--
Kính
Chuyển
MG
SỰ LOAN TIN BỪA BÃI CỦA TRUYỀN
THÔNG
TÂY PHƯƠNG VÀ HOA KỲ VỀ CUỘC
CHIẾN VN
MƯỜNG GIANG
Trong tác phẩm ‘ Chiến tranh ngôn ngữ ‘ của Giáo sư Asabriggs, nguyên giám đốc
Âu Châu Vụ của Ðài BBC Luân Ðôn, có giải thích về hiện tượng loan ngôn của một
số người làm truyền thông báo chí trên khắp thế giới . Theo ông, thì sự bộc
phát của chiến tranh, không những vì quyền lợi, ý thức.. mà ngôn ngữ cũng dự phần.
Chính sự loan tin bừa bãi, những bài viết loan ngôn, những hình ảnh lắp ghép
thiếu trung thực.. đã gây ảnh hưởng khủng khiếp, khi nó được nói tới bằng tất cả
các chiều hướng đối nghịch, qua phương tiện truyền thông, truyền thanh, truyền
hình.
Khác với cảnh chợ văn làng báo vàng thau lẫn lộn thời VNCH, tất cả những người
làm truyền thông Tây phương và Hoa Kỳ, dù chuyên nghiệp hay tài tử, đều đã tốt
nghiệp các khóa huấn luyện hành nghề báo chí, ký giả, phóng viên thông tin và
truyền hình, tại các trường đại học công hay tư. Tuy nhiên hầu hết đã không làm
đúng hay giữ được những bài học căn bản, nhất là các ký giả chiến trường hay những
người chuyên săn tin tức có liên quan tới những biến cố chính trị, chỉ vì lợi
nhuận thương mại và sự cạnh tranh nghề nghiệp. Ðó là chưa nhắc tới chuyện dài
báo chí, truyền thông tại các nước thứ ba và CS, không bao giờ dám viết đúng sự
thật.
Bởi vậy chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, trước sự thú nhận của Macolm Browne, một
thông tin viên lão thành và tên tuổi của hãng Reuter, đã sống lăn lộn nhiều
năm, khắp các chiến trường Nam VN. Trong kỳ đại hội lần 5 của Hiệp Hội Thông
Tín Viên Quốc Tế, được tổ chức tại nước Anh vào cuối năm 1968, ông đã chỉ trích
gay gắt các phóng viên ngoại quốc, nhất là Tây phương và Hoa Kỳ, đã không còn
giữ được sự vô tư, chính xác về cuộc chiến VN. Tất cả gần như hành động theo
nhu cầu cạnh tranh và chính sách đối ngoại của quốc gia họ, phần lớn thiên về
phía Bắc Việt. Cũng do hành động bẽ cong ngòi bút này, mà suốt cuộc chiến VN
từ 1965 cho tới lúc người Mỹ rút quân bộ chiến về nước vào năm 1973, qua
những loan báo tin tức chiến sự bừa bãi một cách trắng trợn, đã làm cho thế giới
hiểu lầm rằng ‘ Chỉ có quân Mỹ mới đánh giặc thực sự , còn QLVNCH thì hèn nhát
bỏ chạy, nên phải bị mất nước về tay CS. .
Cái thành kiến bất công không lương thiện trên, tưởng đâu đã bị chôn vùi trong
nấm mồ nhục nhã của người Mỹ, qua hậu chứng VN sau ngày 30-4-1975. Thế nhưng
vào năm 2005, trong một buổi nói chuyện về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại Iraq,
John Mc.Cain, thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa, kẻ đã ra tranh cử Tổng thống Mỹ vào
năm 2008 và đã rớt đài, vẫn ăn ngược nói xuôi, qua tuyên bố bất hũ rằng ‘
Nam VN không bao giờ có một chính quyền hợp pháp tại Sài Gòn (South Vietnam
never had a legitimate goverment in Saigon) , còn Hồ Chí Minh là người Quốc Gia
yêu nước.‘ . Tệ hơn, là ngay cả Tổng thống G.W.Bush và Bộ trưởng QP Donald Rumsfeld
, khi trả lời những câu phỏng vấn của nhà báo O’ Reilly vào năm 2004, đều tuyên
bố ‘ Người Nam VN đã không chiến đấu (The South Vietnammese did not fight ) ‘ .
Sự thật những người Mỹ trên, đều biết mình ăn nói bừa bãi, dối trá không đúng sự
thật. Nhưng vì đang lúc cần biện minh, trước dư luận chống đối trong và ngoài
nước, việc quân Mỹ đang tham chiến tại Iraq, nên vẫn cứ nói những điều không
đáng nói, nhất là sự thật của cuộc chiến VN, ngày nay đã bị phanh phui lột trần.
Sau ngày 7-11-2006, Rumsfeld từ chức Bộ trưởng QP, và đã được David Gate thay
thế, vì sự thất bại của chính sách quân sự Mỹ tại Iraq, do chính đương sự dàn dựng.
1- Siêu cường Mỹ hãnh
diện về sự loan tin bừa bãi của báo chí, truyền hình suốt cuộc chiến VN :
Ngày
nay cả thế giới đều biết rõ, sự thất bại của người Mỹ khi tham chiến tại Nam
VN, không phải ở chiến trường, mà do ảnh hưởng tai hại của báo chí Mỹ gây ra. Mở
đầu cho những lời sám hối của một số nhà báo Tây phương và Mỹ, trước hằng triệu
oan hồn tử sĩ của ba nước Ðông Dương, đã bị Cộng Sản sát hại, sau khi cưởng chiếm
được toàn vùng, qua sự góp miệng của cái gọi là truyền thông, truyền hình, báo
chí. Năm 1980, Kenneth Crawford bình luận gia của tuần báo Newsweek, là kẻ cầm
bút đầu tiên thẳng thắng xác nhận rằng ‘ Chiến tranh VN là cuộc chiến đầu tiên
trong lịch sử Mỹ, có nền báo chí hầu hết đều thân thiện hay đứng hẳn về phía kẻ
thù của chính tổ quốc mình ‘.Cựu Tổng thống Nixon cũng đã ghi nhận sư kiện bi
thảm trên, trong tác phẩm The Real War. Theo ông, chính sự bẽ cong ngòi bút
này, mà những chiến thắng lớn của Quân lực Mỹ và VNCH trước Cộng sản Bắc Việt
khắp các mặt trận, từ cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân (1968) , Cuộc Hành Quân
Vượt Biên Sang Kampuchia (1970) , Hạ Lào (1971) , Mùa Hè Ðỏ Lửa (1972).. đã biến
thành đại bại. Còn VNCH ngăn chống quân xâm lăng Bắc Việt, để tự vệ và bảo toàn
đất nước, tài sản và sinh mang của mình, thì bị tố cáo là đánh giặc thuê cho Mỹ.
Trong lúc đó, Hồ và đảng CS, làm tay sai cho Nga-Tàu, gây nên cảnh đạn bom lữa
loạn, tàn ác dã man, sát hại đồng bào, thì lại được đề cao bưng bợ, qua danh từ
‘ giải phóng ‘.
Lạ lùng hơn hết, là lúc nước Mỹ đang có chiến tranh với Bắc Việt, thì nữ tài tử
Jane Fonda cùng với cựu bộ trưởng tư pháp Mỹ Ramsay Clark tới Hà Nội, công khai
chửi bới và lăng nhục những người lính và cả tổ quốc mình. Vậy mà lúc trở về nước,
cả hai vẫn được báo chí ca tụng hết lời, chẳng khác nào những nam nữ anh hùng
đang lập được một chiến công hiển hách cho dân tộc Hoa Kỳ. Tết Mậu Thân (1968),
Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng, Việt gian nằm vùng tại địa phương, đã tàn sát
dã man đồng bào Nam VN khắp chốn nhưng kinh khiếp nhất là tại cố đo Huế. Vì hầu
hết các phóng viên Tây phương và Mỹ thuộc thành phần phản chiến, lại bị cộng sản
đầu độc tuyên truyền, nên chẳng mấy ai quan tâm tới thảm sát tại Huế. Họa hoằn
lắm mới thấy được bản tin chiến sự của Peter Braestrup, trưởng văn phòng báo
Washington Post. Sau đó thêm George McArthur của hảng thông tấn AP.. nhưng những
bản tin này đâu khác gì “ tin xe cán chó”, nên chỉ được cho đăng ở trang trong
của tờ báo.. Bi hài hơn, là sự kiện truyền thông báo chí Tây Phương và Hoa Kỳ,
đã coi cuộc tấn công của Bắc Việt khắp lãnh thổ Nam VN trong dịp Tết Mậu Thân
(1968), như là một cơ hội vàng ròng, để khai thác tuyên truyền những chiến thắng
của CS lúc đầu tại một vài nơi, đồng thời bôi bác QLVNCH là hèn kém, không chịu
chiến đấu. Lại lên án sự tàn bạo dã man của quân Mỹ, đã dùng bom đạn cầy phá những
tỉnh thị đông người.
Ðể thu hút sự chú ý của công luận thế giới, tất cả các thông tín viên quốc tế
và hệ thống truyền hình cũng như tờ Newsweek Mỹ, được lệnh thâu góp tin tức,
hình ảnh liên quan tới mọi nơi chốn đã xảy ra chiến cuộc, do bom dàn tàn phá, rồi
đổ hết tội cho người Mỹ gây ra. Trong khi đó, chẳng ai thèm nói tới nguyên nhân
vì sao có thảm họa này, kể cả sự khủng bố, chém giết, chôn sống đồng bào Huế của
VC.
Paul A.Gigot, một bỉnh bút về điểm sách tại Mỹ, vào tháng 7 năm 1979 đã công
khai vạch mặt David Halberstam, ngay lúc hắn ra mắt quyển ‘ The Power That Be
‘, khi đặt câu hỏi về lý do “ những người VN liều chết bỏ nước ra đi “ tìm tự
do sau ngày 30-4-1975. Ðây là tên nhà báo bất lương hung hăng nhất của Mỹ, lúc
nào cũng mù quáng ca tụng cuộc xâm lăng của Bắc Việt như một hành động thần
thánh. Hắn cũng là người loan tin thất thiệt về trận tết Mậu Thân, làm cho người
Mỹ xấu hổ vì tưởng mình đã thua VC, nên sinh ra bất mãn và muốn rút quân về nước.
Gần suốt cuộc chiến VN, ta thấy hầu hết các phóng viên ngoại quốc luôn loan tin
thất thiệt, có nhận định theo thiên kiến và đã đối xử bất công với VNCH.. bởi
vì họ tới VN bằng con đường độc đạo không lối thoát, lại còn mang nặng tư tưởng
phản chiến và sự nhồi nhét luận điệu tuyên truyền của Quốc tế Cộng Sản (QTCS)
trong óc-tim. Hơn nữa phần lớn các phóng viên tới VN để săn tin chiến trường,
chẳng có bao nhiêu người có cơ hội hay đủ can đảm theo các đơn vị hành quân tại
mặt trận. Do trên, để có tin gửi về, đã phải dựa theo những tài liệu, được diễn
dịch từ các cố vấn Mỹ hay theo các cánh quân Hoa Kỳ. Trưóc năm 1973, những
thông tín viên ngoại quốc nào được MACV cấp cho chiếc thẻ nhà báo, coi
như đã trúng số độc đắc. Thời gian đó, phương tiện chuyển vận của quân lực Mỹ tại
VN rất hùng hậu, thuận tiện nhất là trực thăng có thể đi tới mặt trận nào cũng
được. Còn QLVNCH thì thiếu thốn đủ mọi thứ, hơn nữa trong đầu óc của các phóng
viên ngoại quốc, đã sẳn thành kiến “ Lính VNCH đâu chịu chiến đấu”, vì vậy có
theo cũng chẳng thu được tin tức gì ..
Cũng có ít người gan dạ theo lính ra tới mặt trận, đến khi chạm mặt với thực tế
vài lần, đầy khó khăn nguy hiểm cùng cái chết lúc nào cũng chực chờ, bởi vậy đã
quay về săn tin qua người Mỹ. Hơn nữa các phóng viên khi được lệnh tới công tác
tại Nam VN, họ đâu có thực quyền để viết ghi theo ý mình, mà phải làm theo chỉ
thị của cơ quan, đã hướng dẫn sẳn tầm mắt, sự suy nghĩ, cảm nhận.. làm sao để
khỏi bị trật đường rầy. Ðó là tự do ngôn luận của nền báo chí Âu-Mỹ, đuợc dàn dựng
từ đài phát thanh BBC Luân Ðôn, VOA Hoa Thịnh Ðốn, , cho tới các hãng thông tấn
AP,UPI, AFP cũng như các hãng truyền hình CBS,NBC, ABC.. tất cả đều không có được
cái nhìn trung thực, vô tư về cuộc chiến VN vừa qua.
Năm 1971 Mỹ bắt đầu cuộc triệt thoái khỏi VN. Ðể được thêm một nhiệm kỳ tổng thống,
Nixon và Kissinger lại tìm đủ mọi cách, đẩy QLVNCH vào tử địa tại vùng rừng núi
hiểm trở của Hạ Lào, đày đọa thân xác của người lính trận suốt 45 ngày đêm
không ngừng nghĩ, dưới mưa bom đạn pháo, đã khiến cho hằng ngàn mạng người lá rụng,
trước những thứ vũ khí tối tân của Nga-Tàu đã viện trợ cho VC.
Nhưng dầu bị đẩy tới một chiến trường xa lạ, vùng căn cứ địa kiên cố lâu đời của
Bắc Việt, tài liệu mật cuộc hành quân lại được báo trước cho Hà Nội, nên giặc
đã giăng sẳn thiên la địa võng bằng đủ mọi thứ khí giới tối tân nhất lúc đó, để
tận diệt QLVNCH. Tuy vậy, những đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Thiết Giáp, Pháo Binh,
Công Binh và SD1BB, đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng, tới lúc đã đạt
được mục đích phá hũy gần như toàn diện những kho tàng, căn cứ của Bắc Việt tại
Hạ Lào, mới rút quân về nước.
Nổi bi thiết tận cùng của người lính Nam VN không có bút mưc nào có thể diễn tả
cho hết được. Ðó là sự chết chóc, banh thây mất xác tại chiến trường, còn có
thêm sự hận nhục, khi bị báo chí truyền hình Tây Phương và Mỹ, dựng đứng và ngụy
tạo những hình ảnh xuyên tạc tồi tệ của người lính VNCH, trên báo chí và truyền
hình. Nhiều thảm kịch của “ thân phận người lính VNCH “ tại mặt trận quá phũ
phàng, đã làm kinh hoàng hâu phương, ngoại trừ “ những trái tim thú vật “ đang
núp lén đâu đó để chực đâm hùa. Suốt 45 ngày đêm tại chiến trường Hạ Lào, hầu hết
các đơn vị QLVNCH phải chiến đấu trong đơn độc, không yểm trợ, tải thương, tiếp
tế.. nhưng đã chiến đấu tới phút cuối cùng bị giặc tràn ngập giết chết hay tự
sát. Ðó là căn cứ hỏa lực 31 của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, nơi Ðại Uý Nguyễn Văn
Ðương, Pháo đội trưởng thuộc TÐ3PB Dù, đã dùng khẩu đại bác cuối cùng trực xạ
vào xe tăng Bắc Việt, rồi tự vẫn. Ðó là những người lính của Tiểu đoàn 21, 39
Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.. chiến đấu tới nổi , đã
phải lật xác bạn thù để tìm súng đạn tiếp tục chiến đấu. Ðây cũng là lần đầu
tiên trong cuộc chiến VN, tử thi của người lính đành bỏ lại với núi rừng, khi
những người còn sống sót bắt buộc phải triệt thoái lui quân.
Chiến đấu đến nổi quân số 432 người của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 1, SÐ1BB chết hết
các cấp chỉ huy sau 11 ngày tử chiến tại căn cư Lolo. Ðến khi may mắn được máy
bay Mỹ cứu về Khe Sanh, lúc đó chỉ còn 63 người, cấp bậc cao nhất là Trung sĩ .
Ai cũng đều mang thương tích trầm trọng, mặt mày hốc hác vì không ngủ thiếu ăn,
quần áo đẩm đầy máu đất, không nón, không giầy, không vũ khí.. Vậy mà ho đâu có
được yên ổn, vì bọn nhà báo Tây Phương và Mỹ đã ùa tới chục hình, rồi ghi vào
đó “ Ðây là lính VNCH hèn nhát bỏ chạy, không chịu chiến đấu, được máy bay Mỹ cứu
về “.Với quân đội Mỹ, bọn nhà báo cũng không tha, cả lũ diều hâu nằm chực tại
Khe Sanh hay Lao Bảo, rình rập những phi hành đoàn trực thăng bị thương tích từ
mặt trận trở về, chụp hình, quay phim, lên báo để bêu xấu. Cũng may còn có hai
ký giả John Saar (Anh) và Okamura (Nhật), đã theo các đơn vị QLVNCH tại Ha Lào,
còn chút lương tâm và sự công bằng tối thiểu của người làm báo, nên đã ghi lại
những sự thật tàn nhẫn và phủ phàng thảm tuyệt của người lính trận miền Nam, từ
người bị trong thương cho tới các xác chết bất động.
Hai cảnh đời trái ngược, không ai còn bút mực nào để vẽ, viết hay nói lên cho
trọn vẹn trong lúc tại Khe Sanh, Quảng Trị, Huế, Ðà Nẳng, Qui Nhơn, Nha Trang,
Sài Gòn.. máy bay trực thăng đủ loại của Không quân Mỹ-Việt, lên xuống không ngừng,
để tải thương binh và tử thi của lính, từ mặt trận về. Xác chết nào cũng đã
sình thối, được gói ghém vội vã trong các bao tải hay poncho, để lộ đôi chân
không, bết đầy bùn đất. Thương vong quá nhiều, nên tất cả các Quân và Dân Y Viện
đầy nghẹt, khiến không đủ giường để chửa trị, vì vậy nhiều thương binh phải nằm
trên băng ca dọc theo hành lang. Phố phường, làng xóm cả nước như òa chết trong
tiếng khóc của những gia đình có con cái, thân thuộc.. ra đi không trở về. Cảnh
tang tóc càng thêm đứt ruột, qua những chiếc khăn tang trắng còn thơm mùi vải,
vừa được chít trên những mái đầu xanh của các cô nhi quả phụ.
Trong lúc đó, cũng tại những địa danh đẳm đầy máu lệ Huế, Ðà Nẳng, Sài Gòn.. có
nhiều người đang biểu tình, nhìn từng khuông mặt, dù có tóc hay không, nam và nữ,
ai nấy đều no tròn trắng mập, chứng tỏ họ đã sống rất là đầy đủ , sung sướng, hạnh
phúc, giữa xã hội Miền Nam máu lửa ngập tràn, dân đen đói cơm thiếu áo, nhất là
vợ con lính nheo nhóc với lương tháng, không bằng đĩ điếm me Mẽo sau một trận
cười. Những nguời này xuất hiện giữa đám đông, không phải để cùng chia sớt phần
nào nổi đau bất hạnh của thân phận lính. Họ cũng không tới để tố cáo tội ác diệt
chũng và xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt. Tóm lại họ tụ tập biểu tình để tố cáo
Chính phủ đã tổ chức gian lận bầu cử, để Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương đắc
cử Tổng Thống. Dữ dội hơn là cảnh phục kích ám sát Mỹ, đốt xe cộ, cơ sở ngoại
quốc. Tất cả cũng chỉ với mục đích : “ Tạo thêm nguyên cớ, để phong trào phản
chiến đang lên cao nhất tại My, bắt chính phủ rút hết quân về nước “. Có vậy,
Dương Văn Minh mới được làm Tổng Thống, để ra lệnh đầu hàng .
Ngày 29-3-1972, ngay lúc Bắc Việt mở màn cuộc tổng tấn công VNCH trong mùa hè đỏ
lữa, thì cũng là thời gian đạo quân báo chí ngoại quốc, từ bốn phương trời kéo
tới Nam VN để chờ tin QLVNCH bị CS Bắc Việt đánh bại. Số trên, đông tới 600 người,
tập trung tại Sài Gòn, Huế và Ðà Nẳng, ngự trong các khách sạn sang trong
Continental và Caravelle (SG), Hương Giang (Huế). Chứng kiến cảnh lúc nhúc của
bọn phóng viên nhà báo này, Bourgine chủ bút tờ Valeur Actuelles (Pháp), đã
trào phúng ví von, gọi đó là “ lũ kên kên người “, đang chờ hút máu và rĩa thịt
xác chết VN. Là một ký giả chiến trường, từng nhảy xuống lòng chảo Ðiện Biên Phủ
trước năm 1954, sau đó đã lăn lộn nhiều năm khắp bốn vùng chiến thuật. Tại Mặt
Trận An Lộc, Bourgine đã viết gởi về cho tòa soạn tại Ba Lê, một bài phê bình
như sau “ những bài viết của các ký giả ngoại quốc đặc biệt là Mỹ, đang mặc sức
tung hoành tai Nam VN, đã nói lên cái tư cách của những con chó ‘ người ‘ ăn
xác chết và bầy kên kên rình rập kiếm tử thi lính VNCH “..Nhưng không may mắn
cho đoàn âm binh, vì sau đó Cộng Sản Bắc Việt đã đại bại tại các Mặt Trận Quảng
Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh, An Lộc.. nên chúng đã tự động giải tán, số lớn về nước
do chẳng còn đề tài gì hấp dẫn để viết về VN, ngoài sự đại bại của Bắc Việt.
Một phóng viên chiến trường khác là Mermez, đã có mặt tại VN ngay từ khi mở màn
cuộc đại chiến ‘ Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 ‘ . Ông đã theo các đơm vị QLVNCH vào Kon
Tum, An Lộc và nhiều tiền đồn hẻo lánh của Nghĩa Quân tại Vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Tại Sài Gòn, ông sống một mình trong xóm nhỏ của người dân lao động nghèo
nàn. Ông viết “ Người lính VNCH gan dạ và liều lĩnh tới mức ai cũng phải sợ, nhất
là lính Nghĩa Quân và Cán Bộ Bình Ðịnh Xây Dựng Nông Thôn “. Họ đâu có coi VC
ra gì. Riêng dân chúng Miền Nam, hầu hết đều thù ghét Cộng Sản ra mặt, cũng vì
chúng, mà người dân nông thôn phải tan nhà nát cửa ‘.Riêng ký giả Bernard
Ulmann của tờ Observateur, tuy chỉ mới tới VN lần đâu nhưng sau khi thăm làng
quê An Tánh của Nguyễn Thị Bình tại Kiến Hòa. Ông đã viết trên báo xác nhận rằng
Miền Nam VN nhất lại Vùng 4 Chiến thuật, nhiều nơi kể cả Bến Tre, dân chúng sống
trong cảnh thanh bình. Ðặc biệt hầu hét đều thù ghét VC.
Bi thảm quá, trong khi tại các mặt trận lớn đang rực lửa bom, nhất là An Lộc suốt
80 ngày, đồng bào và QLVNCH bị Cộng Sản Bắc Việt vây hãm, dưới trời mưa pháo,
có ngày lên tới 7500 trái, đã làm cho 2500 dân lính chết, nhiều ngàn người khác
bị thương nặng. Tại Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh.. đâu đâu cũng tràn ngập xác
người lánh nạn, nhất là trên đoạn đường từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, khiến cho sau
này các sử gia đã gọi đó “ Ðại lộ kinh hoàng “.Ngày 9-5-1972, sau khi Quảng Trị
bị thất thủ 5 ngày, Chính phủ VNCH ban hành lệnh “ Tổ Quốc Lâm Nguy “ ra lệnh
Thiết Quân Luật trên toàn quốc. Ngày 28-6-1972, Lưỡng Viện Quốc Hội ban hành Luật
Ủy Quyền, cho phép Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được toàn quyền trong lúc đất nước
có chiến tranh.
Ðây là một việc rất bình thường ở đâu cũng có. Nước Mỹ cũng đã từng nhiều lần
ban hành chính sách ‘ quân dịch ‘ cho tới năm 1973 mới bãi bỏ. Vậy mà tại VNCH
lúc đó, lại có một số người biểu tình chống đối, xuống đường bãi công... trong
khi quân Bắc Việt sắp vào tới Sài Gòn, vì Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH lúc đó, thật
sự đã tung hết các lực lượng Tổng Trừ Bị như Sư Ðoàn Dù, SD .TQLC, Biệt Kích
Dù, Biệt Ðộng Quân, thậm chí phải tăng phái cả SÐ21BB và một phần của SÐ9BB..
vào các mặt trận.. Góp phần trong bửa tiệc máu của Dân-Lính Miền Nam, là miệng
lưởi lắc léo, ngòi bút bẽ cong, trái tim thú vật.. của bọn người tự xưng là yêu
nước nhưng thực chất chỉ là đám người vô ý thức, đang góp mặt trên các tờ báo,
làm tay sai và công cụ tuyên truyền của QTCS gồm tờ Ðiện Tín,Tin Ðiện, Tia
Sáng, Thần Chung, Ðối Diện..
Vì sự sống còn của đất nước và dân tộc, hơn nữa không thể để cho bọn hoạt đầu
chính trị, đám văn nô nằm vùng, lợi dụng sự lâm nguy của chính phủ, để đâm sau
lưng hằng triệu người Lính, đang xã thân nơi chiến trường. Bởi vậy Tổng Thống
Thiệu và Chính Phủ, đã bó buộc phải ban hành Sắc Lệnh 007 ngày 4-8-1972, coi
như một đạo luật báo chí thời chiến tranh. Ðặc điểm của luật trên là bắt báo tư
nhân phải ký quỹ 20 triệu, còn bao đảng phải chỉ phải đóng một nữa.Ngoài ra siết
chặt hệ thống kiểm duyệt báo chí, bắt và truy tố những ai vi phạm nền an ninh
Quốc Gia, đưa ra Tòa Án Mặt Trận xét xữ.
Sáng ngày 10-10-1974, tại Sài Gòn có chừng 300 người, tự xưng là” ký giả đi ăn
mày”. Cầm đầu có Vũ Hạnh, Son Nam, KIên Giang Hà Huy Hà.. cùng cặp kè với Hồ Ngọc
Nhuận, Lý Chánh Trung, Ngô Công Ðức.. đòi bãi bỏ sắc lệnh 007 bao chí và bắt Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức, để lập chính phủ mới “ hòa hợp hòa giài
hòa bình “. Ăn ké trong chiến dịch trên, còn có 100 nhà báo ngoại quốc, được
dip quay phim chụp ảnh, từ những căn phòng sang trọng tại khách sạn Caravelle..
để tiếp tục bán đứng VNCH.
Sau ngày mất nước, nhờ báo chí VC ca tụng, dân đen dưới xóm, mới biết vụ
‘ ký giả đi ăn mày dõm ‘ được Bắc Việt dàn dựng, để cho những tên trí thức phản
tặc, trong số này không ít lính tham dự, có dịp lập công với đảng, trong sứ mệnh
“ đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào “.Còn Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch bù nhìn của Mặt Trận
Ma GPMN trong chuyến thăm viếng Mạc Tư Khoa vào tháng 5-1975, đã hãnh diện
tuyên bố “ Ðánh chiếm được Miền Nam VN, là công lớn của báo chí và phóng viên
ngoại quốc, trong đó có Hoa Kỳ “. Nhà báo Allan Brownfield, qua tác phẩm ‘ How
Media Bias Distorts Our View of the World ‘ đã khẳng định rằng, chính báo chí
Tây Phuương trong đó có Hoa Kỳ, vì mù quáng đã giúp cho Mao Trạch Ðông và Fidel
Castro, đạt được chiến thắng mau lẹ tại Trung Hoa lục địa và Cu Ba. Chính hậu
chứng trên, đã làm cho người Mỹ lạc lối trong cuộc chiến VN, vì bị báo chí tuyên
truyền rằng Hồ Chí Minh là người yêu nước và cuộc chiến tại Nam VN là nội chiến,
chứ không phải bị Bắc Việt xâm lăng. Tóm lại chính hệ thống truyền thông Mỹ, đã
bị điệp viên CS cùng với các nhóm phản chiến làm mù mắt, nên đã phổ biến những
nguồn tin hoàn toàn sai sự thật. Một trong những bằng chứng điển hình là trận Tết
Mậu Thân (1968), theo Trương Như Tảng cho biết, VC hoàn toàn bị thảm bại nhưng
nhờ báo chi Mỹ phản tuyên truyền, nên trở thành chiến thắng huy hoàng. Trái lại
các sử gia đã ghi chép một cách trung thực rằng Cộng sản Hà Nội, đã thụt lùi về
quân sự, sau thảm bại nặng nề trên khắp chiến trường.
Theo Arnaud de Borchgrave, một biên tập viên kỳ cựu của tờ Newsweek và chủ bút
tờ The Washington Times, qua kinh nghiệm làm báo, cũng đã kết luận rằng ‘ chính
sự thông tin chống Mỹ và đầu óc phản chiến của Tây Phương, đã giúp Cộng Sản Bắc
Việt toàn thắng tại VN. Riêng nhà báo Pháp Jean Lacouture, một kẻ sùng bái Hồ
Chí Minh và VC như thần thánh nhưng đã tỉnh ngộ sau năm 1975, viết ‘ Từ 1960-1969,
chính báo chí Tây Phương và Mỹ đã tuyên truyền, khiến dư luận thế giới, kể cả
các nước tự do, đều tin là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là tổ chức chính trị độc
lập của Nam VN chống lại chính quyền Sài Gòn. Tệ nhất là tôi đã biết rõ bộ mặt
thật của CS Hà Nội nhưng đã cố tình dấu giếm mọi người. Tình trạng này cũng đã
xảy ra với các đồng nghiệp Mỹ phản chiến của Tờ The New York Times như Anthony
Lewis, Harrison Salisbury, Tom Wicker.. Trong cuốn phim ‘ Ha Noi Hilton ‘ do
Hollywood sản xuất, ngoài những hình ảnh thật về cảnh hành hạ tra tấn dã man của
Bắc Việt đối với tù binh Mỹ, còn ghi nhận một sự kiện lịch sử . Ðó là việc CS
đã chế giểu Hoa Kỳ ‘ Chúng tôi không thắng tại chiến trường nhưng nhờ truyền
thông Mỹ đã giúp, nên đạt được thành quả cuối cùng tại Hoa Thịnh Ðốn ‘.Lê Duẩn
trong ngày Sài Gòn thất thủ, đã gửi lời cám ơn đoàn quân ký giả và đảng CS Hoa
Kỳ, đã giúp Bắc Việt chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lăng VN.
Cũng vì vậy mà ngày nay trong giòng lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ, đã có thêm một
trang đặc biệt để đời mà chắc ai cũng phải nhớ. Ðó là lần đầu tiên Mỹ thua trận,
không phải do kẻ thù gây ra, mà chính giới truyền thông của nước mình, đã đâm
sau lưng người lính tận tuyệt.. Nhưng nhức nhối hơn, có lẽ là bài viết của một
cựu chiến binh Mỹ, đăng trên tờ Los Angeles Times ngày 27-4-1980 ‘ Khi tháo chạy
khỏi Nam VN, chẳng những chúng ta đã mang tiếng thua trận, phản bội đồng minh,
mà còn đánh mất hết linh hồn của Mỹ Quốc ‘.
2- Truyền Thông Tây
Phương Và Hoa Kỳ Sau Cuộc Chiến VN, Vẫn Xuyên Tạc Sự Thật :
Trước sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Nam VN không phải tại chiến trường, mà
ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Ðón, New York, Luân Ðôn, La Mã, Huế-Ðà
Nẳng và Sài Gòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc, đã phẫn nộ và bày tỏ thái
độ khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng
tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng
đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp Bắc Việt
cưỡng chiếm VNCH. Ðề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương
viết lách, đem lên truyền thanh truyền hình, đó là người lính VNCH hèn nhát
không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và bị người Mỹ khinh miệt nên bỏ rơi
không thèm giúp.
Hai câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự
thật đã xác nhận ‘ KHÔNG ‘.Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện
tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục., vẫn không
thiếu những binh sĩ đào ngủ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng
và chính cưu TT. Bill Clinton, vì hèn nhát nên đã trốn quân dịch pháp định.
QLVNCH chỉ mới được thành lập, là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, bị chiến
đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu phương, bạn địch.
Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất, phế tật,
không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ.. vậy mà họ vẫn một đời đem máu
đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu cờ, sắc áo và từng sinh mạng
của người dân, kể cả những tên ký sinh vô loại ở hậu phương, cũng như tất đất của
quê hương.
QLVNCH là sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không còn họ,
mạng người Nam VN lá rụng, đã gục ngã tại Mậu Thân Huế-Sài Gòn, trên các đại lộ
kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết
tập thể vào ngày 30-4-1975. Như sử gia Edward S.Creasy viết trong tác phẩm nổi
tiếng ‘ Fifteen Decisive Battle Of The World ‘ năm 1851 ‘ Tầm quan trọng của một
cuộc chiến, là những gì ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai ‘.Thật
vậy, những gì đã xảy ra tại Nam VN, sau 30 năm bị cong sản cưởng chiếm, đã đủ
trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa Robert S.McNamara, cựu bộ trưởng
QP. Thời TT Kenedy, đã giải thích một chiều, trong hồi ký của mình ‘ In
Retrospect-The Tragedy and Lesson of VN ‘.
Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo
chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm của phận lính
bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đã thay thế người
nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát , bỏ đồng minh tháo chạy
về nước trước sự tấn công của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ
bán đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó tàn
nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn miền nam sụp đổ, dù đã cam kết trước là sẽ
can thiệp nếu Bắc Việt phản bội.
Không có gì tồn tại với thời gian, trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của
Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975,
hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma
giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài Gòn thất thủ : ‘ cám ơn báo chí và ký
giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể
là người Mỹ ‘.
Ðây là tất cả sự thật , vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry
H.Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm ‘ Heroic Allies ‘ nói lên
vinh quang và sự hãnh diện của một quân lực , từ lâu đã bị bọn trí thức vô liêm
sỉ , tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền lố
lăng và cuồng ngạo của Hà Nôi cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ năm
châu chán ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ còn trơ lại bộ xương gầy đét,
không còn gì để cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số
quạ đen, diều hâu , bu tới rỉa rói như lúc chợ còn đông khứa.
Trong tài liệu đặc biệt ‘ How Media Bias Distorts Our View of the World ‘ của
ký giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá
mù quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Ðông và Fidel Castro, trong lúc thẳng
tay sỉ nhục bôi lọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô tình nhưng
đã làm cho cọng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử
sau đó lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được ưu tiên trạng
trọng trong xã hội lúc đó, là những công tử tiểu thu đài cát của giới địa chủ,
địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bốc
lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học
thành luật sư, bác sỷ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí Minh và đảng VC ở miền
Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất nước
vào năm 1954 . Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Nam VN, những
thành phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do lầm
lạc , nghĩ rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người bình thường, yêu nước, nên
nỗi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ. Bài học ‘ lở ngu làm hỏng
cuộc đời ‘ của Hồ Thu, Dương Quỳnh Hoa, Trưong Như Tảng.. không biết tới bao giờ
mới làm cho Nguyễn Thị Bình mở mắt để ăn năn sám hối, tạ tội với quốc dân, chuộc
lại cái thanh danh của ông ngoại mình là Phan Chu Trinh, bị muộn phiền, vì có
hai cháu ngoan ‘ theo bác, phản quốc ‘ .
Tóm lại nhờ những trí thức này, mà VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC
chính thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Ðông Âu..
trong bộ đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và
cọng sản đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở miền Nam và
các mạng lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản, của người
Việt quốc gia Nam VN, mất đi cái ý nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp
nhiều khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Ðông Nam Á. Rốt
cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi VC, của báo
chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.
Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu
dồn dập ở hậu phương . Ðây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra, của những thông tín
viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật , có kèm hình ảnh, không phải
để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi lọ những
quân đội, đang trực diện với cọng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể
nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley
Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng xôi đậu, đã
trở thành những mẫu thông tin ‘ ăn khách’ , theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ
và Tây Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968, VC
chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Ðại Sứ Mỹ ở
Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong suốt cuộc
chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người
tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày di tản
máu lửa hận hờn
Chiến
cuộc VN đã kết thúc gần 36 năm, nhưng nhiều người Phi Châu và các nước thứ ba như
Bhutan, Panama.. làm như đang ngũ ở trên mây, vì họ mù tịt chuyện VN, do thiếu
tin tức, kể cả câu chuyện VC làm xếp chúa cả nước sau ngày 30-4-1975 cũng không
hề biết tới.
Nhưng giới truyền thông Tây Phương và Hoa Kỳ thì khác, bởi vì chuyện gì có liên
quan tới CS Việt Nam, họ hầu như đều biết hết. Thế nhưng tới nay, nhiều người vẫn
chứng nào tật náy, làm như không biết gì hết về các bí mật của cuộc chiến VN,
đã bị phanh phui, lột trần sự thật. Mấy chục năm qua, cứ đến ngày 30-4-1975 là
dịp tốt để các đài truyền hình Mỹ, tung ra các loại phim tuyên truyền xuyên tạc
cuộc chiến VN, được gọi là ‘ tài liệu lịch sử ‘, đã làm cho 58.000 quân Mỹ và
hơn 3 triệu người Ðông Dương thiệt mạng. Bỉ ổi nhất trong cái, được gọi là loại
phim tài liệu lịch sử này. Ðó là bộ ‘ Vietnam, a televised history ‘ với nội
dung hoàn toàn đề cao sự chiến thắng của CS Hà Nội, đồng thời tố cáo tội ác của
Quân Lực Hoa Kỳ và VNCH trong chiến tranh. Phim được một cán bộ trai Bắc Việt
thuyết minh, qua chữ nghĩa dựa theo tư tưởng Mao It. Nhưng đòn tuyên truyền
này, đến nay đã lỗi thời, dù năm nào cũng được nhai lại, chỉ làm cho mọi người
thêm ứa gan, vì ai cũng đã biết hết sự thật.
Hùa theo ăn có xác chết VN là những thành phần làm báo Mỹ từng liên hệ với cuộc
chiến vừa qua. Mới đây tại hải ngoại, người Việt tị nạn đã lột mặt nạ ký giả
Alan Dawson từng làm trưởng phòng hảng thông tấn UPI tại Sài Gòn trước 1975, vì
đương sự đã viết sai nhiều sự thật trong hồi ký ‘ 55 days : The Fall of South
VN ‘.Ðó là việc dựng câu chuyện trong trận Xuân Lộc vào tháng 4/1975, nói là trực
thăng tới chở các đơn vị đang tham chiến về Sài Gòn, trong số này có cả Tư lệnh
SD18BB là Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo. Lại viết là có 600 quân của Trung Ðoàn
43/SD18BB do Ðại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy, tình nguyện ở lại Xuân Lộc. Trong khi
đó, sự thật không có bất cứ một đơn vị nào được máy bay chở, kể cả Tướng Ðảo,
vì cuộc lui quân bằng đường bộ. Chỉ có TD2/43/SD18BB của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế
bị kẹt lại vì đóng quân quá xa tuyến lui quân, nhưng cuối cùng ông cũng đưa được
đơn vị về Long Thành, tuy bị thiệt hại rất nặng.
Chưa hết, Alan Dawson còn dựng đứng câu chuyện, để vu khống Thiếu tướng Nguyễn
Khoa Nam, Tư lệnh QÐ4 đã ra lệnh thủ tiêu Trung Tá Tỉnh trưởng Kiên Giang là
Vương Văn Trổ, vì tội đào ngũ. Thật sự Trung Tá Trổ đã ở lại chiến đấu với đồng
đội tới ngày 30-4-1975, sau đó đi tù 13 năm tận ngoài Bắc và mới sang Hoa Kỳ bằng
diện HO năm 1993 tạm cư tại Houston, TX.
Những hành động bỉ ổi này, tới nay đâu có kết thúc. Bởi vậy, vào ngày 9-5-2005,
tạp chí Newsweek Mỹ, tờ báo chuyên môn nói láo ăn tiền, nên chỉ mới dựa vào một
nguồn tin không chắc chắn, để ngụy tạo một bài viết giựt gân cở ‘ trận đánh cuối
cùng không có đại bàng ‘, trong đó tố cáo một viên chức Mỹ, làm việc tại trại
giam tù khủng bố ở Guantanamo Bay, đã quăng kinh Koran vào bồn cầu tiêu rồi dội
nước. Việc loan tin vô trách nhiệm trên, đã gây nên sự phẩn nộ tại các nước
theo đạo Hồi, sau đó biến thành bạo lực chống Mỹ, làm cho hàng chục người chết
và nhiều người khác bị thương.
Trước sự kiện ghê tởm này, chẳng những đã gây chết người, mà còn làm tổn thương
tới danh dự của Hoa Kỳ trước công luận thế giới. Thế nhưng tòa báo chỉ xin lổi
suông mà không chịu hủy bỏ bài viết bịa đặt trên, cho dù cả Ngoại trưởng Condi
Rice lẫn Phát Ngôn Viên Phủ Tổng Thống, đều lên tiếng cảnh báo sự kiện quốc tế
nghiêm trọng này. Cuối cùng đến ngày 23-5-2005, trước tình trạng hổn loạn chống
Mỹ càng bộc phát, mạng người tiếp tục gãy đổ, chừng đó chủ bút tờ Newsweek mới
chịu hủy bỏ bài báo đã đăng. Không thấy ai nói gì về trách nhiệm của sự loan
tin bừa bãi này.
Tiếp tục biểu dương tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do viết báo , nên ngày
20-9-2004, đài truyền hình CBS Mỹ, lại đem chuyện quân dịch của đương kim Tổng
Thống Hoa Kỳ George Bush, ra trước công luận để bôi bác xuyên tạc. Trước hành động
quá đáng này, cơ quan hành pháp Mỹ, đã lên tiếng phản đối, vì cho rằng tài liệu
vừa phổ biến, thiếu trung thực. Thấy bị lố, nên đài trên phải công bố về sự sai
lầm và hứa sẽ điều tra nội vu. Ðây không phải là lần đầu tiên đã xãy ra sự cố của
nền báo chí và truyền thông Hoa Kỳ, chuyên môn loan tin thất thiệt, đã bắt nguồn
từ thời chiến tranh VN, rồi trở thành thói quen tật xấu, hầu như không ai từ bỏ
được.
Những vụ tai tiếng trên, đã khiến cho hệ thống truyền thanh truyền hình và báo
chí Mỹ càng ngày càng xuống dốc, với hằng hằng những tin tức thất thiệt, qua
các đài CNN, NBC, CBS cũng như các báo The New Work Times, USA Today, The
Washington Post, The New Repuclic, The Los Angeles Times.. làm cho người dân
không biết đâu mà mò.
Qua sự lộng hành càng ngày càng quá đáng của giới truyền thông, làm nhớ lại
Peter Arnett, một phóng viên người Tân Tây Lan, lấy vợ VN có thân nhân tập kết,
nên đầu óc đã bị nhuộm đỏ. Vì vậy khi làm việc cho hảng thông tấn AP., hắn
chuyên môn viết bài ca tụng bộ đội Bắc Việt, công khai xuyên tạc quân lực Mỹ và
VNCH, bằng những phóng sự chiến trường tuyên truyền một chiều. Arnett là tác
nhân đã biến chiến thắng của quân Mỹ tại trận Núi Ấp Bia, thành đại bại. Lại
còn đánh lận con đen, đảo lộn sự thật, khi diễn đạt danh từ “ đồi Hamburgur “
do những quân Dù Mỹ tham dự trận đánh đó đặt ra, vì quá thương tâm, khi chứng
kiến hơn 700 xác bộ đội Bắc Việt bị bom lửa biến thành đống thịt đỏ, bị đồng bọn
bỏ lại chiến trường, lúc chém vè.
Trong cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991, Arnett là phóng viên của hảng truyền hình
CNN, là người ngoại quốc duy nhất được Sadam Hussein cho ở lại Bagdad để tuờng
thuật tin tức thất thiệt, giúp Iraq chống Mỹ, khiến Tòa Bạch Ốc nổi giận muốn
đưa hắn ra tòa án quân sự. Năm 2001, Peter Arnett mới bị đuổi ra khỏi CNN vì
loan tin thất thiệt, trong cuộc bầu cử TT giữa G.Bush và Gore.
Tóm lại con người không ai có thể sống ngoài lịch sử, cho dù đó chỉ là những
trang sử đẳm đầy máu lệ. Bởi vậy bất cứ ai cũng đều hãnh diện về những trang sử
vẽ vang của dân tộc mình. Ðó mới chính là lý tưởng và sự chiến thắng sau cùng của
cuộc chiến VN vừa qua
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tưởng Niệm Quốc Hận 30-4-2014
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết