Nhận định:
TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI, HOA KỲ CÓ THỰC TÂM GIÚP NHÂN DÂN VIỆT
NAM CÓ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ HAY KHÔNG?
Thiện Ý.
Theo nhận định của chúng tôi
và có lẽ cũng của nhiều người, câu trả lời tổng quát cho tiêu đề trên là:
Từ quá khứ đến hiện tại nhân dân Hoa Kỳ luôn thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có
được chế độ dân chủ, nhưng các chính phủ Hoa Kỳ dù thuộc đảng Cộng Hòa hay đảng
Dân Chủ nắm quyền,đều không có thực thực tâm. Vì sao?
Chúng tôi sẽ lần lượt lý giải:
- Từ quá khứ đến hiện tại nhân
dân Hoa Kỳ thực tâm. Vì sao?
- Từ quá khứ đến hiện tại các chính phủ Hoa Kỳ thì không có
thực tâm.Vì sao?
- Kết luận.
I/- TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI NHÂN DÂN HOA KỲ THỰC TÂM. VÌ SAO?
1.- Từ quá khứ đến hiện tại nhân dân Hoa Kỳ thực tâm giúp nhân dân
Việt Nam có chế độ dân chủ.
a)- Từ quá khứ (1954-1975):Vì thực tâm nên nhân dân Hoa Kỳ, thông qua
những đại biểu của họ ở lưỡng viện Quốc Hội, đã chấp nhận để cho các chính
quyền Hoa Kỳ làm công việc giúp nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ chế độ dân
chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam . Để làm được điều này, nhân
dân Hoa Kỳ đã chấp nhận đóng thuế để viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền,
quân đội Việt Nam Cộng Hòa thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ chống lại cuộc
chiến tranh xâm lăng của nhà cầm quyền cộng sản ở Miền Bắc Việt Nam.
Trong 21 năm giúp chính
quyền và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975), nhân dân Hoa Kỳ đã phải đóng
hàng tỷ dollar tiền thuế để viện trợ mọi mặt và khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định
đem hàng trăm ngàn chiến binh Hoa Kỳ trực tiếp tham gia cuộc chiến bên cạnh các
chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa để chống lại sự gia tăng mức độ và cường độ
xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, nhân dân Hoa Kỳ như đã phải đóng thêm thuế máu
để giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ chế độ tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa và phần
đất Miền Nam tự do; với 58.000 chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh mạng sống và hàng chục
ngàn chiến binh bị thương tích, để lại một phần thân thể tại Việt Nam.
b)-
Đến hiện tại (1975-2013):
Khởi đi từ 30-4-1975, vì vẫn có thực tâm nên nhân dân Hòa Kỳ luôn có thái độ và
hành động chính trị ủng hộ công cuộc chống cộng vì tự do dân chủ cho Việt Nam
kể từ sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30-4-1975.
Trong suốt 38 năm qua,nhân dân Hoa
Kỳ đã thúc đẩy những đại biểu của họ ở lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ, với tư cách
cá nhân hay một nhóm đã lên tiếng tố cáo, lên án các hành động vi phạm tự do,
dân chủ và nhân quyền của nhà cầm quyền trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản
tại Việt Nam. Đồng thời, các nghị sĩ, dân biểu đã luôn chủ động làm các nghị
quyết hay luật bảo vệ nhân quyền cho Việt Nam và lưu ý, thúc đẩy chính phủ Hoa
Kỳ bằng mọi phương cách can thiệp hữu hiệu, với các biện pháp chế tài cụ thể
đối với các vụ vi phạm nhân quyền và phải luôn gắn liền vấn đề nhân quyền như
điều kiện tiên quyết đối với với công việc đầu tư cũng như các hiệp ước song
phương khác trên các lãnh vực hợp tác về thương mai mậu dịch, an ninh quốc
phòng, khoa học kỹ thuật…đối với nhà cầm quyền chế độ độc tài đảng trị hiện nay
tại Việt Nam.
Trên thực tế, tất cả thái độ và hành động hổ
trợ của nhân dân dân Hoa Kỳ dù trực tiếp hay gián tiếp qua những vị dân cử
lưỡng viện quốc hội, cách này hay cách khác, đã đem lại hiệu quả ít nhiều cho
công cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền của nhân dân trong nước cũng như
quốc dân Việt Nam tại hải ngoại.
Hiệu quả thấy được là nhờ sự hổ trợ, giúp đỡ
can thiệp của quốc hội, chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ mà nhà cầm quyền Việt cộng
đã phải thả nhiều nhà bất đồng chính kiến bị bắt cầm tù, diển hình như Bloger
Điều Cầy Nguyễn Văn Hải là một trong những nhà đấu tranh cho dân chủ nổi tiếng
tại Việt Nam đang bị cầm tù, vừa có tin là đã được nhà cầm quyền cho thăm nuôi
và Ông đã chấm dứt cuộc tuyệt thực hơn một tháng qua để phản đối sự bức ép và
cách đối xử tàn độc trong nhà tù Việt cộng.Gần đây là các vụ án xét xử các sinh
viên yêu nước như Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên và gần nhất là Đinh Nhật
Uy, anh trai của Đinh Nguyên Kha,Tòa án chế độ đã tuyên những bản án tương đối
nhẹ so với các vụ án có cùng tội danh trước đây gọi là Lợi dụng quyền tự do
dân chủ theo Điều 258 Bộ Luật Hình Sự của chế độ.
Công luận cho rằng,
trước áp lực của Quốc hội, nhân dân Hoa Kỳ trong đó có các cộng đồng người Mỹ
gốc Việt, có thể đây đã là một trong những đòi hỏi của Tổng thống Hòa Kỳ Barack
Obama đưa ra với Chủ tịch nước Việt cộng Trương Tấn Sang trong cuộc gặp gỡ hôm
25-7-2013 vừa qua. Người ta hy vọng kết quả sau cùng của những đòi hỏi như điều
kiện để những thỏa thuận được công bố trong bản Thông Cáo Chung Việt- Mỹ ngày
25-7-2013 được thực thi, có thể là trong nay mai nhà cầm quyền Việt cộng sẽ
phải thả Bloger Điếu Cầy và các nhà bất đồng chính kiến khác như Linh mục
Nguyễn Văn Lý, Ls Cù Huy Hà Vũ, Ls. Lê Quốc Quân, cũng như nhiều nhà đấu tranh
cho dân chủ khác đang bị cầm tù…..
Tựu chung từ quá khứ đến hiện tại,
nhân dân Hoa Kỳ luôn thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có tự do, dân chủ và nhân
quyền. Vì sao?
2.- Vì sao từ quá khứ đến hiện tại nhân dân Hoa Kỳ thực tâm giúp
nhân dân Việt Nam có chế độ dân chủ?
Vì chế độ dân chủ mà nhân dân Hoa Kỳ đã và đang được hưởng hôm nay
gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của tổ tiên họ. Chế độ dân
chủ này đã được thiết lập sau khi nhân dân Hoa Kỳ lật đổ được chế độ khai
thác thuộc địa của đế quốc Anh, giành được độc lập cách nay 237 năm
(1776-2013).Theo thời gian nhân dân Hòa Kỳ đã ngày một hoàn chỉnh chế độ dân
chủ của mình để ngày nay trở thành một quốc gia hùng mạnh có chế độ dân chủ vào
bậc nhất trên thế giới, trở thành mẫu mực cho nhiều quốc gia noi theo và là ước
mơ của nhiều dân tộc trong thời đại ngày nay.
Chính vì vậy mà nhân dân Hoa Kỳ đã cảm thông
với nhân dân các nước đã và đang sống dưới các chế độ độc tài các kiểu trong đó
có nhân dân Việt Nam mà theo dòng lịch sử từng kinh qua nhiều kiểu độc tài (quân
chủ chuyên chế, độc tài cá nhân, quân phiệt…) và hiện nay là kiểu độc tài
cộng sản (chuyên chính vô sản, độc tài đảng trị, độc tài toàn trị…). Từ
cảm thông và cùng trong thân phận người dân vốn được coi là chủ của đất nước,
nhân dân Hoa Kỳ luôn có tấm lòng mở rộng, thực tâm muốn giúp nhân dân Việt Nam
nói riêng và nhân dân các nước đã và đang phải sống dưới ách các chế độ độc tài
nói chung, làm sao có được một chế độ dân chủ thực sự như họ. Vì trong các chế
độ độc tài các chính quyền đều cướp đoạt quyền làm chủ của nhân dân, trở thành
những tập đòan thống trị, thay vì là những công bộc làm việc cho dân, ăn lương
của dân, thay mặt nhân dân quản lý và điều hành đất nước.
Chính vì vậy mà nhân dân Hoa Kỳ từ quá
khứ đến hiện tại, luôn thực tâm muốn giúp nhân dân Việt Nam có chế độ tự do dân
chủ. Vì chỉ có được chế độ dân chủ,nhân dân mới thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
của mình; để mọi người dân được sống tự do, ấm no, hạnh phúc;để các quyền dân
chủ, dân sinh, nhân quyền mới được tôn trọng, bảo vệ và hành xử.
Thế còn các chính phủ Hoa Kỳ thì sao?
II/-TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI, CÁC CHÍNH PHỦ HOA KỲ ĐÃ KHÔNG THỰC
TÂM.VÌ SAO?
1.- Từ quá khứ đến hiện tại, các chính phủ
Hoa Kỳ đã không thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có chế độ dân chủ.
a.-Từ quá khứ (1954-1975):
Vì không thực tâm, nên
các chính quyền Hoa Kỳ thuộc cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ liên tiếp nắm
quyền, trong suốt 21 năm nội chiến Quốc-Cộng tại Việt Nam, trên nguyên tắc nói
là làm công việc giúp nhân dân Việt Nam chống cộng xây dựng và bảo vệ chế độ dân
chủ Việt Nam Cộng Hòa và phần đất tự do ở Miền Nam Việt Nam như đã cam kết,
theo đúng ý muốn của nhân dân Hoa Kỳ. Thế nhưng trên thực tế các chính quyền ấy
đã hành động trái ngược, làm hại cho nỗ lực xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ
Việt Nam Cộng Hòa của nhân dân Việt Nam và cuối cùng chủ động góp phần làm mất
luôn chế độ dân chủ pháp trị ấy trên miền đất tự do Nam Việt Nam vào tay chế độ
độc tài toàn trị cộng sản Bắc Việt.
Thật vậy, trong quá khứ, nếu
thực tâm muốn giúp nhân dân Việt Nam có tự do dân chủ trên một nửa nước ở Miền
Nam trước đây, các chính phủ Hoa Kỳ phải giúp chính phủ và nhân dân Việt Nam
Cộng Hòa hoàn thành ba mục tiêu chiến lược sau đây:
* Một là giúp nhân dân Miền Nam xây dựng thành công chế độ dân chủ
pháp trị Việt Nam Cộng Hòa, trong tư thế một quốc gia độc lập, có chủ quyền, ít
ra phải tồn tại cho đến hôm nay ở Miền Nam Việt Nam.
* Hai là giúp tổ chức quốc phòng và huấn luyện, trang bị vũ khí cho
quân đội VNCH thừa sức đánh bại cuộc xâm lăng quân sự của cộng sản Bắc Việt để bảo
vệ sự tồn vững,ngày một hoàn chỉnh chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng
Hòa.
*Ba là giúp Việt Nam Cộng Hòa phát triển toàn diện về kinh tế, khoa
học kỹ thuật, xã hội, văn hóa …đến giầu mạnh, tiến đến tự túc, tự cường.
Thế nhưng, trên thực tế trong quá khứ, vì không có thực tâm
nên cả ba mục tiêu chiến lược trên của VNCH đã không được các chính quyền Hoa
Kỳ giúp thực hiện, điều mà Hoa Kỳ có thể làm được, nhưng đã không làm, vì các
mục tiêu chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ khác với Việt Nam Cộng Hòa.
Trên thực tế, các chính phủ Hoa Kỳ bề ngoài thì
tỏ ra tích cực hổ trợ cho sự hình thành chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH).Thế nhưng bên trong chính quyền Hoa Kỳ lại ngầm hổ trợ, nuôi dưỡng các
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (Đệ I và Đệ II VNCH) phát triển theo chiều hướng
chế độ độc tài. Dường như Hoa Kỳ chỉ muốn tạo ra những chính quyền công cụ để
dễ lèo lái thực hiện sách lược chống cộng của mình, hơn là một chính quyền tự
chủ của một quốc gia độc lập trong một chế độ dân chủ thực sự, chủ động thực
hiện sách lược chống cộng riêng để thắng cộng.
Vì vậy sau 9 năm chính quyền đầu
tiên của Việt Nam Cộng Hòa do Hoa Kỳ hổ trợ đã trở thành một chế độ độc tài
thực sự, với người đứng đầu chính quyền trong chế độ lúc đó là cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm,người đã được Mỹ hậu thuẫn đưa về nước(7-7-1954) nắm quyền
Thủ Tướng một thời gian ngắn và sau đó đã truất phế vua Bảo Đại, vị vua cuối
cùng của chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam, để thiết lập chế độ dân chủ
Việt nam Cộng Hòa và trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của chế độ này.
Thế rồi sau 9 năm cầm
quyền, vị Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhất VNCH này đã bị lật đổ và sát hại
sau một cuộc đảo chánh quân sự do chính phủ Hoa kỳ (CIA) đạo diễn, hổ trợ cho
một số tướng tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa thực hiện với lý do “Độc tài gia
đình trị” và chủ trương “kỳ thị và đàn áp Phật giáo”.
Thế nhưng sau này đối chiếu các tài liệu khách
quan nhiều nguồn đã cho thấy, mặc dầu người đứng đầu chính quyền chế độ này là
cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, dù có độc tài thật, nhưng không phải vì độc tài
hay vì “kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật giáo” (lý do ngụy tạo)
mà bị lật đổ và sát hại. Bởi vì, sau khi lật đổ chính quyền “Độc tài gia
đình trị”, chính quyền Hoa Kỳ đã lại tích cực hổ trợ hình thành và phát triển
một chính quyền theo chiều hướng “Độc tài quân phiệt”,không bị
kết tội “đàn áp Phật giáo” (dù chính quyền có mạnh tay giải tán các
cuộc biểu tình đưa bàn thờ Phật xuống đường) vẫn được Hoa Kỳ hổ trợ cho đến
khi Hoa Kỳ muốn kết thúc cuộc chiến,không muốn dính líu thêm nữa,mới tìm cách
loại trừ (ép buộc TT. Thiệu từ chức), dẹp bỏ một cản trở cho đối phương
Việt cộng dễ thanh toán chế độVNCH, với luận điệu “Còn Thiệu thì không thể
có hòa bình”.(vì chủ trương 4 không).
Vậy thì, thực tế chính quyền Ngô Đình
Diệm quả có độc tài, tìm cách tiêu diệt đối lập thật. Nhưng thực chất cũng như
thực tê không phải vì độc tài mà chính quyền Ngô Đình Diệm bị Mỹ lật đổ. Sự
thật là vì chính quyền độc tài này đã hành xử chủ quyền của một quốc gia độc
lập (VNCH), giám chống lại sự can thiệp ngày càng sâu rộng vào công việc nội bộ
Việt Nam. Bởi vì sau khi lật đổ được chế độ “Độc tài gia đình trị Ngô
Đình Diệm” Mỹ đã hổ trợ hình thành và cưu mang chế độ “độc tài
quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu” cho đến khoảng chưa đầy một tháng(5-4-1975)
trước khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30-4-1975.
Như vậy, chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu dù có “Độc tài quân phiệt” thật, dù có bị coi là “đàn áp
Phật Giáo” đi chăng nữa, nhưng vẫn tồn tại được. Vì thực tế chính quyền này
đã chấp nhận mất chủ quyền, làm công cụ cho chính quyền Mỹ như một thứ “Cai
thầu chống cộng” chỉ biết nhận viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ để thực
hiện chống cộng theo sách lược và sự chỉ đạo của Mỹ, để cho quân đội Mỹ vào
trực tiếp tham chiến… Việc làm này của chính phủ Hoa Kỳ đã làm mất chính nghĩa
đấu tranh của nhân dân, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và mất cả tính chính
đáng, chính danh và chính nghĩa của Hoa Kỳ, nói là sự can thiệp chỉ là để giúp
nhân dân Việt Nam chống cộng để bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa và cuối
cùng làm mất luôn chế độ dân chủ này.
Đúng ra nếu thực tâm, chính phủ Hoa Kỳ
phải giữ đúng cương vị một nước đồng minh, tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc
gia Việt Nam Cộng Hòa, chỉ đến giúp chính quyền và nhân dân Miền Nam thực hiện
mục tiêu chiến lược toàn diện này: xây dựng thành công một chế độ dân chủ đích thực, một nền kinh tế
phát triển đến giầu mạnh tại Miền Nam Việt Nam, đủ thế lực tự túc tự cường chủ
động đánh bại cuộc xâm lăng của cộng sản Bắc Việt, tiến tới thống nhất đất nước
một cách hòa bình, với sự ưu thắng của chế độ dân chủ giầu mạnh ở Miền Nam đối
với chế độ độc tài đảng trị nghèo yếu ở Miền Bắc Việt Nam (Như nước Đức thống nhất với sự ưu thắng của
Tây Đức dân chủ giầu mạnh đối với Đông Đức độc tài cộng sản nghèo yếu vào
năm 1989; hay như Nam Hàn dân chủ giầu có sẽ ưu thắng trên Bắc Hàn độc tài cộng
sản nghèo nàn trong tương lai…).
Tiếc rằng vì không có thực tâm giúp chính quyền và
nhân dân Việt Nam có chế độ dân chủ, nên sau khi thành đạt các mục tiêu chiến
lược chống cộng của mình (mục tiêu gì chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau),
Hoa Kỳ đã chủ động vứt bỏ không thương tiếc chính quyền “bị” xử dụng như công
cụ sau cùng của mình vào ngày 30-4-1975, dù chính quyền ấy đã chấp nhận làm
công cụ và thực hiện nhiệm vụ công cụ theo đúng ý đồ của Hoa Kỳ.( Cũng như
thực tế vì “lợi ích quốc gia”, Hoa Kỳ từng hổ trợ cho nhiều chính quyền độc tài
trên thế giới tồn tại trong nhiều thập niên cho đến khi không còn thích dụng
trong một chiến lược mới, tỷ như Ai Cập và một số nước có chế độ độc tài ở
Trung cân Động gần đây mới được Hoa Kỳ thúc đẩy cho sự đổi thay theo hướng “dân
chủ hóa”…)
Từ quá khứ là vậy, đến hiện tại thì
sao?
b)- Đến hiện tại
(1975-2013): Khởi đi từ 30-4-1975
đến nay các chính phủ Hoa Kỳ vẫn không thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có chế
độ tự do dân chủ, ít ra là cho đến lúc này.
Vì nếu có thực tâm thì một khi đã không giúp
bảo vệ được chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa, thì sau khi cộng sản
Bắc Việt dùng bạo lực cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris
ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại Hòa bình cho Việt Nam chính phủ
Hoa Kỳ phải có hành động khác hơn như:
*Đối với Việt cộng:
- Hoa Kỳ đúng ra phải bằng
mọi phương cách và hành động cương quyết đòi buộc cộng sản Bắc Việt phải thi
hành Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, nếu không Hoa Kỳ phải có biện pháp
trừng phạt hữu hiệu (như TT. Nixon đã cam kết riêng tư với TT. Thiệu cũng
như công khai với chính phủ VNCH) để các bảo đảm quốc tế cho việc thi hành
Hiệp Định Paris phải được thực thi.Thế nhưng, Hoa Kỳ đã giữ im lặng hoàn toàn.
- Hoa Kỳ đúng ra, nếu đã im
lặng,chấp nhận thực tế như chuyện đã rồi (để Việt cộng thiết lập chế độ
độc tài toàn trị cộng sản trên cả nước việt Nam) ít ra Hoa Kỳ phải vận động
quốc tế cùng duy trì “cấm vận toàn diện và triệt để” đối với Việt cộng
cho đến khi nào Việt cộng chấp nhận chuyển đổi chế độ độc tài toàn trị qua dân
chủ pháp trị (tương tự như Hoa Kỳ và cộng đồng các quốc gia dân chủ trên thế
giới đã làm cấm vận triệt để đối với chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện),
thì chắc chắn chế độ độc tài độc đảng Việt cộng đã tiêu vong từ lâu và
Việt Nam đã có chế độ dân chủ từ lâu, chắc chắn trước cả Miến.
Thế nhưng,
theo tài liệu được giải mật của Hoa Kỳ, đối chiếu với các tài liệu khách quan
nhiều nguồn sau này, thì chỉ một thời gian ngắn sau khi cộng sản Bắc Việt cưỡng
chiếm được Miền Nam vào ngày 30-4-1975, Hoa Kỳ đã tìm cách bắt tay với đối
phương Việt cộng. Tuy nhiên, vì lầm tưởng chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế
là “Chiến thắng” của phe này (Việt cộng) đối với phe kia (Việt
quốc) nên Việt cộng đã cao ngạo, đặt điều kiện tiên quyết (đòi Hoa Kỳ
bồi thường chiến tranh chẳng hạn…) nên Việt cộng đã để mất cơ hội. (Thực
ra đó chỉ là thứ “Chiến thắng biểu kiến hay giả tạo” và vì nhu cầu thay đổi thế
chiến lược quốc tế mới mà Hoa Kỳ mới để cho chiến tranh Việt Nam kết thúc- Xin
vào Web Site: luatkhoavietnam.com,
tiểu mục Tác giả-Tác phẩm” để đọc “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế
Mới” của Thiện Ý)
Thế rồi, 20 năm sau
cuộc chiến chấm dứt, Hoa Kỳ đã bãi bõ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoai giao với
nhà cầm quyền chế độ độc tài, độc đảng Việt cộng (1975-1995) vào thời điểm suy yếu
nhất, có nguy cơ sụp đổ của chế độ này. Nếu thực tâm giúp Việt Nam có chế độ
dân chủ, chính phủ Hoa Kỳ chỉ cần kéo dài “Cấm vận toàn diện, triệt để” thêm
một thời gian nữa, chế độ Việt cộng sẽ sụp đổ.
Sự thể này tương tự như
tài liệu đối chiếu sau này cho biết nếu Hoa Kỳ chỉ cần kéo dài ném bom lên đầu
cộng sản Bắc Việt thêm một thời gian rất ngắn (khoảng 1 tuần) nữa thôi,
thì Hà Nội đã phải đầu hàng vô điều kiện. Sau đó ít ra Việt cộng cũng phải rút
hết quân xâm lược về Miền Bắc, chấm dứt chiến tranh “giải phóng Miền Nam”. Như
thế chắc chắn chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa đã tồn tại và hoàn chỉnh vững
mạnh như Nam Hàn dân chủ cho đến hôm nay. Miền Nam Việt Nam sẽ phát triển toàn
diện đến giầu mạnh để chờ cơ may thống đất nước một cách hòa bình bằng sự ưu
thắng của chế độ dân chủ Miền Nam giầu có văn minh tiến bộ, đối với chế độc tài
Miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. (như Tây Đức dân chủ tư do đã ưu thắng trên
Đông Đức độc tài cộng sản, hay Nam Hàn dân chủ giầu có sẽ ưu thắng trên Bắc Hàn
độc tài nghèo đói…)
- Hoa Kỳ đối với cựu thù
Việt cộng thì như thế,
còn đối với cuộc đấu tranh chống cộng của nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước
để dân chủ hóa Việt Nam thì sao?
Nhìn lại 38 năm qua, kể từ sau khi chế độ
Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử cho đến lúc này, chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ
chính thức, công khai hay bí mật hổ trợ cho các hoạt động chống cộng của cá
nhân hay các tổ chức chống cộng ở trong nước cũng như tại Hoa Kỳ và hải ngoại.
Tại Hoa Kỳ, chính quyền chỉ thả nổi, không ngăn
cản cũng không khuyến khích các hoạt động chống cộng của các cá nhân và các tổ
chức người Mỹ gốc Việt, miễn là các hoạt động ấy phải ôn hòa, bất bạo động và
phù hợp với luật pháp Hoa Kỳ.
Trên thực tế, nhất là kể từ sau khi thiết lập
quan hệ ngọai giao với chế độ Việt cộng (1995), coi Việt cộng là đối tác làm ăn
chứ không còn là đối phương nữa, thì chính phủ Hoa Kỳ, quốc hội và một số cá
nhân các vị nghị sĩ, dân biểu vẫn thường chỉ có những hoạt động theo chiều
hướng thúc đẩy dân chủ hóa Việt Nam.
Chẳng hạn thỉnh thoảng quốc hội Hoa
Kỳ ra nghị quyết, làm luật nhân nhân quyền cho Việt Nam; chính phủ Hoa Kỳ thì
đưa Việt cộng vào danh sách các nước có tình trạng vi phạm nhân quyền cần được
quan tâm (CPC) , lúc thì lại lấy ra khi đánh giá là “Có tiến bộ, có
cải thiện” về tình trạng nhân quyền; Hoặc lên tiếng tố cáo, can thiệp vào
các vụ vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt cộng như:bắt bớ, kết án, giam
cầm các nhà bất đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa cho dân chủ và nhân quyền.
Tuy nhiên các hoạt động này chỉ
mang tính chiếu lệ, không kèm theo biện pháp chế tài nào nên hiệu quả thực tế
rất giới hạn. Việt cộng được thể cứ bắt rồi thả để tỏ “thiện chí” và để
được Hoa Kỳ và quốc tế đánh giá là “có tiến bộ, có cải thiện” về dân
chủ, nhân quyền.Việt cộng càng gia tăng cường độ và mức độ bắt, thả khi có áp
lực, càng được coi là có nhiều tiến bộ trên lãnh vực nhân quyền.Dường như Hoa
Kỳ cho đến lúc này cũng chỉ mong muốn hiệu quả như thế của chính sách ngoại
giao vốn dùng dân chủ nhân quyền như một vũ khí tấn công chế độ độc tài Việt
cộng (cũng như các chế độ độc tài khác) để tạo áp lực thành đạt lợi ích
chiến thuật giai đoạn.
Trong tương lai, chỉ có thể hy vọng khi lợi ích chiến
lược trong vùng đã đạt được, Hoa Kỳ có thể xử dụng “vũ khí dân chủ và nhân
quyền” để dứt điểm chế độ độc tài toàn trị Việt cộng, một công cụ không còn
thích dụng, để hình thành cho Việt Nam một chế độ dân chủ.Thế nhưng liệu chế độ
dân chủ này có đưa Việt Nam vào thế ổn định để phát triển hay lại đầy xáo trộn
và bất trắc như tình trạng các nước độc tài vùng Trung cận đông hiện nay sau
cuộc “Cách Mạng Hoa Nhài” khởi đi từ Tunisia chăng? Đây chính là lý cớ mà đảng
và nhà cầm quyền chế độ độc tài đảng trị hiện nay tại Việt Nam thường đưa ra để
ngụy biện cho việc ngoan cố bám lấy quyền thống trị độc tôn, độc tài của mình,
không chịu chuyển đổi qua chế độ dân chủ.
2.- Từ quá khứ đến hiện
tại, vì sao các chính phủ Hoa Kỳ đã không thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có
chế độ dân chủ?
Từ quá khứ đến hiện tại, các chính phủ
Hoa Kỳ, đều không thực tâm giúp Việt Nam ( cũng như các nước có chế độ
độc tài, phản dân chủ các kiểu) là vì, các chính phủ Hoa Kỳ dù do
đảng Cộng Hòa hay Dân chủ nắm quyền, đều nhất quán trong chủ trương và chính sách
đối ngoại (chỉ khác biệt đôi chút trong chính sách đối nội) là nhằm
thành đạt “lợi ích quốc gia Hoa Kỳ”.
Về đối ngoại sự nhất quán được thể hiện
qua việc hoạch định và thực hiện các chủ trương chính sách đối ngoại luôn
phải bảo đảm đem lại tối đa cho “Lợi ích quốc gia” mà thực chất cũng như thực
tế là đem lại lợi nhuận cao nhất, làm giầu cho các tập đoàn tư bản có thế lực (tư bản độc quyền lũng đoạn nhà nước) trong thời bình (tư bản kiến tạo, sản xuất kinh doanh, thương mại mậu dịch
cung ứng hàng hóa cạnh tranh trên thị trường…) cũng như thời chiến (tư bản quốc phòng sản xuất các khí tài quân
sự, quân trang, quân dụng cung ứng cho chiến trường…). Để thực hiện thuận lợi và có hiệu quả những chủ
trương chính sách đối ngoại nhất quán này các chính phủ Cộng Hòa hay Dân
Chủ đều phải nương theo ý muốn của nhân dân (muốn giúp nhân dân Việt Nam và các nhân dân
các nước độc tài có tự do dân chủ chẳng hạn…) , với chủ đề thích dụng theo từng thời kỳ chiến
lược toàn cầu (Tỷ như chủ đề giúp
nhân dân Việt Nam và các nước ngăn chặn, đẩy lùi các cuộc xâm lăng của cộng
sản, xây dựng và bảo vệ chế độ tự do dân chủ cho Việt Nam và các nước thuộc Thế
Giới Tự Do… trong thời Chiến tranh Ý thức hệ tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa; hay chủ đề chống khủng bố quốc tế sau biến cố 9-11-201,chống độc
tài dân chủ hóa các chế độ độc tài trong “Chiến lược Toàn Cầu Hóa” hiện
nay…. Tuy nhu cầu từng nơi, tùy
lúc, các chính phủ Hoa Kỳ đã tạo ra tính chính đáng, chính
danh và có chính nghĩa can thiệp vào nội tình các quốc gia (Tỷ như dưới danh nghĩa đồng minh giúp
chính phủ và nhân dân Miền Nam xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ
Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản Bắc Việt trong cuộc nội
chiến ý thức hệ Quốc- Cộng 1954-1975…Hay nhân danh an ninh cho Hoa Kỳ và thế
giới tấn công vào xào huyệt của tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda, giúp nhân
dân Afghanistanm đánh đổ chế độ độc tài Taliban, xây dựng chế độ tự do
dân chủ; Hoặc giúp nhân dân Lybia,Ai Cập và nhân dân các nước khác vùng
Trung Cận Đông và Bắc Phi tiêu diệt các chế độ độc tài, thiết lập
các chế độ tự do dân chủ…..).
Chính vì đã tạo ra được tính chính đáng,
chính danh và chính nghĩa, nhất là luôn nhân danh “lợi ích của quốc gia” trong
các chủ trương chính sách đối ngoại , nên các chính phủ Hoa Kỳ thường được nhân
dân hậu thuẫn thông qua các đại biểu dân cử của họ trong lưỡng viện Quốc
Hội và thuận lợi trong công luận quốc tế.
Như
thế, có thể nói riêng trong chủ trương chính sách đối ngoại chủ đề
giúp nhân dân các nước có chế độ độc tài các kiểu, trong đó có Việt Nam
được dân chủ hóa, chính thực tiễn cho thấy, từ quá khứ đến hiện tại, nhân dân
Hoa Kỳ thì thực tâm, còn các chính phủ Hoa Kỳ thì không có thực tâm.
Trước sau gì họ chỉ dùng chủ trương chính sách đối ngoại chủ đề này
như một chiêu bài để thuyết phục, lôi kéo nhân dân Hoa Kỳ chấp nhận, cung ứng
tài lực, nhân lực để chính phủ thực hiện, nhân danh và vì lợi ích quốc
gia Hoa Kỳ (trong đó có người dân Hoa Kỳ), song thực chất cũng như thực
tế chỉ vì lợi nhuận trên hết và trước hết của các tập đoàn tư bản
có thế lực khuynh đảo chính quyền (một thứ siêu quyền lực không thấy cụ thể nhưng ai cũng cảm thấy).
Bởi những chính quyền ấy, về hình thức, trên nguyên tắc pháp lý
(Hiến pháp, luật pháp) là “một
chính quyền do dân, của dân và vì dân) ( A government by the people, of the people and for
the people), nhưng về nội dung, thực
chất là “một chính quyền do tư bản, của tư bản và vì tư bản” ( A Government by the capitalist, of the
capitalist and for the capitalist). Chính cách hình thành các chính quyền ở Hoa Kỳ đã tạo ra nội dung
và thực chất này ( sẽ
có dịp đề cập trong một đề tài khác).
NHư vậy có thể nói,“Tự do, dân chủ, nhân quyền” chỉ là “diện” hay là phương tiện(The
means); “Lợi ích quốc gia” mới là “điểm”,là cứu cánh hay
cùng đích (The end, Finality, Oject).Để thành đạt được cứu cánh hay cùng
đích, các chính phủ Hoa Kỳ thường xử dụng “tư do, dân chủ, nhân quyền” như một chiêu bài nhằm thuyết phục nhân dân Hoa Kỳ, qua cơ chế
dân cử (lưỡng viện Quốc Hội) để được chuẩn chấp đi vào thực hiện. Đồng
thời dưới ngọn cờ “Tự do, dân chủ, nhân
quyền” tạo tính chính đáng,
chính danh và chính nghĩa trước công luận quốc tế để thuận lợi cho việc can
thiệp vào nội tình các quốc gia mà Hoa Kỳ muốn thành đạt “lợi ích quốc gia”.
Từ quá khứ, các
chính phủ Hoa Kỳ đều không thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có chế độ dân chủ,
vì đó chỉ là chiêu bài đối với nhân dân Hoa Kỳ, nhân dân Việt Nam và thế giới,
nhằm thành đạt “Lợi ích quốc gia Hoa Kỳ” qua chiến tranh và bằng chiến
tranh.Nghĩa là “Chế độ dân chủ” chỉ là “Diện”, “Lợi ích quốc gia
Hoa Kỳ” mới là “Điểm”.
“Lợi ích quốc gia Hoa Kỳ” trong
thời khoảng cuộc chiến tranh Việt Nam là các lợi ích chính trị, kinh tế là chủ
yếu, các lợi ích khác như văn hóa, xã hội…chỉ là thứ yếu.Vì vậy, sau khi thành
đạt các lợi ích chủ yếu trên “Chiến trường” trong chiến tranh, Hoa Kỳ đã
chủ động đưa cuộc chiến Việt Nam đi đến kết thúc, vứt bỏ chế độ dân chủ Việt
Nam Cộng Hòa không còn thích dụng, để chuẩn bị bước vào một chiến lược mới khai
thác các lợi ích chủ yếu khác trên “Thị trường” trong hòa bình, với một
công cụ chiến lược mới thích dụng hơn là Việt cộng.
Trong 18 năm qua, kể từ khi
bãi bõ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao và ngày càng mở rộng các quan hệ
đầu tư, thương mại, mậu dịch, an ninh quốc phòng và các mặt khác với “đối
tác Việt cộng”, bề ngoài Hoa Kỳ luôn ủng hộ các hoạt động đấu tranh cho dân
chủ và nhân quyền tại Việt Nam; đồng thời lên án, can thiệp vào các vụ vi phạm
dân chủ và nhân quyền của nhà cầm quyền Việt cộng.
Thế nhưng đó chỉ là “diện”, còn “điểm” vẫn
là “Lợi ích quốc gia Hoa Kỳ”. Vì lợi ích này mà các chính phủ Hoa Kỳ vẫn
chỉ dùng “dân chủ và nhân quyền” như vũ khí tấn công yếu điểm của chế độ độc tài
toàn trị Việt cộng để thành đạt các “lợi ích chiến thuật” có tính giai đoạn, chứ chưa dùng vũ khí “Dân chủ, nhân quyền” để dứt điểm chế độ này (như số phận các hế độ độc tài vùng
Trung Cân Đông). Vì vậy chỉ khi nào thành đạt các “Lợi ích chiến lược”
mang tính tối hậu, công cụ chiến lược Việt cộng không còn thích dụng, Hoa Kỳ
mới thực tâm giúp Việt Nam có chế độ dân chủ.
Tỷ như nhờ chiếm lĩnh được vị
thế lãnh thổ quan yếu Việt Nam cận kề Tầu cộng và nắm được công cụ Việt cộng
trong thế bao vây Tầu cộng, Hoa Kỳ đã kiềm chế được tham vọng độc quyền và đạt
được với Tầu cộng về sự phân chia quyền lợi khai thác ổn định tài nguyên thiên
nhiên trên đất liền hay dưới lòng biển cũng như quyền lợi phân chia trên các
thị trường các nước trong vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Nghĩa là sau khi
thành đạt “Lợi ích quốc gia” qua chiến lược “Xoay trục về Châu Á”,
Hoa Kỳ mới phá bỏ công cụ Việt cộng độc tài không còn thích dụng và mới có hành
động chứng tỏ thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có chế độ dân chủ, vốn là một
trong hai mục tiêu của “Chiến lược Toàn Cầu Hóa” của các cường quốc cực (Dân
chủ hóa và thị trường tự do hóa trên phạm vi toàn cầu)
Bây giờ thử đối chiếu với thực tế để thấy những
“Lợi ích quốc gia” đó là gì, để biết vì sao cho từ quá khứ đến hiện tại
các chính phủ Hoa Kỳ đã không thực tâm giúp nhân dân Việt Nam có chế độ dân
chủ.
a)-Từ quá khứ (1954-1975).
Trong khung cảnh
cuộc “Chiến tranh ý thức hệ tư bản chủ nghĩa và cộng cản chủ nghĩa” mang tính toàn cầu, hình thành sau Thế Chiến II, diễn ra dưới hai
hình thái “Chiến Tranh Lạnh” giữa các nước giầu và “Chiến tranh nóng”
nơi các nước nghèo, với hai cực cường đứng đầu (lưỡng cực) là Hoa Kỳ
(tư bản) và Liên Xô (cộng sản).
Qua hình thái “Chiến Tranh Lạnh”
với nội dung chủ yếu là chạy đua vũ trang, làm ra nhiều loại vũ khí mới để gián
chỉ và răn đe lẫn nhau.Đồng thời phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật theo mô
hình thể chế chính trị để chứng tỏ tính ưu việt của mô thức chính trị của mình
(xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa cái nào ưu việt hơn).
Vì vậy, trong chính sách đối ngoại,
nếu Hoa Kỳ phất cao ngọn cờ “Tự
do dân chủ nhân quyền”
để giúp Việt Nam (hay các nước có chế độ độc tài) xây dựng một “chế độ dân chủ” với một “xã hội tự do”,
thì cực cường Liên Xô phất cao ngọn cờ “Cách mạng vô sản” để xây dựng một “chế độ chuyên chính vô sản” với một “xã hội công bình” không còn cảnh “người áp bức bóc lột người”
(Xã hội chủ nghĩa còn giai cấp tiến tới xã hội cộng sản viên mãn không còn
giai cấp.(!?!).
Thế nhưng thực tế đã cho thấy cả
Liên Xô và Hoa Kỳ dều xử dụng ngọn cờ của mình như những chiêu bài nhằm lối
kéo các nước nghèo yếu đi vào quỹ đạo của mình, tạo ra các cuộc “chiến tranh nóng” để thành đạt các “lợi ích quốc
gia” của mình, ( qua các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục
bộ, tiêu thụ vũ khí, phát triển công nghiệp quân sự, quốc phòng…)
Việt Nam có số phân không may đã rơi vào
thế gọng kìm của hình thái “chiến tranh nóng”: Miền Bắc cộng sản trở
thành công cụ chiến lược tri tình (tự nguyện) của Nga-Tầu và thế giới
cộng sản; Miền Nam quốc gia trở thành công cụ chiến lược ngay tình (bị
ép buộc) của Mỹ và các cường quốc tư bản trong thế giới tự do. Cả hai Miền
Bắc và Nam Việt Nam đều được xưng tụng là “Tiền đồn” của mỗi phe, đưa
đến cuộc nội chiến Quốc-Cộng, “nồi da sáo thịt” tại Việt Nam kéo dài 21
(1954-1975)
Trong hình thái “Chiến tranh Nóng” tại Việt Nam, tựa hồ như có sự phân công “tung” hứng
thật nhịp nhàng giữa hai cực cường Mỹ- Nga đứng đầu hai phe tư bản và cộng sản
để cùng đẩy cuộc chiến tranh lên tột cùng, hầu thành đạt “lợi ích quốc
gia” cao nhất cho cả hai bên (Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa- Hoa Kỳ và phe
tu bản chủ nghĩa)
- Khởi sự cực cường Liên Xô
“ tung” bằng cách thúc đẩy cho công cụ tri tình là đảng và nhà cầm quyền
cộng sản Bắc Việt phát động cuộc “Chiến tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng Miền Nam”. Sau đó, cùng Tầu cộng và cả phe xã hội chủ nghĩa
chi viện dồi dào vũ khí, lương thực cho Việt cộng làm “Chiến tranh giải phóng” và đẩy cường độ chiến tranh ngày một lên cao.
- Đối lại cực cường Hoa Kỳ “Hứng”
bằng cách viện trợ cho công cụ ngay tình là chính quyền quốc gia Việt Nam
Cộng Hòa để thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ chống lại cuộc chiến tranh xâm
lược của cộng sản Bắc Việt, bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa và nửa nước
Miền Nam tự do.
Trước sự gia tăng cường
độ và mức độ chiến tranh ngày một lên cao, Hoa Kỳ đã tăng viện trợ kinh tế và
quân sự cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với nhịp độ theo kiểu “Nước lên,
thuyền lên”.
Chẳng hạn về trang bị các loại vũ khí cá nhân hay cộng đồng cho
các binh chủng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thường đi sau Việt cộng một bước. Tỷ
dụ lúc đầu trang bị vũ khí cá nhân cho binh sĩ Quân đội Việt Nam là súng trường
Garant hay súng liên thanh Carbin, đại liên ... tồn đọng từ Thế chiến Thứ Hai.
Sau này khi lính Việt cộng có vũ khí cá nhân tối tân hơn như AK, thì Hoa Kỳ mới
trang bị cho binh sĩ quân đội VNCH súng M.15, M.16…
Về sự gia tăng mức độ
và cường độ chiến tranh của Việt cộng dường như vẫn chưa đạt yêu cầu về tốc độ
tiêu thụ các loại vũ khí cũ tồn đọng sau thế chiến hai và các loại vũ khí mới
mà cả đôi bên muốn thử nghiệm, thế nên Hoa Kỳ đã tìm cách “Đổ thêm dầu vào
lửa” để đưa cuộc chiến tranh lên cao. Để làm được chuyện này, Hoa Kỳ đã tìm
cách loại trừ một cản trở khiến Hoa Kỳ không thể đẩy cuộc chiến tranh lên cao
hầu tiêu thụ số lượng vũ khí cao, đem lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản
đầu tư vào kỹ nghệ quân sự, quốc phòng. Đó là chính quyền Đệ nhất VNCH đứng đầu
là cố Tổng Ngô Đình Diệm, một chính quyền cứng đầu không chịu làm cộng
cụ nên phải bị loại trừ và Hoa Kỳ đã loại trừ bằng một cuộc đảo chánh quân sự
ngày 1-11-1963.
Vì chính quyền này muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia VNCH,
đã chống lại sự can thiệp ngày một sâu rộng vào công việc nội bộ VNCH, không
chịu thực hiện sách lược chống cộng của Hoa Kỳ theo sự lãnh đạo và chỉ đạo của
Mỹ. Hoa Kỳ đã loại trừ để thay thế bằng một chính quyền biết thuần phục
hơn, chấp nhận làm công cụ (Các chính quyền quân sự hay được dân sự hóa).Vì
sau khi loại bỏ được “Công cụ kỳ đà cản mũi này” Hoa kỳ đã đưa quân đội
vào trực tiếp tham chiến, lấy cớ CSBV gia tăng mức độ và cường độ xâm lăng,
Miền Nam lâm nguy, đưa cuộc chiến tranh lên dân đến đỉnh cao. Cùng với sự gia
tăng quân số có lúc lên đến nửa triệu quân, nhiều vũ khí mới được trang bị cho
quân đội, nhiều khí tài quân sự hải lục, không quân tối tân được đem vào chiến
trường; nhiều phát minh khoa học được vận dụng vào chiến tranh Việt Nam (thiết
lập hàng rào điện tử Mc Namara mang tên vị Bộ trưởng Quốc Phòng thời bấy giờ…).
Như vẫn chưa đạt mức độ tiêu thụ vũ
khí, đạn dược, khí tài quân sự theo yêu cầu của các tập đoàn tư bản dầu tư khai
thác chiến tranh, Chính phủ Hoa Kỳ đã viện cớ một tầu chiến của Hoa Kỳ (Tầu
Maxdog ?) đậu ở hải phận quốc tế trong vịnh Bắc bộ, bị tầu Việt Cộng
tấn công vào năm 1967 để mở rộng chiến tranh ra Miền Bắc, đánh
thẳng vào hậu phương của Việt cộng (Ném bom và phong tỏa các hải cảng ).
Như để trả đũa, Nga- Tầu đã hổ trợ
cho Việt cộng làm cuộc ‘Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968” đồng
loạt mở cuộc tấn công vào các thành thị Miền Nam, đã đưa số lượng tiêu thụ các
loại vũ khí cho cả đôi bên lên cao,cùng với thiệt hại nhân mạng không nhỏ cho
cả đôi bên Việt quốc cũng như Việt cộng, cùng với nhiều tài sản, cơ sở vật chất
bị phá hủy ở những nơi trong các thành phố Miền Nam, có giao tranh kéo dài cả
tháng, nhiều đợt.(Điển hình cảnh đổ nát hoang tàn của cố đô Huế, thủ đô Sài
gòn và hầu hết các thành thị Miền Nam)
Sau khi cuộc chiến Việt Nam đã được cả hai phe chủ đạo cũng như
công cụ thực hiện đưa đến đỉnh cao, chiến tranh giảm dần cường độ. Hoa Kỳ thực
hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, tìm cách rút chân ra khỏi cuộc
chiến, trả lại vai trò chiến đấu bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa
và phần đất Miền Nam tự do cho chính quyền và quân dân Miền Nam. Đợt ném bom
B.52 xuống đầu CSBV trong 12 ngày đêm vào tháng 12 năm 1972 có lẽ là hoạt
động tác chiến cuối cùng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam. Hành động này
của Hoa Kỳ dường như chỉ nhằm tạo áp lực buộc được CSBV phải ký kết vào ngày
27-1-1973 Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại Hòa bình cho Việt
Nam, tạo điều kiện cho Hoa Kỳ rút chân khỏi cuộc chiến Việt Nam một cách danh
dự, hơn là buộc đối phương phải đầu hàng vô điều kiện (Vì tài liệu đối chiếu
nhiều nguồn sau này cho thấy nếu muốn,Mỹ chỉ cần kéo dài cuộc ném bom thêm it
ngày nữa là CSBV đã phải đầu hàng vô điều kiện).
Mấy năm trước đó,
một Hiệp Định được Hoa Kỳ và CSBV bí mật hợp soạn và đưa ra thương lượng trong
một Hội Nghị ở Paris PHáp quốc. Sau đó Hoa Kỳ đã thúc ép chính phủ VNCH phải
tham dự và ký vào một hội nghị bốn bên, đặt ngang hàng chính phủ hợp hiến, hợp
pháp VNCH với công cụ của CSBV là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và chính phủ
Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Sau cùng bị Hoa Kỳ ép buộc phải
ký kết vào bản Hiệp Định với nhiều bất lợi cho VNCH, mặc dầu có những cam kết
của Hoa Kỳ và bảo đảm quốc tế cho việc thực thi. Thế nhưng chỉ hai năm sau đó,
Việt cộng đã cưỡng đoạt Miền Nam trước sự im lặng của Hoa Kỳ và sự làm ngơ của
những cam kết quốc tế.
Qua diễn biến
thực tế trên cho thấy, mục tiêu chiến lược của cả hai cực cường Mỹ-Nga (Liên
Xô cũ)muốn thành đạt qua cuộc chiến Việt Nam và nhờ các công cụ bản xứ(Việt
quốc và Việt cộng) đều là “Lợi ích quốc gia” của họ. Đây cũng là một
tất nhiên, vì từ cổ chí kim, bất cứ chính quyền quốc gia nào cũng đều thực hiện
chủ trương, chính sách đối ngoại vì “lợi ích quốc gia” của mình.
“Lợi ích quốc gia” của cả Liên Xô lẫn Hoa Kỳ muốn thành đạt qua hai hình thái “Chiến
Tranh Lạnh” và hình thái “Chiến Tranh Nóng” là các lợi ích chính
trị, kinh tế là chủ yếu, các lợi ích khác như văn hóa, xã hội… là thứ yếu.
Trong cuộc chiến và qua cuộc chiến Việt Nam, cả
hai cực cường Liên Xô và Hoa Kỳ đều nhằm các lợi ích sau đây:
- Lợi ích chính trị: Cả
Liên Xô và Hoa kỳ đều muốn khẳng định vai trò lãnh đạo tối cao của một cực
cường đứng đầu mỗi phe (Xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa); muốn
chứng tỏ sự chủ động trong việc hoạch định sách lược và sự chỉ đạo sâu sát các công
cụ thực hiện sách lược lấn chiếm bành trướng (Cộng sản Liên Xô) hay ngăn
chặn, đẩy lùi (Tư bản Hoa Kỳ).
- Lợi ích kinh tế: Cả
Liên Xô và Hoa Kỳ, nhờ cuộc chiến đã tiêu thụ hết các loại vũ khí còn tồn đọng
sau Thế Chiến Hai cho cả hai phe (không cần phá hủy) và tiêu thụ thử
nghiệm thêm nhiều loại vũ khí giết người khác, giúp nền công nghiệp quốc phòng
và các ngành nghề khác phục vụ cho chiến tranh phát triển và nên kinh tế quốc
gia nói chung nhờ đó cũng phát triển theo. Thành quả của sự phát triển kinh tế
nhờ chiến tranh này chính là “Lợi ích quốc gia”. Nhưng lợi nhuận cụ thể
đem lại không phải đồng đều cho mọi người dân Liên Xô cũng như nhân dân Hoa
Kỳ mà đem về cho một số thành phần có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến
cuộc chiến.
Đối với Liên Xô, trong chế độ độc tài toàn trị,
kinh tế chỉ huy hoạch định cứng rắn, thì lợi nhuận kinh tế
đem về từ cuộc chiến Việt Nam trên hết và trước hết là cho các cán bộ
đảng viên Cộng đảng Liên Xô các cấp, các ngành chính quyền. Nhưng lợi nhuận cao
nhất vẫn là tập đoàn lãnh đạo tối cao của Cộng Đảng Liên Xô (Những
nhà tư bản đỏ, với nhiều ưu quyền đặc lợi, đời sống và cách sống không thua gì
các nhà tư bản trong các chế độ dân chủ Phương Tây). Sau đó, là lợi
nhuận đem lại cho những người dân Liên Xô có công ăn việc làm trong các ngành
nghề kinh tế quốc doanh cung ứng cho chiến tranh Việt Nam.
Đối với Hoa Kỳ, trong khung cảnh chế độ dân chủ, kinh tế thị trường
tự do, thì lợi nhuận kinh tế
đem về từ cuộc Việt Nam trên hết, trước hết và cao nhất là cho các nhà tư
bản và các tập đoàn tư bản làm giầu nhờ chiến tranh. Sau đó, là lợi nhuận đem
lại cho những người dân Hoa Kỳ làm việc trong các ngành nghề của nền kinh tế tự
do cung ứng cho chiến tranh Việt Nam.
Ngoài ra,sau khi gặt hái những “lợi ích quốc
gia” qua cuộc chiến Việt Nam, nhờ cuộc chiến Việt Nam Hoa Kỳ đã bắt tay
được với Tầu cộng qua Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 ký giữa Cố Tổng Thống
Hoa Kỳ Richard Nixon và cố Chủ tịch Trung cộng Mao Trach Đông, đã mở ra một
triển vọng mới hậu chiến tranh ý thức hệ, cho các nhà tư bản và các tập đoàn tư
bản Hoa Kỳ, nhờ đó còn thành đạt một lợi ích to lớn hơn. Nghĩa là vì lợi nhuận
cho các tập đoàn tư bản, chứ không vì muốn dân chủ cho Miền Nam Việt Nam mà Mỹ
can dự vào cuộc chiến Việt Nam.
Vì vậy, sau khi
thấy không còn “khai thác lợi nhuận trên
Chiến trường Việt Nam” được
nữa, chính quyền Hoa Kỳ (do tư bản, của tư bản và vì tư bản) thấy cần
chủ động kết thúc cuộc chiến Việt Nam(cũng như Đông Dương)để bước vào
một chiến lược quốc tế mới
“khai thác lợi nhuận trên thị trường” mà Trung cộng là một thị trường béo bở nhất với hơn 1 tỷ người
dân và cũng vừa là một đối tác, đối thủ đầy tham vọng mà Hoa Kỳ cần phải tìm
cách khống chế để thành đạt các “Lợi ích quốc gia”.
Chính vì những lợi ích chính trị và
lợi nhuận kinh tế to lớn,trên hết, trước hết và cao nhất cho tập đoàn tư bản độc quyền nhà nước trực tiếp
nắm quyền ở Liên Xô (cán bộ đảng viên cộng đảng Liên Xô) hay cho
các tập đoàn tư bản lũng đọan nhà nước gián tiếp nắm quyền ở Hoa Kỳ(thông
qua một chính quyền do tư bản, của tư bản và vì tư bản tại Hoa Kỳ), đã là
động lực cho các chính quyền Liên Xô và Hoa Kỳ thúc đẩy các công cụ bản xứ
tạo ra, hổ trợ, tham dự vào và đẩy mạnh cường độ các cuộc “chiến tranh giải phóng” (Cộng sản) hay “Cuộc chiến chống cộng bảo vệ tự do” (Tư bản) ngày một lên cao, để nhờ đó
lợi nhuận thu được càng cao.
Tóm lại, trong quá khứ các chính quyền Hoa Kỳ không
có thực tâm giúp Việt Nam có dân chủ, vì đó không phải là cứu cánh mà chỉ là
phương tiện nhằm thành đạt các mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ thông qua cuộc
chiến và nhờ cuộc chiến. Vì vậy sau khi thành đạt các mục tiêu chiến lược của
mình bằng chiến tranh và nhờ chiến tranh(lợi ích chính trị, kinh tế và triển
vọng tương lai…) Hoa Kỳ đã dứt bỏ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa
một cách không thương tiếc. Thế còn hiện tại cho đến lúc này thì sao?
b)- Đến hiện tại(1975-2013)
Hậu chiến tranh ý thức hệ, bước vào
chiến lược toàn cầu mới,các chính phủ Hoa Kỳ vẫn không thực tâm giúp Việt Nam
có chế độ dân chủ, vì trước sau gì chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn nhằm
thành đạt “lợi ích quốc gia”, vẫn xử dụng “tự do, dân chủ, nhân quyền” như chiều bài đối với nhân dân Hoa Kỳ, tạo thế
chính nghĩa trước quốc tế và là vũ khí tấn công tạo áp lực với Việt cộng nhằm
thành đạt các “lợi ích chiến thuật” có tính giai đoạn.
Trong thế chiến lược toàn cầu mới,
với nội dung toàn cầu hóa về chính trị là dân chủ hóa song song với thị trường
tự do hóa các nước có chế độ chính trị độc tài các kiểu và nền kinh tế chỉ huy
trên phạm vi toàn cầu.
Trên nguyên tắc Hoa Kỳ nói là đã và
đang thực hiện mục tiêu “dân chủ hóa chế độ độc tài toàn trị” Việt cộng
song song với “thị trường tự do hóa” nền kinh tế chỉ huy tại Việt
Nam.Thế nhưng trên thực tế, người ta chỉ thấy chế độ kinh tế chỉ huy xã hội chủ
nghĩa có chuyển biến rõ rệt theo hướng kinh tế thị trường tự do, song tốc độ
dân chủ hóa chế độ độc tài toàn trị mang bảng hiệu “cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” thì không chuyển biến theo hướng “dân chủ hóa” mà theo hướng củng cố độc tài thể hiện trên hai bình diện pháp lý
và thực tiễn.
Trên bình diện pháp lý, qua dự thảo sửa
đổi Hiến Pháp 1992 vẫn giữ lại Điều 4 qui định quyền thống trị độc tôn, độc
quyền của một đảng duy nhất là Cộng đảng Việt Nam. Đồng thời vẫn duy trì các
luật lệ hiện hành,các điều khoản trong Bộ Luật Hình Sự của chế độ vi phạm các
quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của công dân và ban hành các luật lệ mới hay
văn bản dưới luật hạn chế hay bác đoạt các quyền tự do, dân chủ của nhân dân….
Trên bình diện thực tế, nhà cầm quyền
cộng sản Việt Nam tiếp tục giam giữ và tăng mức độ và cường độ trấn áp, bắt bớ,
xử án nặng nề các nhà bất đồng chính kiến đã đấu tranh ôn hòa cho các quyền dân
chủ, dân sinh, nhân quyền. Thậm chí bắt giam và xử án nặng nề đối với cả những
người chỉ vì các hoạt động thể hiện lòng yêu nước, chống Tầu cộng xâm lược và
tố cáo, lên án sự nhu nhược của nhà cầm quyền Việt Nam trước quân xâm lược.
Trước thực trạng pháp lý cũng như thực tế trên,
người ta thấy phản ứng của Hoa Kỳ có tính chiếu lệ, thiếu cương quyết và không
có biện pháp chế tài cụ thể, hữu hiệu, nên nhà cầm quyền chế độ độc tài toàn
trị hiện nay tại Việt Nam tiếp tục coi thường và thách thức công luận bằng
việc gia tăng các hành động trấn áp, bắt bớ, giam cầm, kết án nặng nề những
người bất đồng chính kiến, đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền…
Chính cách hành xử của chính phủ Hoa Kỳ khiến
người ta nghi ngờ rằng Hoa Kỳ không có thực tâm giúp Việt Nam có chế độ dân
chủ, ít ra cho đến thời điểm này. Những việc làm lên án, tố cáo, đòi hỏi của
Hoa Kỳ đối với những hành động vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt cộng
chỉ là “diện”, còn “Điểm” vẫn là muốn duy trì thêm thời gian sự
tồn tại của chế độ độc tài toàn trị hiện nay tại Việt Nam, như một công cụ
chiến lược trong vùng (tương tự như cộng cụ VNCH trong quá khứ) hầu dễ xử dụng
để thành đạt các mục tiêu chiến lược (các lợi ích quốc gia) của
mình hơn là giúp hình thành một chế độ dân chủ càng sớm càng tốt cho nhân dân
Việt Nam; nhất nữa lại là một chế độ dân chủ mới hình thành còn mang tính bất
ổn và nhiều bất trắc, không thích dụng trong thời điểm hiện nay để Hoa Kỳ dễ
dành thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình.
III/- KẾT LUẬN:
Từ quá khứ đến hiện tại, nhân dân Hoa Kỳ thì thực tâm
giúp nhân dân Việt Nam có chế độ dân chủ, còn các chính quyền dù là đảng Dân
Chủ hay Cộng Hòa nắm quyền đều không có thực tâm.
Nhận định này căn cứ trên những gì
nhân dân Hoa Kỳ đã làm từ quá khứ đến hiện tại để giúp Việt Nam có dân
chủ,;những gì mà các chính phủ Hoa Kỳ đã làm hay không nên làm trong quá khứ
làm tiêu vong chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hoa; cũng như hiện tại những gì các
chính phủ Hoa Kỳ đã làm 38 năm qua cho thấy vẫn không có thực tâm giúp
Việt Nam có chế độ dân chủ.
Vì sao từ quá khứ đến hiện tại, nhân dân
Hoa Kỳ thì thực tâm, còn các chính phủ Hoa Kỳ thì không thực tâm giúp nhân dân
Việt Nam có chế độ dân chủ?
Vì các chính phủ Hoa Kỳ dù do đảng Cộng
Hòa hay Dân chủ nắm quyền, đều nhất quán trong chủ trương và chính sách đối
ngoại (chỉ khác biệt đôi chút trong chính sách đối nội) là nhằm thành
đạt “lợi ích quốc gia Hoa Kỳ”. Đây cũng là một tất nhiên, vì từ cổ chí
kim, bất cứ chính quyền quốc gia nào cũng đều thực hiện chủ trương, chính sách
đối ngoại vì “lợi ích quốc gia” của mình.
Trong quá khứ các chính phủ Hoa Kỳ nhân danh lý
tưởng “Tự do, dân chủ, nhân
quyền” giúp Việt Nam xây dựng
bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng sau khi thành đạt các mục tiêu
chiến lược của cuộc chiến, Hoa Kỳ đã phế bỏ chế độ dân chủ VNCH vốn được xử
dụng như một phương tiện để thành đạt“lợi ích quốc gia Hoa Kỳ.”; và cũng
như sau này cho đến hiện tại các chính phủ Hoa Kỳ chỉ nói
và làm các động tá giả ủng hộ các cuộc đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa Việt
Nam. Thế những vẫn như không có thực tâm. Vì ủng hộ “Tự do, dân chủ, nhân quyền” chỉ là “diện” hay là phương tiện(The
means); “Lợi ích quốc gia” mới là “điểm”,là cứu cánh hay cùng đích (The end, Finality, Oject).Để
thành đạt được cứu cánh hay cùng đích, các chính phủ Hoa Kỳ hiện đang xử dụng
Việt cộng như một công cụ chiến lược trong vùng (như từng ép buộc Việt quốc
trong quá khứ phải làm công cụ) nhằm thành đạt các mục tiêu chiến lược của
mình (trong “chiến tranh ý thức hệ” trước đây và nay trong chiến lược
“Toàn Cầu Hóa”). Còn đối với các hoạt dộng chống cộng vì dân chủ cho
Việt Nam cảa nhân dân trong nước và quốc dân Việt Nam ở Hoa Kỳ cũng như hải
ngoại, chỉ được chính phủ Hoa Kỳ mượn cớ để tạo áp lực với Việt cộng nhằm thành
đạt lợi ích nào đó trong quan hệ song phương.
Bây giờ chúng ta nay chỉ còn hy vọng ở tương
lai không xa,Hoa Kỳ sẽ có thực tâm giúp Việt Nam có chế độ dân chủ, khi mà các “Lợi
ích quốc gia” của Hoa Kỳ trong vùng đã đạt được (như “lợi ích quốc gia”
Hoa Kỳ đã đạt được qua cuộc chiến Việt Nam). Lúc đó, Việt cộng, công cụ
chiến lược một thời, cũng sẽ bị phế bỏ như công cụ chiến lược một thời không
còn thích dụng Việt quốc trước đây.Khi đó, và chỉ vào thời điểm đó, Hoa Kỳ mới
sẽ không còn “Phàn nàn, tố cáo, lên án suông ” các vụ vi phạm dân
chủ, nhân quyền của nhà cầm quyền độc tài toàn trị Việt cộng; không còn mang
tính chiếu lệ, cầm chừng nữa, mà sẽ là một tối hậu thư kèm biện pháp cụ thể hữu
hiệu để tập đoàn thống trị độc tôn, độc quyền Việt cộng nhận ra rằng đã đến lúc
không còn “câu giờ” được nữa, phải chọn lựa dứt khoát thôi:
- Một là: Tự nguyện
tự giác chuyển đổi chế độ độc đảng, độc tài toàn trị qua chế độ đa đảng, dân
chủ pháp trị” (Như tập đoàn quân phiệt Miến Điện đã và đang làm đầy
triển vọng tốt đẹp cho đất nước, nhân dân và cả giới cầm quyền độc tài quân
phiệt Miến Điện)
- Hai là: ngoan cố bám quyền thống trị độc tôn,
chấp nhận đương đầu sống chết với nhân dân và để sức mạnh nhân dân đạp đổ chế
độ độc tài toàn trị, thiết lập chế độ dân chủ pháp trị .(Như nhân dân các nước Trung Cận Đông và Bắc
Phi đã và đang làm, dù thành quả dân chủ có được nhân dân các nước này đã phải
đổi bằng xương máu, đất nước tan hoang. Nhưng đồng thời số phận của các các
nhân cũng như tập đoàn thống trị trong các chế độ dộc tài này cũng kết thúc bi
thảmhơn nhiều..…).
Tương lai đang còn ở phía trước. Chúng ta hãy chờ xem khi nào Hoa
Kỳ tỏ ra thực tâm giúp Việt Nam có dân chủ và khi đó tập đoàn thống trị độc
tôn, độc quyền trong chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam sẽ chọn lựa cách nào,
số phận sẽ ra sao?
Thiện Ý
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết