoa Kỳ tại miền Nam và các đợt không kích tại miền Bắc giúp cho CSBV có
lập luận mạnh hơn để thu phục nhân tâm tại nông thôn cũng như các trí thức cảnh
tả phương Tây về việc Hoa Kỳ xâm lăng VN, làm cho đấu tranh ngoại vận của Hoa
Kỳ và VNCH thêm khó khăn.
Ba là thành quả cuộc không kích Linebacker
II của Nixon, đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Tại sao Nixon không kéo
dài oanh tạc trước sự nguy cơ sụp đổ của CSBV? Chiến thắng gần kề mà Nixon lại
tạo cho CSBV cơ hội đàm phán và mua thời gian là sai lầm. Có quá nhiều cách
giải thích về chuyện ngưng không tập này.
Dư luận thế
giới kết án Hoa Kỳ nặng nề về mặt đạo đức và kêu gọi ngưng oanh tạc. Đó không
phải là lý do chính mà Hoa Kỳ không tiếp tục không kích, mà là vì đã đạt được
các mục tiêu. Oanh tac và phong toả hải cảng thành công làm cho các lực lưọng
phòng không BV phải thôi hoạt động.
Một lập luận
khác cho rằng CSBV thắng lớn; làm Không Quân Hoa Kỳ thiệt hại nặng nề, nên
không thể tiếp tục. Thực ra, chỉ có 15 B-52 và 12 phi cơ chiến đấu bị bắn hạ.
Một lập luận khó thuyết phục.
Một nguồn tin
khác cho là CSBV đầu hàng sau cuộc oanh tạc này. Ten Gunderson, một nhân viên
FBI tiết lộ tin này và xác quyết là CIA nhẹm tin và đổi các nhân viên phụ trách
sang các nhiệm sở khác. Theo ông, lý do của CIA là Hoa Kỳ đang trong tiến trình
thương thuyết với Bắc kinh, kết quả ngoại giao với Bắc Kinh quan trong hơn là
chiến thắng quân sự với Hà Nội. Nguồn tin này khó kiểm chứng và vẫn còn nghi
ngờ.
Dù theo lối
giải thích nào, thì Nixon cũng tỏ ra kiên quyết chống Cộng và có nỗ lực cuối
cùng tạo chiến thắng cho Hoa Kỳ và VNCH.
Ba lập luận này
khó thuyết phục vì mang giá trị cảnh báo hoặc giải thích một sự kiện đã rồi.
Tại sao Kennedy không tiến hành chiến dịch Bình Đinh Nông Thôn và hành quân bộ
binh ngay lừ lúc đầu mà Johnson đã phải làm về sau? Tại sao Johnson không tấn
công sang Campuchia và Lào như Nixon? Tại sao Johnson và Nixon luôn lo sợ Trung
Quốc và Nga Xô trực tiếp can thiệp? Một kịch bản đã không xảy ra. Tìm các bằng
chứng cho các lập luận này là bất khả.
Vấn đề có thể
sáng tỏ hơn nếu tìm hiểu tại sao dân tộc Việt Nam và VNCH thua và CSBV thắng.
Tại sao VNCH
thua?
Việt Nam Hoá
chiến tranh đòi hỏi điều kiện đầu tiên là miền Nam phải có một chính
quyền ổn định mọi mặt, nhưng tất cả còn đang trong thời xây dựng ban đầu. Chính
trị Việt Nam bất ổn liên tục và tình trạng tiến thoái lưỡng nan của chương
trình Việt Nam Hoá là hai nghịch lý song hành: VNCH sẽ còn nắm quyền cho đến
khi nào còn được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng khi VNCH còn tiếp tục nắm quyền thì chương
trình Việt Nam Hoá sẽ thất bại.
Ngoài vấn đề an
ninh, những vấn đề cấu trúc cơ bản của xã hội miền Nam vẫn chưa giải quyết, đặc
biệt nhất là khiá cạnh chính danh cho chế độ. Tổng Thống Thiệu thắng cử độc
diễn năm 1971 với 90% số phiếu ủng hộ, nên không tạo uy tín lãnh đạo. Bộ máy
hành chánh, cơ cấu quân đội và hệ thống kinh tế chưa tạo ra được một ý thức về
quyền lợi quốc gia đủ mạnh.
Tinh thần của đa số dân chúng là quá mệt mỏi vì
chiến tranh và không quan tâm đến chính sự. Nhưng trầm trọng nhất là vấn đề
tham nhũng, đa số mong biến thành quyền lợi cá nhân và gia đình khi đóng góp
cho chế độ. Khi Việt Nam Hoá chiến tranh cũng có nghiã là dân thành phố không
còn tiếp tục làm giàu qua cơ chế viện trợ Mỹ; tinh thần ủng hộ cho chính quyền
cũng suy giảm theo
Khả năng và bản
lĩnh của chính giới miền Nam là khía cạnh quan trọng nhất. Đa số là được Pháp
đào tạo qua hai lĩnh vực quân đội hay hành chánh, nay họ tiếp tục hành sự trong
tinh thần lệ thuộc viện trợ Mỹ, nên không thể suy nghĩ độc lập và đủ bản
lĩnh tìm một lối đi tương kế tựu kế cho đất nước trong gọng kiềm của lịch sử.
Thiểu số liêm chính, có khả năng, tinh thần quốc gia và kiên cường thì không
được chế độ trọng dụng, nhất là có cơ hội hợp tác với Mỹ. Cùng một hoàn cảnh
đất nước bị chia cắt mà các chính khách của Tây Đức và Nam Hàn đem lại một số
thí dụ khác biệt. Tinh thần chiến đấu của QLVNCH sẽ ra sao khi được tiếp tục
quân viện đầy đủ, hoặc không bị lãnh đạo bỏ chạy, vấn đề đến nay còn gây nhiều
tranh cải. Nhưng tấm gương bất khuất và hào hùng của các tướng lãnh và chiến sĩ
luôn được hậu thế tri ân nhân ngày 30 tháng 4.
Tại sao CSBV
thắng?
Bất ổn nội tình
và truyền thông hỗn loạn của Hoa Kỳ là các lý giải chính.
CSBV thua nặng
trong chiến cuộc Mậu Thân nhưng truyền thông Hoa Kỳ lầm lạc khi đề cao khả năng
chiến đấu. Qua màn ảnh truyền hình người dân nghĩ rằng nguy cơ cho miền Nam đã
đến khi Công quân vào tận đến Toà Đại Sứ Hoa Kỳ và các thành phố lớn. Phạm vi
hành động của Nixon càng thu hẹp khi phải đề ra kế hoạch tuần tự rút quân để
thu phục cảm tình của giới phản chiến.
Thắng lợi trong việc cảị thiện bang giao
Nga – Hoa làm cho các lo sợ của Hoa Kỳ phải trực tiếp đối đầu không còn. Áp lực
quốc tế giảm đã đem lại một suy nghĩ mới: Thuyết Domino không còn có giá trị
thuyết phục cho Hoa Kỳ phải tiếp tục kết ước tại Việt Nam và Đông Nam Á. Cuối
cùng, hậu quả của Watergate là một bất hạnh cho định mệnh chính trị của Nixon,
nhưng là một đại bất hạnh cho sinh mệnh toàn dân miền Nam.
Sách lược đấu
tranh và nội tình của CSBV cũng mang lại các lý giải khác.
Ý chí xâm chiếm
miền Nam là động cơ duy nhất. So với các nước cùng cảnh ngộ như Đông Đức và Bắc
Hàn, hai nước này không tiến hành đấu tranh giải phóng Tây Đức và Nam Hàn đang
bị Hoa Kỳ kiềm kẹp.
Đối với dư luận
quốc tế, CSBV đánh Đế quốc Mỹ cho đến xương máu của người Việt Nam cuối cùng
thay cho Trung Quốc và Liên Xô, đó là một lý tưởng cao cả như đến nay mà họ còn
hãnh diện. Chính sách đu dây ngoại giao của CSBV trong tình huống xung đột Nga
– Hoa là một thành công đặc biệt; không có nguồn lực này, chiến thắng của CSBV
là chuyện không tưởng. Điểm đặc biệt là, dù lệ thuộc nặng nề về viện trợ vũ khí
của khối CS, nhưng CSBV lại hoàn toàn hành sử độc lập trong mọi lĩnh vực hoạt
động tác chiến, không như VNCH bị lệ thuộc vào mọi sự chỉ đạo cụ thể của Hoa Kỳ.
Đối với đồng
bào, CSVN dùng chiêu bài giải phóng dân tộc qua lý tưởng đấu tranh cách mạng,
chống bạo quyền miền Nam và giặc Mỹ xâm lăng. Họ không có các lập luận kinh
điển nhằm bảo vệ công nhân bị bóc lột trong một xã hội công nghiệp, mà sách
động quần chúng kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự như là một chiến lược
chung, đôi khi qua các liên hệ với thân nhân, đó cũng là một cách ràng buộc để
làm cho người dân đi theo CS. Kết hợp uyển chuyển này làm cho CSBV thành công
trong mặt trận tình báo và nội tuyến.
Đối với Đảng
viên, nghệ thuật lãnh đạo của Đảng là đồng hoá vận mệnh của ĐCSVN, dân tộc, cá
nhân, gia đình, tập thể và xã hội, tất cà hoà nhập trong một lý tưởng đấu tranh
chung; nên tất cả phải tuân phục kỷ luật và có tinh thần hy sinh; mà cao cả
nhất là được hy sinh cho Đảng và tổ quốc, vì đó là hạnh phúc của con người. Kết
quả của sự tuyên truyền này là 1 triệu 1 thanh niên miền Bắc nằm xuống, 300.000
mất tích và 600.000 bị thương và thế hệ thanh niên miền Bắc cho chiến dịch 1975
là thế hệ cuối cùng.
Cơ chế lãnh đạo
của ĐCSVN chặt chẽ nên tạo ra một hình ảnh chung là đoàn kết, nghiêm mật và
kiên cường. Hồ Chí Minh được thần thánh hoá là hình ảnh cao đẹp của vị cha già
dân tộc; sách vở phương Tây cũng phụ hoạ theo lập luận này khi so chiếu với Bảo
Đại và Ngô Đình Diệm. Ngày nay, vô số tư liệu cho thấy nội bộ của ĐCSVN thanh
toán nhau đẩm máu để tranh giành quyền lực, nên chuyện hèn với giặc và ác với
dân không còn gây ngạc nhiên. Thần tượng sụp đổ khi đời tư và công của Bác Hồ
được phơi bày. Bác Hồ nào đã chết trong quên lãng vào năm 1932 và còn Bác Hồ
nào còn được tiếp tục sùng bái trong lăng Ba Đình, các sử gia thiếu can đảm làm
sang tỏ.
Tại sao dân tộc
Việt Nam thua?
Toàn dân phải
trả một cái giá quá mắc cho chiến thắng của ĐCSVN là vì có khoảng hơn 1,5 triệu
cho đến 2 triệu người chết và 300.000 người mất tích.
Người dân Miền
Bắc thua mà không biết, vì lý tưởng cao đẹp bị lừa dối. Đau xót nhất là những
người nằm xuống, không còn có cơ hội biết đưọc sự thật về ý nghiã của cuộc
chiến tranh giải phóng.
Người dân miền
Nam biết mà vẫn thua, vì không tránh khỏi các biện pháp tiến nhanh, tiến mạnh
lên XHCN; nông dân thua vì bị tập thể hoá nông nghiệp; doanh nhân thua vì bị
cải tạo tư sản; dân thành phố thua vì phải đi xây khu kinh tế mới; trí thức
thua vì chiến dịch bài trừ văn hoá Mỹ Ngụy; thảm kịch học tập cải tạo và thuyền
nhân là hai thí dụ bi thương của phe thua cuộc.
Binh sĩ thua vì
là nạn nhân của một chính sách sai lầm và còn chịu thêm hai cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam và Trung Việt; người nằm xuống không được tưởng niệm và người
còn sống không được ghi công.
Thế hệ hậu
chiến thua vì không có kiến thức về lịch sử đấu tranh của dân tộc, sách về
chiến tranh chống Mỹ bị bóp méo và chiến tranh Trung Việt ghi lại có 11 dòng để
truyền lại cho hậu thế. Đa số không được học tập các giá trị dân chủ, nên vô
cảm trước các chính sự trong nước và chính biến ngoài nước.
Cuối cùng,
những người thành tâm hoà giải quốc gia và hoà hợp dân tộc cũng thua, vì không
có chổ đứng trong lòng dân tộc.
Dân tộc Việt
còn thua đến bao giờ và làm gi?
Không ai biết
rõ còn bao lâu nữa và phải làm gì cụ thể để thay đổi. Có còn chăng là sự tỉnh
thức trong chúng ta. Đó là một khả năng tự soi sáng và tự quyết
định về vận mệnh của đất nước mà toàn dân Đông Âu là một thí dụ. Tỉnh thức
thân phận là vấn đề kiến thức; xác định ý muốn để thay đổi là vấn đề quyết tâm.
Nếu còn sống trong vô cảm, mang tâm trạng nô lệ tự nguyện hay còn Đảng còn mình
và chờ đợi hạnh phúc giả tạo do Đảng, Trung Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế
ban phát, thì người dân sẽ còn tiếp tục thua trong đau khổ. Không ai có phép lạ
để chuyển hoá đất nước thay cho chúng ta. Vấn đề là sự chọn lựa.
Chúng ta cùng
giúp nhau tỉnh thức trong tình tự dân tộc là một hy vọng khởi đầu: Đất nước
đang nguy cơ hơn bao giờ hết, sức mạnh của toàn dân sẽ đem lại giải pháp và
quyền dân tộc tự quyết là phương tiện. May ra một phép lạ nào đó cho đất nước
sẽ đến sau.
* Dr. Đỗ Kim Thêm: Non Governmental Advisor of International
Competition Network (ICN), Research Associate at United Nations Conference on
Trade and Development (UNCTAD). Bài viết là ý kiến cá nhân và không phải là
quan điểm của ICN và UNCTAD.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết