Tưởng niệm biến cố
30-4-1975, nhìn lại lịch sử:
VÌ SAO CÓ CUỘC NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ QUỐC
– CỘNG TẠI VIỆT NAM?
Thiện Ý
Theo nhận định của chúng
tôi có hai nguyên nhân Chủ yếu đã đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại
Việt Nam: Nguyên nhân lịch sử và nguyên nhân mâu thuẫn đối kháng giữa ý thức hệ
quốc gia và ý thức hệ cộng sản trên bình diện lý luận và thực tiễn.
I/- NGUYÊN NHÂN LỊCH
SỬ.
Chính bối cảnh đất nước bị ngoại xâm và
nhu cầu kháng chiến giành độc lập của nhân dân Việt Nam đã đưa đến cuộc nội
chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam.
Thật vậy, trước hết một cách tổng quát:
Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến trường kỳ của
các thế hệ quốc dân Việt Nam yêu nước nhằm đánh đổ chế độ thuộc địa, giành độc
lập, tự chủ cho dân tộc đã là bối cảnh du nhập và phát triển ý thức hệ cộng sản
tại Việt Nam.
1.- Từ ý thức hệ quốc gia
chủ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thật vậy, vào giữa thế kỷ 18, Châu Âu kỹ
nghệ hóa cần nhiều nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hóa phục vụ cho nhu
cầu phát triển chính quốc, các đế quốc đã thi nhau tiến hành các cuộc chiến
tranh xâm lược mở rộng thuộc địa. Đế quốc Anh sau khi củng cố quyền thống trị
trên Ấn Độ, đã thôn tính Úc châu, Tân Tây Lan, chuẩn bị thực hiện ý đồ xâm lược
Trung quốc qua cuộc Chiến Tranh Nha Phiến. Trong khi đó, thực dân Pháp đã chiếm
Algerie và đang đi tìm căn cứ trên bờ biển Trung quốc, làm bàn đạp thôn tính các
nước trong vùng.
Ngày 31-8-1858, Chiến Hạm Pháp đã bắn phá
cửa biển Đà Năng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để sau đó từng
bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam, bành trướng qua Lào và Kampuchia.
Tất nhiên, không phải là dễ dàng khi thực hiện quá trình xâm lược này
(1958-1884). Trên thực tế, thực dân Pháp đã phải đương đầu với các cuộc kháng
chiến liên tục và đều khắp đất nước của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Trong những ngày đầu, lịch sử Việt Nam ghi
nhận có các cuộc nổi dậy của nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Trung Trực,
Thủ Khoa Huân và nhiều sĩ phu yêu nước Miền Nam. Tiếp đến là các phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp giành độp dưới ngọn cờ “Cần Vương, Văn Thân”,
nối tiếp nhau trong nhiều thập niên cuối thế kỷ XIX. Hầu hết các nhà lãnh đạo
các phong trào này đều xuất thân trong hàng ngũ quan lại chế độ quân chủ chuyên
chế Việt Nam như Tôn Thất Thuyết,Phan Đình Phùng,Hoàng Hoa Thám, Cao Thắng,
Nguyễn Thiện Thuật…Vì thế ý thức hệ quốc gia chủ đạo kháng chiến giai đọan này
là ý
thức hệ thần quyền Thiên Mệnh của Khổng giáo.Theo đó từ nhà lãnh đạo đến
quần chúng tham gia kháng chiến có chung ý tưởng hy sinh đánh đuổi thực dân
Pháp giành lại ngai vàng cho Vua, cho hoàng tộc để tái lập quyền cai trị độc
lập tự chủ của người Việt Nam.
Bởi vì hệ tư tưởng quân chủ chuyên chế Khổng
Mạnh, du nhập từ Trung quốc, dựa trên thuyết thần quyền thiên mệnh: Vua là
Thiên tử,được Trời trao ban quyền cai trị muôn dân, là chủ đất nước, là biểu
tượng quốc gia. Đạo quân thần đã đưa đến hệ quả là lòng
“Trung quân, ái quốc”, là trung thành, hy sinh sống chết bảo vệ
ngai vàng cho Vua tức là yêu nước vậy…
Bước qua đầu thế kỷ XX,trào
lưu tư tưởng dân chủ Phương Tây đã thẩm nhập vào Việt Nam và trở thành ý
thức hệ thứ hai chủ đạo kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc. Những tác
phẩm nổi tiếng như “L’Esprit Des Lois”, “Contrat Social” của Montesquieu và J.J
Rousseau cũng như những tư tưởng tự do, công bình, bác ái, nhân quyền, và các
quyền dân chủ, dân sinh khởi đi từ cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã ảnh hưởng đến
chiều hướng đấu tranh của các nhà ái quốc Việt Nam.
Thêm vào đó là trào lưu tư
tưởng của các nhà dân chủ Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với
một nước Nhật canh tân tiến đến tự cường và trở thành một cường quốc Á Châu
cũng đã là những tấm gương sáng có sức thu hút mạnh mẽ giới sĩ phu yêu nước
ViệtNam.
Thực vậy, từ đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt
Nam bắt đầu ghi nhận` tư tưởng chủ đạo kháng chiến chống Pháp đi từ trung dung “Nửa
quân chủ, nửa dân chủ” đến “dân
chủ hoàn toàn”.
Phong trào Đông Du (1906-1908) của cụ Phạn
Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) của cụ Phan Chu Trinh và Việt Nam Quang
Phục Hội của Cụ Phan Bội Châu…là những phong trào kháng chiến theo chiều hướng
trung dung.Theo chiều hướng này, cuộc kháng chiến giành độc lập diễn ra dưới
nhiều hình thức, đặt nặng vấn đề giáo dục quần chúng, nâng cao dân trí, cổ vũ
lòng yêu nước, chuẩn bị về lâu về dài cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang sau này
khi đủ thế lực và thời cơ thuận lợi.
Chủ trương của trào lưu kháng chiến này
là, sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, sẽ thiết lập một chế độ quân
chủ
lập
hiến
kiểu Nhật Bổn và một số quốc gia khác trong vùng như Thái Lan, Mã Lai…Ước mơ
của các nhà lãnh đạo kháng chiến lúc này là giành được độc lập rồi, vẫn giữ lại
ngai vàng cho Vua để trọn đạo “Quân Thần”, đồng
thời cũng muốn bảo vệ quyền dân chủ cho nhân dân bằng một
bản hiến pháp thành văn. Đây là một chủ trương nhằm dung hòa quyền lợi giữa
giai cấp thống trị và nhân dân bị trị, giúp cho các nhà lãnh đạo xuất thân từ
“Cửa Khổng, sân Trình” cảm thấy an tâm trọn đạo thánh hiền.
Nhưng rồi ước mơ
này cũng đã không thực hiện được. Các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng
trung dung cũng đã lần lượt bị thất bại, nhường chỗ cho một khuynh hướng tích cực
hơn xuất hiện trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo theo Tây học.
Điển hình cho khuynh
hướng này có Nguyễn Thái Học và các đồng chí của Ông,
đã hình thành một chính đảng kiểu Tây Phương đầu tiên: “Việt
Nam Quốc Dân Đảng”(1923-1924).Do chịu ảnh hưởng trực tiếp về
tư tưởng và tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ
trương đấu tranh bằng bạo lực quân sự kết hợp với sức mạnh nổi dậy của quần
chúng để giành độc lập dân tộc.Sau đó thiết lập chế độ dân chủ theo mô hình “Tam
dân chủ nghĩa” của Tôn Văn và vận dụng nguyên tắc phân quyền của hệ dân
chủ Phương Tây, để dân chủ, dân quyền được tôn trọng, dân sinh được ấm
no, hạnh phúc.
Với lòng yêu nước nồng nàn, bầu nhiệt
huyết tuổi trẻ, năm 1930 lãnh tụ Nguyễn Thái học và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa võ trang cướp chính quyền ở Yên Báy. Cuộc khởi nghĩa
này đã không thành công, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của Ông đã hiên ngang
bước lên đoạn đầu đài nhận lãnh cái chết anh hùng cho “Tổ
Quốc quyết sinh”. Mục tiêu và ước mơ tối hậu của các nhà ái
quốcViệt Nam tuy chưa thành công, nhưng “đã thành nhân”
như lời khẳng định trước đó của lãnh tụ Nguyễn Thái Học.
2.- Đến ý thức hệ cộng
sản chủ đạo kháng chiến chống Pháp.
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy của Việt Nam
Quốc Dân Đảng thất bại, thực dân Pháp đã thực hiện các cuộc ruồng bắt và đàn áp
dã man các nhà ái quốc việt Nam. Từ đây khuynh hướng đấu tranh giành độc lập
theo hệ
tư tưởng quân chủ Đông phương và hệ tư tưởng dân chủ Tây
Phương như
tạm thời lắng dịu.Một khuynh hướng đấu tranh chống thực dân Pháp theo hệ tư
tưởng Marxism-Leninnism, tức ý thức hệ cộng sản
xuất hiện. Khuynh hướng này có mục tiêu tối hậu khác với mục tiêu tối hậu của
khuynh hướng chống thực dân Pháp trước đó, gọi chung là ý thức hệ quốc gia. (Quân
chủ
và dân
chủ).
Nghĩa là, nếu khuynh hướng theo ý
thức hệ quốc gia có mục tiêu tối hậu của cuộc kháng chiến chống pháp là giành
độc lập dân tộc, để sau đó thiết lập một chế độ quân chủ hay quân chủ lập hiến
hoặc một chế độc dân chủ đại nghị, thì
khuynh hướng theo ý thức hệ cộng sản chỉ coi “Giành độc lập”
là mục tiêu giai đoạn. Mục tiêu tối hậu của
khuynh hướng ý thức hệ cộng sản là đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào hệ
thống cộng sản quốc tế để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, tiến tới một “Thế giới
đại đồng”, không còn biên giới quốc gia, vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế(cộng
sản hóa toàn cầu).
Thật vậy,lãnh tụ của cuộc kháng chiến
chống Pháp theo hệ tư tưởng cộng sản là Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc
hay Hồ Chí Minh.
Theo tài liệu tuyên truyền của Việt cộng,
thì ông Hồ Chí Minh khởi đầu là người theo chủ nghĩa yêu nước mang ý thức hệ
quốc gia trước khi trở thành môn đồ của chủ nghĩa cộng sản.Xuất thân từ một nền
giáo dục nửa Nho học, nửa Tây học, biết đọc biết viết, không học vị. Năm 1911
Ông Hồ đã ra khỏi nước, bôn ba nhiều năm ở hải ngoại, nơi các nước đế quốc tư
bản cũng như thuộc địa để tìm đường cứu nước…Sau cùng Ông Hồ đã “tìm ra được
con đường cứu nước”; rằng “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác ngoài con đường Cách mạng Vô sản”(1).
Ông Hồ vui mừng và thốt lên câu nói này có lẽ là vì Ông tin tưởng vào thế đối
cực hình thành sau cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917, có thể dựa vào Liên Xô
như một thế đối trọng sẽ đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến Thành Công. Thực
tế sau này quả Ông Hồ đã thành cộng sau cuộc kháng chiến chín năm dưới sự chủ
đạo của đảng CSVN nhờ thế dựa vào cộng sản quốc tế.Thế nhưng nếu cái gọi là
cuộc chiến thắng Điện Biên kết thúc chín năm kháng chiến, đã chấm dứt được chế
độ thực dân Pháp thì Ông Hồ và đảng CSVN đã đưa đất vào vòng nô lệ mới trong
gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa, với hai cực cường Liên Xô – Hoa Kỳ, đã xô đẩy nhân dân và đất
nước vào một thảm trạng mới, đã gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện, di hại lâu
dài cho dân cho nước sau này.Chính vị hệ quả này chúng tôi cũng như nhiều người
khác cho rằng cuộc kháng chiến 9 năm do Ông Hồ và đảng CSVN phát động chủ đạo
tiến hành là sự phí phạm xương máu nhân dân, tài nguyên đất nước không cần
thiết, vì Việt Nam vẫn có thể được độc lập bằng phương cách hòa bình vào thời
điểm chủ nghĩa thực dân cũ đã bước vào thời kỳ cáo chung, nhiều thuộc địa khác
không cần đổ máu cũng đã được trao trả độc lập cùng thời hay sớm hơn, tiêu biểu
như đế quốc Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ ngày 15-8-1947, cho Pakistan ngày
14-8-1947, cho Afghanistan ngày 14-9-1949; đế quốc Hòa Lan trao trả độc lập cho
Indonesia ngày 14-8-1949…
Trong khi trước đó, cuộc kháng chiến chống
pháp dưới sự lãnh đạo của các nhà ái quốc theo ý thức hệ quốc gia sở dĩ chưa
thành công vì những điều kiện khách quan không thuận lợi nên không tìm được thế
dựa trong bối cảnh độc cực, với các cường quốc đế quốc có chung chủng loại thực
dân chia nhau xâm chiếm các quốc gia nghèo yếu làm thuộc địa khai thác lợi
nhuận. Ngay cả nỗ lực của một số nhà ái quốc Việt Nam như Phan Bội Châu qua
phong tráo Đông Du, muốn tìm thế dựa Nhật Bổn một cường quốc mới trong vùng
Châu Á, mới manh nha đã thất bại.Vì vậy Ông Hồ đã vui mừng đến phát khóc và hét
to một mình như thế trong nhà trọ ở Paris Pháp quốc, sau khi đọc được tác phẩm
kinh điển nổi tiếng của Vladimir Lenine “Luận Cương Chính Trị Tháng Tư” (2).
Nội dung tác phẩm này viết về vấn đề thuộc địa và các dân tộc bị áp bức. Ông Hồ
như được giác ngộ bởi lý tưởng cộng sản và đã gia nhập đảng Cộng Sản Pháp
(1920), qua Liên Xô, được giáo dục, đào tạo để trở thành môn đồ trung thành của
chủ nghĩa Cộng sản.Từ đó Ông Hồ liên lạc , tuyên truyền, huấn luyện, tuyển
chọn,móc nối được một số đồng chí, tiến tới thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam tại Hongkong (3-2-1930).
Theo chính cương và sách lược đấu tranh
của Cộng đảng Việt Nam được thông qua trong Đại Hội thành lập đảng thì có hai
mục tiêu đấu tranh trường kỳ: Đánh đuổi thực dân Pháp để giải quyết mâu
thuẫn dân tộc(với thực dân Pháp) và cộng sản hóa Việt Nam để giải
quyết mâu thuẫn giai cấp ( giữa giai cấp công nhân với tư bản, nông dân
với địa chủ, giai cấp thống trị với bị trị…).
Để đánh đuổi thực dân
Pháp,Cộng đảng Việt Nam đã tiến hành cuộc “Cách mạng Dân tộc Dân
chủ Nhân dân”. Để cộng sản hóa Việt
Nam, Cộng đảng Việt Nam đã tiến hành “cách mạng Xã hội Chủ
Nghĩa”.
Lực
lượng chủ yếu để tiến hành các cuộc cách mạng trước sau này, theo lý luận là
giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và nhân dân lao động nghèo, dưới
sự lãnh đạo độc tôn của Cộng đảng Việt Nam.Phương thức đấu tranh chủ yếu là “bạo
lực cách mạng” (bao gồm bạo lực quân sự kết hợp với bạo
lực chính trị), được thực hiện dưới nhiều hình thức: bí mật, công khai,
hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp, bằng mọi thủ đoạn cần thiết để thành
đạt mục tiêu theo phương châm “Cứu cánh biện minh cho hành động”.
Trên thực tế, từ ngày thành lập Cộng Đảng
Việt Nam, dù có lúc thay tên đổi họ (Đảng Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao Động
Việt Nam), thậm chí có lúc do tình hình thực tế đòi hỏi phải tuyên bố tự
giải tán, nhưng qua cuộc kháng chiến chống Pháp (1930-1954),cuộc chiến tranh
Quốc-Cộng (1954-1975) và qua 55 năm kể từ ngày thành lập đảng CSVN đến khi thực
hiện chính sách “Đổi Mới” (1930-1985) sau khi nắm quyền thống trị cả nước, Việt
cộng đã thực hiện khá sát chính cương và sách lược trên đây của họ. (Thực hiện
như thế nào, chúng tôi sẽ trình bầy chi tiết trong tài liệu nghiên cứu lý luận
“Cuộc Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc – Cộng Tại Việt Nam”).
II/- NGUYÊN NHÂN MÂU
THUẪN ĐỐI KHÁNG GIỮA Ý THỨC HỆ QUỐC GIA VÀ Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN
Mâu thuẫn đối kháng (một mất một còn)
giữa ý thức hệ quốc gia và ý thức hệ cộng sản đã là nguyên nhân chủ yếu thứ hai
đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc- Cộng tại Việt Nam, giữa người Việt theo
ý thức hệ quốc gia (Việt quốc) và người Việt theo ý
thức hệ cộng sản (Việt cộng). Mâu thuẫn đối kháng này
được thể hiện trên hai bình diện lý luận và thực tiễn.
1.- Trên bình diện lý luận,
chủ nghĩa cộng sản dù có là một lý tưởng cao đẹp có tính mê hoặc lòng người,
nhất là những người trẻ tuổi vốn say mê lý tưởng vào đời, nhưng không tưởng
theo nghĩa một lý tưởng không thể thực hiện được. Vì vậy, những cá nhân (đảng
viên cộng sản) hay tập đoàn (đảng
cộng sản) ở bất cứ quốc gia nào, khi vận dụng chủ nghĩa cộng sản
vào thực tiễn đã chỉ là tai họa thảm khốc, phá hủy mọi nền tảng đạo đức, văn
hóa dân tộc, mất độc lập tự chủ, đưa nhân dân dân vào cảnh mất tự do, đói khổ,
lầm than, di hại nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho nhiều thế hệ nhân
dân,phân hóa dân tộc của quốc gia ấy.
Rốt cuộc, cái gọi là “cuộc
cách mạng vô sản” để xây dựng “một xã hội không người
bóc lột người” (Từ xã hội: xã hội chủ nghĩa,còn giai
cấp, đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn nhà nước…)
chỉ là chiêu bài lừa mị của một tập đoàn thống trị độc quyền, độc tôn, độc tài (đảng
cộng sản) để xây dựng “một
xã hội người (với thiểu số cán
bộ đảng viên CS) độc quyền áp bức bóc lột người (tuyệt
đại đa số nhân dân)” chưa từng có trong lịch sử hình thành các
xã hội loài người có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu
nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản…theo duy vật sử quan Marxism)
2.-Trên bình diện thực tiễn,
những người cộng sản Việt Nam (Việt cộng) nói riêng, cộng sản
quốc tế nói chung, đã tin theo và vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tế nước
ta, (cũng như một số nước khác trên thế giới),đã gây tác hại nghiêm
trọng, tòan diện, lâu dài trên con người, dân tộc và đất nước Việt Nam trong
nhiều thập niên qua và di hại lâu dài cho Dân tộc và Đất nước Việt Nam qua
nhiều thế hệ sau này.
Vì tin và hành động theo
“ý
thức hệ cộng sản” Việt cộng đã đánh mất bản sắc dân tộc,
tách rời khỏi lịch sử chính thống quốc gia Việt Nam và dùng “Tính
giai cấp” và lăng kính “đấu tranh giai cấp” để
phê phán chủ quan, không trung thực về các triều đại và các anh hùng hào kiệt
của lịch sử Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và chối bỏ Tổ Quốc Việt Nam, để chọn và
tôn thờ cái gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”
là tổ quốc của mình. Và vì vậy cộng sản Việt Nam sẵn sàng hy sinh quyền lợi của
Tổ Quốc và dân tộc việt nam cho quyền lợi của đảng Cộng sản Việt Nam và quốc tế
cộng sản.
Vì chủ trương hận thù và
đấu tranh giai cấp Việt cộng đã phá đổ mọi quan hệ xã hội
giữa người với người, đã không ngần ngại thủ tiêu, bắn giết và làm mọi điều tàn
ác với với những người anh em cùng mầu da sắc máu, chung nguồn gốc Việt tộc với
họ,theo phương châm “cứu cánh biện minh cho hành động”.(như đã
làm trong giai đoạn Chiến Tranh Quốc Cộng 1954-1975 điển hình là đã tàn sát,
chôn sống hàng ngàn quân dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa trong biến cố Tết Mậu
Thân 1968 ở Huế và các nơi khác trong suốt cuộc chiến tranh Quốc- Cộng)
Vì chủ trương vô thần,
chết là hết, nên Việt cộng không sợ hậu quả, đã thẳng tay đàn áp những người
dân hữu thần, dùng mọi thủ đoạn, phương cách dù bất nhân, tàn bạo nhằm tiêu
diệt mọi tín ngưỡng, mọi tôn giáo, vốn là nhu cầu quan yếu trong đời sống tâm
linh của con người, và là một thực thể xã hội góp phần vào nền đạo đức xã hội
nhân bản qua mọi thời đại.
Thực tế là, sau khi nắm được quyền thống
trị toàn đất nước 39 năm qua và trước đó trên một nửa nước Miền Bắc, đảng Cộng
sản Việt Nam đã áp đặt một chế độ độc tài toàn trị, với một đảng duy nhất nắm
quyền thống trị (đảng CSVN) với một nhà nước “Chuyên
chính vô sản” (tức độc tài cộng sản) bác đọat
quyền tự do, dân chủ và các nhân quyền cơ bản của nhân dân, thông qua “ một
chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng cộng sản Việt Nam”, một
công cụ trấn áp nhân dân, duy trì và bảo vệ quyền cai trị độc tài, độc tôn, độc
quyền với những ưu quyền đặc lợi của một giai cấp thống trị mới, giai cấp
cán bộ đảng viên cộng sản,chia nhau nắm quyền chia lợi ở các cấp, các ngành
trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Nghĩa là một giai cấp thiểu số (khoảng
3 triệu đảng viên CS) thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam (trên
90 triệu dân)từ thượng tầng quốc gia đến hạ tầng cơ sở.
Đó là những lý do khái quát, căn bản trên
bình diện lý luận và thực tiễn, khiến những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc
gia (Việt
quốc),
hay là những người Việt Nam không cộng sản từ quá khứ đến hiện tại, từ trong
nước ra hải ngoại, đã và vẫn đang tiếp tục con đường chống cộng cho đến khi
thành đạt mục tiêu lý tưởng theo ý thức hệ quốc gia của mình.
III/- KẾT LUẬN:
Cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc – Cộng tại
Việt Nam phát sinh từ hai nguyên nhân: Bối cảnh lịch sử và mâu thuẫn đối kháng giữa
ý thức hệ Quốc gia và ý thức hệ Cộng sản.
Nguyên nhân lịch sử bắt nguồn từ sự thất
bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập dưới sự lãnh đạo của các nhà
ái quốc theo ý thức hệ quốc gia, do tự mình không đủ sức, lại không tìm được
hậu thuẫn quốc tế tạo thế đối trọng khả dĩ thay đổi cán cân lực lượng giữa
kháng chiến và nhà cầm quyền thực dân Pháp, khi mà hầu hết các cường quốc đế
quốc lúc bấy giờ có chung chủng loại thực dân phân chia nhau xâm chiếm các thuộc
địa.
Nỗ lực của một số nhà ái quốc theo ý thức hệ quốc gia như nhà ái quốc Phan
Bội Châu muốn dựa vào cường quốc Nhật Bổn trong vùng Châu Á qua Phong Trào Đông
Du,vì lầm tưởng thuyết “Đại Đông Á” của người Nhật(Người Châu Á giúp người
Châu Á) nên thực tế đã thất bại
Chính sự bế tắc này đã dẫn Ông Hồ Chí Minh
từ một người theo chủ nghĩa ái quốc đến với chủ nghĩa cộng sản khi tưởng rằng đã
tìm được thế dựa quốc tế cho công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc từ Liên
Xô và cộng sản quốc tế. Chính vì vậy Ông Hồ đã vui mừng đến phát khóc và hét to
một mình trong nhà trọ ở Paris Pháp quốc rằng “Muốn cứu nước, giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường Cách mạng Vô sản”.
Thế nhưng chính sự lựa chọn lầm lẫn này
Ông Hồ đã đưa đất nước vào một cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc – Cộng tại Việt
Nam kéo dài trong nhiều thập niên qua đến nay vẫn chưa chấm dứt. Trên thực tế
nó đã trở thành tai họa cho nhân dân và đất nước, đã thể hiện ý nghĩa trái
ngược với ý nghĩa câu nói trên, rằng “Muốn phá nước và xích hóa
dân tộc, không có con đường nào khác hơn, ngoài con đường cách mạng vô sản
”./.
Thiện Ý
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết