--
Kính
Chuyển
MG/HD
NGÀY
30-4-1975 ,
TỔNG
THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ CỘNG SẢN BẮC VIỆT BẮT TẠI DINH ÐỘC LẬP ?
MƯỜNG
GIANG
Từ năm 1967 về sau, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, lan rộng tới tận miền Bắc,
khiến Hà Nội phải xây thêm căn cứ D-67, vừa làm nơi trốn bom đạn oanh tạc của
các chóp bu, thật vô cùng khủng khiếp do Mỹ thả. Ðây cũng là nơi họp tuyệt mật,
của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương Ðảng. Theo Võ Nguyên Giáp viết trong “Tổng
hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, thì từ tháng 4-1973 Bộ Thống soái tối
cao, đã giao cho Bộ Tổng tham mưu, lập một tổ đặc biệt gồm Lê Trọng Tấn, Vũ
Lăng, Võ Quang Hồ và Lê Hữu Ðức, nghiên cứu kế hoạch tổng tấn công cưỡng chiềm
VNCH. Bản dự thảo đầu tiên ra đời ngày 5-6-1973 và sau đó qua bảy lần xét duyệt,
cuối cùng vào ngày 30-9-1974, mới được Bộ Chính trị nghị quyết “Nếu thời cơ đến
vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức tổng tấn công Miền Nam”.
Ngày 18-12-1974 tới 8-1-1975, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, để quyết định lần
cuối cùng kế hoạch trên. Sau khi chiếm được Thường Ðức (Quảng Nam) và Phước
Long, mà không thấy phản ứng nào từ Mỹ, nên ngày 9-1-1975, Quân ủy trung ương họp
với quyết định mở chiến dịch 275, tấn chiếm Ban Mê Thuột, do Văn Tiến Dũng, từ
Bắc vào Nam chỉ huy trực tiếp trận địa.
Sau khi Cao nguyên và Quân đoàn 1 của VNCH thất thủ, tại Hà Nội vào ngày
31-3-1975, Cộng Sản Bắc Việt quyết định lập Bộ Chỉ huy và Ðảng Ủy Sài Gòn, do
Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng chỉ huy. Ngày 7-4-1975, Võ Nguyên Giáp
ban lệnh bằng mọi cách phải đánh chiếm cho được Miền Nam. Ngày 14-4-1975, mở
chiến dịch HCM. Ngày 25-4-1975, Quân Ðoàn 1 Cộng sản từ Bắc Việt vào và đúng 17
giờ ngày 26-4-1975, mở đầu cuộc tấn công vào Sài Gòn bằng 5 cánh quân. Ngày
28-4-1975, Ðại tướng Dương Văn Minh thay Trần Văn Hương làm Tổng thống, để trưa
ngày 30-4-1975, ra lệnh toàn dân, toàn quân VNCH buông súng đầu hàng Cộng sản.
Trong lúc đó Miền Nam VN đã bị Hoa Kỳ và Thế giới tự do bỏ rơi tức tưởi, phải một
mình đơn độc tiếp tục cuộc chiến chống xâm lăng trước mặt. Ðồng lúc lại phải hứng
chịu những đòn thù thê thảm, của bọn con buôn chính khứa, cứ tàn nhẩn đạp bừa
trên xác lính, để múa rối bỉ ổi trên sân khấu chính trị. Dữ dằn nhất vẫn là bọn
trí thức khoa bảng, tự xưng là thành phần thứ ba, đã đi đêm với Bắc Việt từ
lâu, gồm có Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, Hồ Văn Minh, Nguyễn Văn Hảo,
Nguyễn Xuân Oánh.. Tháng 3-1975, tình hình VNCH trở nên nguy ngập sau khi Ban
Mê Thuột thất thủ. Ngô Công Ðức, dân biểu Quốc hội VNCH phản bội đất nước, sống
lưu vong tại Pháp, đã vội vã sang Mỹ đòi chấm dứt viện trợ, thay ngựa bằng lá
bài Dương Văn Minh, để chuẩn bị đầu hàng. Ðó là lý do truất phế Trần Văn Hương
sau 5 ngày làm Tổng thống, kế vị TT.Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975.
Ngày 27-4-1975, đúng 17 giờ 5 phút, trong phòng khánh tiết của Dinh Ðộc Lập,
đang diễn ra buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống VNCH, giữa Trần Văn Hương và
Dương Văn Minh. Ðây là lần bàn giao tổng thống lần thứ hai xảy ra chưa đầy 10
ngày, trong chính quyền Nam VN, giữa lúc đất nước đã mất hơn hai phần ba lãnh
thổ và nguy ngập nhất là nửa triệu quân Bắc Việt đã ập sát Sài Gòn.. Theo phóng
viên Ðài Phát Thanh Sài Gòn, mô tả hôm đó, thấy có sự hiện diện của ba Phó Thủ
Tướng Trần Văn Ðôn, Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Ngưỡng, Quốc Vụ Khanh Nguyễn
Xuân Phong, thêm Chủ Tich Thượng Viện Trần Văn Lắm và nhiều Nghị Sĩ, Dân Biểu
như Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Ân, Trần Cao Ðể, Mã Sái, Hồ Ngọc Cứ, Ðinh Văn Ðệ,
Huỳnh văn Cao, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. và cả Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện
là Trần Văn Tiết. Ngoài ra còn có hơn 100 phóng viên và nhiếp ảnh tham dự, làm
cho quang cảnh buổi lễ bàn giao thật sôi nổi. Vậy mà Tân Tổng Thống chỉ mới giữ
chức chưa đủ hai ngày, thì đã vội vã đầu hàng giặc, khiến cho đất nước và đồng
bào, suốt ba mươi hai năm qua, sống kiếp nô lệ mới cay đắng ngậm ngùi, dưới ách
thống trị siêu phong kiến của bọn đầu sỏ Cộng Sản Bắc Việt, gìa nua độc ác. Vì
thế có thể nói rằng, chưa có đời nào trong giòng sử Việt, cả nước phải chịu nhiều
đau khổ như hiện tại.
Là người của một giai đoạn lịch sử cận đại, Tướng Dương Văn Minh, chỉ trong
vòng 12 năm ngắn ngủi, đã là nhân vật chủ chốt, hai biến cố quá ư trọng đại của
cận sử VN. Ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam, ra lệnh hạ
sát anh em Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 30-4-1975, lợi dụng chức vụ tổng thống
và quyền Tổng tư lệnh quân đội, bắt cả nước đầu hàng đế quốc đệ tam cộng sản.
Nay ngồi đọc lại lời phát biểu của TT Trần Văn Hương, trong buổi lễ bàn giao
hôm đó, mới thấy thương xót tận cùng cho người lính chiến VNCH
“Một trang sử mới được mở ra, do Ðại Tướng Dương Văn
Minh viết. Ông Minh nhậm chức lúc này, không những chỉ vì thiện chí, mà còn là
CAN ÐẢM TỪ BỎ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ, vì đã chọn con đường Hòa Giải, Hòa Hợp để có
Hòa Bình..”
Ðúng lúc lễ bàn giao bắt đầu, thì trên bầu trời, phản tặc Nguyễn Thành Trung,
lái và hướng dẫn 5 phản lực A37 của VNCH bỏ lại, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất,
đồng thời đặc công Bắc Việt cũng lội vào bờ, chiếm kho tiếp liệu của Usaid bỏ lại,
sát chân cầu Sài Gòn. Nhiều người lúc đó, cho là Ðại Tướng Dương Văn Minh bị bệnh
tâm thần, nên mới tin tưởng là cộng sản Hà Nội sẽ ngưng bắn, trong khi chúng sắp
chiếm được miền Nam. Ngây thơ hơn hết, là việc Dương Văn Minh, đêm 27-1-1975,
đã mời Ngô Công Ðức lúc đó đang lưu vong bên Pháp, về làm Bộ trưởng thi hành Hiệp
định Ba Lê 1973.
Hỡi ôi, khi người Mỹ còn chiến đấu ở VN, với tiềm năng quân sự to lớn, nên lúc
nào nếu muốn, cũng có thể san bằng tiêu diệt Bắc Việt dễ dàng bằng bom đạn kể cả
bom nguyên tử. Thế nhưng trong các lần hội nghị, để tìm giải pháp chấm dứt chiến
tranh bằng con đường hòa bình. Trăm lần như một, người Mỹ đều bị Bắc Việt lừa bịp,
tới lần cuối cùng bị TT Nixon ra lệnh oanh tạc và phong tỏa Miền Bắc kinh khiếp
chưa từng có. Vậy mà sau khi hết bom rơi, Hà Nội vẫn xạo dù chịu ký vào bản hiệp
ước ngưng bắn tại Paris tháng 2-1973, khi mấy trăm ngàn bộ đội, được Mỹ cho
phép ở lại tại chỗ, để tiếp tục xâm lăng Miền Nam.
Trong lúc đó, khi Ðại Tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng Thống VNCH vào
chiều ngày 28-4-1975, thì đất nước đang ở vào giờ thứ 25 hấp hối. Vậy chúng ta
có điều kiện gì để mà bắt cộng sản chịu ngưng bắn, để hòa hợp có hòa bình ?.
Nham nhở nhất, là từ sáng ngày 29-4-1975, đài VC lên tiếng phủ nhận luôn chính
phủ Dương Văn Minh mới lên tối hôm qua, đồng thời ra lệnh đánh chiếm Gia Ðịnh-Sài
Gòn.
Sau này Trần Văn Hương có tiết lộ với tác giả “L’Adieu à Sài Gòn” cũng là sử
gia người Pháp Jean Larteguy, rằng sự thật Dương Văn Minh cũng giống như ông,
chẳng có liên lạc được ai bên phía Bắc Việt, để mà hòa hợp hòa giải. Còn Ðại Tướng
Minh cho biết là mình đã tin vào lời của Vũ Văn Mẫu. Rốt cục tất cả đều là những
người mù rờ voi, sau đó ảo tưởng đẻ ra kế hoạch vĩ đại đề cứu nước cứu dân,
trong khi mặt thật là chẳng nắm được gì hết, ngoài bên cạnh có một đám quân sư
xôi thịt xúi bậy làm càn.
Nhân ngày kỷ niệm 17 năm quốc hận vào năm 1992, tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Ðàn của
người Việt Hải Ngoại, số đặc biệt, có đăng những bài bút chiến, của Bùi Tín,
Bùi văn Tùng, Nguyễn Trần Thiết, Bùi Biên Thuỳ,.. quanh hai chủ đề : “Ai là người
đầu tiên vào Dinh Ðộc Lập ? và Ai là người có thực quyến lúc đó, nhận sự đầu
hàng của TT và Nội Các Dương Văn Minh ?”
Mượn lại danh từ của những người cộng sản, trong cuộc đấu võ mồm vô duyên trên,
là họ đã biếm xưng lịch sử. Vì thật ra cả bọn chẳng có ai là người đầu tiên bước
vào Dinh Ðộc Lập. Mà từ xa lắc xa lơ, nơi này đã có hằng tá điệp viên cao cấp Bắc
Việt như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Hiển, Lê Ðình Ẩn,
Ðinh văn Ðệ đã bước chân vào rồi..
Riêng việc đầu hàng cộng sản của Dương Văn Minh, thì cũng chẳng có gì là lạ, vì
Ðại Tướng là Thủ Lãnh của Lực Lượng Thứ Ba, có chủ trương Phản Gián qua lớp vỏ
Hòa Giải, để đầu hàng giặc từ lúc chưa được lên ngôi Tổng Thống vào những ngày
cuối tháng 4-1975. Có khác chăng, là phải đóng kịch đầu hàng như thế nào, để
sau này trước Tòa Án Lương Tâm và trên trang lịch sử, Tổng Thống Dương Văn
Minh, được trắng án và tiếng thơm là người yêu nước, vì đã dám hy sinh ở lại giữa
chốn ba quân, trong lúc giặc xâm lăng đã ập sát biên thành.
Vì vậy từ lúc nhận lời đuổi Mỹ, tới khi lên đài ra lệnh cho quân đội buông súng
rã ngũ, thời gian từ trưa 29-4-1975 cho tới trưa 30-4-1975, tổng thống không hề
chợp mắt. Ðây là thời gian dài nhất trong đời làm chính trị của một vị nguyên
thủ cuối cùng của VNCH, tuy ngắn ngủi nhưng lại bị tai tiếng nhất trong dòng Việt
Sử cận đại.
Nhân ngày kỷ niệm 30 năm (4/1975 - 4/2005), cả nước VN được sống trong thiên
đàng xã nghĩa. Dịp này, trên các báo Khoa Học Phổ Thông (18) và Thế Giới Mới
(631-632), xuất bản tại thành Hồ, có Phùng Bá Ðạm lớn tiếng về cái gọi “Bắt Tổng
thống Dương Văn Minh và Nội các Chính quyền Sài Gòn” vào trưa ngày 30-4-1975 tại
Dinh Ðộc Lập. Ðặc biệt trong những bài viết trên, không hề nhắc tới nhân vật
Bùi Tín, một thời qua tập sách “Sài Gòn Trong Ánh Chớp Chói Lọi Của Lịch Sử” ,
lúc nào cũng to tiếng, nhận là mình cho Dương Văn Minh đầu hàng.
Vậy đâu là sự thật vì Tổng Thống Dương Văn Minh giờ đã mất, còn đồng bào cả nước
từ ấy đến nay, sống dưới thiên đàng xã nghĩa, sau hàng rào kẽm gai, lưỡi lê, họng
súng, nên chỉ dám nói viết những lời đảng dạy, để mà giữ lấy cái mạng cùi rất
mong manh. Vì vậy làm sao, có ai dám nói hết lời, cho dù rất muốn nói, ngoại trừ
những kẻ cò mồi được đảng dựng lên làm đối lập.
1- TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐI TÌM HÒA BÌNH Ở CUỐI ÐƯỜNG
HẦM :
Ba muơi bảy năm qua, kể từ ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH
buông súng rã ngũ, giúp cho cộng sản Bắc Việt, có cơ hội kết thúc sớm cuộc chiến
xâm lăng Miền Nam. Cũng kể từ đó, đã có nhiều tài liệu của mọi phía liên hệ tới
lịch sử, bật mí vén màn bí mật những uẩn khúc một thời, mà nguời Việt đọc tới,
cứ tưởng như đang trong mộng, vì tất cả đều do bàn tay lông lá của ngoại bang
dàn dựng.
Riêng về sự nghiệp của tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh, cũng có
rất nhiều nhưng chỉ có các bài viết của ký giả Pierre Denicron, “SaiGon et Moi”
của cựu đại sứ Pháp là J.M.Mérilon và “Decent Interval” của Frank Sneep.. là viết
rõ ràng nhất.
Theo “Những Ngày Cuối Cùng VNCH” của Nguyễn Khắc Ngữ xuất bản sau năm 1975 tại
Canada, thì ngay khi Bắc Việt vừa chiếm được Cao Nguyên Trung Phần (QĐII) ngày
24-3-1975. Nhận thấy thời cơ đã tới, Phạm Văn Ðồng lúc đó là Thủ tướng Bắc Việt,
đã ra lệnh cho bọn phản tặc ăn cơm Quốc Gia thờ ma Hồ, với cái gọi Lực Lượng Thứ
Ba (LLTB) ở Sài Gòn, công khai ra mặt chống đối Chính Phủ VNCH, qua trung gian
Ðại Sứ Pháp ở Hà Nội là Phillipe Richer. Ðồng noí : “ thế nào ? bao giờ người
Pháp mới hành động ? giờ đã đến lúc các bạn ông trong phe thứ ba ở Sài Gòn, ra
khỏi sự dè dặt, công khai lật đổ Nguyễn VănThiệu, để lập chính phủ mới trung lập,
mới có đủ tư cách nói chuyện thương thuyết với chúng tôi”. Ðó chính là lý do mà
Ðại sứ Pháp tại Sài Gòn, J.M.Mérillon, tiếp xúc với LLTB, áp lực Mỹ thay ngựa hết
TT. Thiệu tới TT.Hương và tìm đủ mọi cách đưa Dương Văn Minh lên ghế Tổng Thống
VNCH.
-NHỮNG NGÀY CHUẨN BỊ LÊN NGÔI TT :
Người Pháp hết bị Nhật rồi tới VN đánh đuổi ra khỏi Ðông Dương một cách nhục
nhã và thảm bại vào năm 1955, nhưng De Gaule và thực dân lúc nào cũng hằng nuôi
ảo vọng trở lại làm trùm miền đất này. Bởi vậy không lúc nào chúng bỏ quên mọi
cơ hội, rình rập và chợp thời cơ để trục lợi. Ðó cũng lý do Hòa đàm Paris được
tổ chức trên đất Pháp . Ngoài ra đây cũng là nơi dung thân của các chính khứa
lưu vong, sào huyệt của phong trào trí thức sinh viên tôn giáo thân Cộng Sản.
Vì vậy suốt cuộc chiến, Hà Nội đã lập ra tại đây 4 Tổ Tuyên truyền, thuộc thành
phần MTGPMN, Phòng Thông tin Bắc Việt và Hội Việt kiều yêu nước XHCN, nhưng tất
cả đều đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục miền Nam, một tổ chức nối dài của
Ðảng Cộng Sản .
Ý đồ lưu manh trên, đã được Mérillon nói một cách công khai và hãnh diện, trong
tác phẩm của mình. Ðó chính là những ngày cuối tháng 4-1975, giữa lúc VNCH đang
hấp hối vì Hoa Kỳ phản bội, đại bàng bỏ trốn, Việt gian đâm sau lưng, tạo dịp tốt
ngàn năm một thuở, cho Pháp nhảy vào ăn ké hốt hụi chót, được hay thua, cũng
không bị lỗ vốn.
Cũng theo lời kể của vị cựu đại sứ Pháp, kể từ ngày 18-4-1975, Hoa Kỳ coi như
đã dứt khoát bỏ VN, qua vai trò của đại sứ Martin. Nóí chung người Mỹ nhờ Pháp
thay thế, lo giùm hậu sự cho cái xác của VNCH, đang hấp hối chờ chôn. Bởi vậy
Mérilon đã liên hệ khắp nơi, kể cả phái đòan của Bắc Việt trá hình là VC, do
Phan Hiền cầm đầu, được Mỹ bảo vệ và cho ở làm gián điệp, nơi trại David nằm
trong phi trường Tân Sơn Nhất, để xúc tiến thành lập một chính phủ MA mới tại
VNCH, gồm ba thành phần Quốc Gia, Cộng sản và Trung Lập, như lệnh của Phạm Văn
Ðồng.
Ðảng đối lập tức Lực lương thứ ba lúc đó, gồm có Thủ Lãnh là Ðại Tướng Dương
Văn Minh, hợp với Huỳnh Tấn Mẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Bá Thành, Huỳnh
Liên, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung.. được Mérilon tiếp kiến ngày 22-4-1975 nhưng tất
cả lũ đều là bọn hề, không có một chút tiếng tăm gì trên trường chính trị lúc
đó, ngoài vai trò làm tay sai phá hoại, nên bị đuổi về vì không đủ điều kiện để
lọt vào mắt của Bắc Bộ Phủ. Riêng Dương Văn Minh được giữ lại, chờ nói chuyện với
Hà Nội, qua đường dây chuyển tiếp của Toà đại sứ Pháp tại Sài Gòn-Tân Gia Ba-Bắc
Việt, do Võ Ðông Giang làm trung gian.
Trong lúc chờ đợi, Ðại sứ Pháp dâng lên tổng thống tương lai, kế sách bình
thiên hạ, trung lập hóa miền Nam, chung qui cũng vẫn là vai trò của Pháp, Trung
Cộng và Nhật sẽ thay chân Mỹ làm chủ nhân ông VNCH.
Ðể Miền Nam mau chết, Hoa Kỳ đã quyết định cắt đứt hết mọi quân viện, khiến Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cắt đứt luôn sự liên hệ với Tòa Ðại Sứ. Bởi vậy,
trong đêm 20-4-1975, thân hành đại sứ Martin phải vào Dinh Ðộc Lập, áp lực TT
phải từ chức tức khắc, bằng tối hậu thư của CS Bắc Việt gửi Mỹ.
Theo luật pháp quốc gia, cũng như Hiến Pháp và Quốc Hội qui định, nên Phó Tổng
thống Trần Văn Hương lên thay thế chức vụ TT. Nhưng cụ Trần Văn Hương, từ trước
tới nay vốn nổi tiếng Diều Hâu, điếc không sợ sấm dù là sấm Chúa hay Phật, một
nhân vật chống Cộng cực đoan, tuổi tuy già nhưng đầu óc tỉnh táo và cương quyết.
Cho nên ông đâu phải là nhân vật tuyển của thực dân Pháp và giặc xâm lăng Bắc
Việt. Bởi vậy Dương Văn Minh được mời ra cứu nước, đó cũng là bài bản tuồng
tích đã được sắp xếp, đâu có gì lạ.
Ðể áp lực với tổng thống Hương nhường ngôi cho Dương văn Minh, tối 24-4-1975, cộng
sản lại ra thông cáo :
1- Trần Văn Hương bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu, phải ra đi.
2-Mỹ phải rút khỏi VN.
3-Không chấp nhận các cơ cấu của VNCH hiện tại.
Như vậy việc Dương Văn Minh lên làm tổng thống, theo thông cáo trên, là do ý của
cộng sản Hà Nội, chứ không phải do Hiến Pháp VNCH quyết định. Ý đồ cướp nước của
giặc đã công khai rõ ràng như ban ngày, vậy mà Tướng Minh và phe nhóm vẫn mù tịt.
Khôi hài nhất là việc ông đại sứ Pháp, cứ liên tục thúc hối Tổng thống Trần Văn
Hương mau từ chức, để Dương Văn Minh kịp cứu dân cứu nước ?
Nhưng cụ Hương tuy tuổi già chứ không lẫm cẫm, hơn nữa lại là thầy của Dương
Văn Minh, nên đâu có lạ gì tánh tình và nhân phẩm của người học trò mình. Theo
“Saigon et Moi”, chính cụ Hương đã trả lời thẳng với Mérilon như sau “Nước Pháp
luôn hái nho trái mùa, tưởng chọn ai, chứ Dương Văn Minh không phải là hạng người
dùng được, trong lúc dầu sôi lửa bỏng”.
Do các lý do trên, TT Hương không muốn trở thành một tội nhân thiên cổ đối với
lịch sử, nên đã khôn khéo trao quyền quyết định cho Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện.
Cuối cùng Tướng Minh được chỉ định làm Tổng Thống thứ tư của VNCH, vào lúc 20
giờ 45’ đêm 27-4-1975, với tỷ số 132/02. Rồi lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng
khánh tiết, Dinh Ðộc Lập lúc 17 giờ 01 phút, chiều ngày 28-4-1975. Lần nữa Việt
Sử cận đại lại được lật sang trang nhưng vô cùng ngắn ngủi, vì tổng thống Dương
Văn Minh, chỉ nắm quyền chưa tới 48 giờ, thì mất nước.
-30-4-1975, NGÀY DÀI NHẤT CỦA TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN
MINH :
Theo các tác phẩm dẫn thượng, thì suốt 40 giờ tham chính, TT Minh và Nội Các của
ông, hoàn toàn làm việc tại Dinh Hoa Lan và dưới sự chỉ đạo kiểm soát của Ðại sứ
Pháp gần như 24/24. Jean Larteguy, tác giả “L’adieu à Saigon”, có viết rằng cụ
Hương trước khi mất, cho tác giả biết, cả ông, Dương Văn Minh lẫn Vũ Văn Mẫu, đều
chẳng liên lạc được gì với cộng sản Bắc Việt.
Ðiều này cho thấy ông Dương Văn Minh cùng phe nhóm, chẳng có một kế hoạch nào để
giải quyết cuộc chiến, mà mặt thật chỉ là những người bị cộng sản Bắc Việt lừa
bịp, phỉnh gạt mà thôi. Bởi vậy khi Dương Văn Minh vừa đăng quang xong lúc 17
giờ ngày 28-4-1975, lập tức VC cho Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường, đồng
thời trở mặt tức khắc.
Trong trại David vào đêm 28-4-1975, Võ Ðông Giang bảo thẳng với phái đoàn
thương thuyết của Dương Văn Minh, gồm Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng
“giờ tấn công đã sẵn sàng, nên Dương Văn Minh chỉ có hai điều kiện : Ðầu hàng
hay không Ðầu hàng”. Cả ba sứ giả bị giữ lại làm con tin. Sáng sớm ngày
29-4-1975, Hà Nội lập tức ra thông cáo, đòi tổng thống Minh cùng nội các từ chức,
giao Miền Nam cho chúng, ban lệnh đuổi Mỹ, ngưng bắn và đầu hàng vô điều kiện.
Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến,
để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thi Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng
trực thăng trên mái nhà. Nhiều phi công vì ham sống, đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội
đang tử chiến dưới đất, để bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để được tới
định cư ở Hoa Kỳ. Theo W.W.Monyer trong “Vietnammese Airforce (1955-1975)”, thì
Mỹ đã thu hồi lại được 132 phi cơ đủ loại, theo lệnh của Phụ tá Bộ trưởng Quốc
Phòng Mỹ, lúc đó là R.Armitage và E.V Marbod. Các đại bàng lớn nhỏ lần lượt chắp
cánh tung trời, từ TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng Viên, Quang rồi Ðồng
Văn Khuyên, Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Văn Toàn.. đều ra đi.
Tóm lại giặc đang còn tận Biên Hòa, Bến Cát, Long Thành, Củ Chi và Long
An.. thì Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư Lệnh KQ, HQ, BTL QĐIII và Biệt Khu Thủ Ðô đã
tan hàng, khiến Tổng Thống Minh như cua gãy càng, đành gọi bọn sâu bọ Nguyễn Hữu
Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Triệu Quốc Mạnh vào dinh, cho mang lon trở lại, để giúp
ngài có đủ can đảm đầu hàng giặc. Tổng thống đã thức trọn đêm, cho tới sáng
30-4-1975, để quyết định một sự kiện lịch sử, mà thật ra khả năng của ông, vốn
không bao giờ có thể vói tới được.
Từ 7 giờ sáng ngày 30-4-1975, Nguyễn Hữu Thái tới Chùa Ấn Quang, yêu cầu Thượng
Tọa Trí Quang, dùng uy tín khuyên Dương Văn Minh đầu hàng. Chính cuộc điện đàm
ngắn ngủi giữa Trí Quang, Nguyễn Hữu Thái và bộ ba Minh, Mẫu và Lý Quý Chung,
khiến Dương Văn minh, quyết định đầu hàng giặc sau một đêm dài thức tron đủ năm
canh.
- NGUYỄN ÐÌNH ÐẨU LÀM SỨ GIẢ HÒA BÌNH :
Vào ngày 30-4-2005 tại Sài Gòn, VC có đưa bốn nhân vật liên quan tới những giờ
phút cuối cùng của VNCH vào tháng 4-1975 lên TV phỏng vấn : Ðó là Nguyễn Hữu
Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh và Nguyễn Ðình Ðẩu. Trong 4 người, Có, Hạnh
và Mạnh là sĩ quan cao cấp của QLVNCH. Riêng Ðẩu là một nhà nghiên cứu địa bạ rất
nổi tiếng, qua các sách đã xuất bản.
Trong một hồi ký đăng trên “Thế Giới Mới số 385”, xuất bản tại thành Hồ vào năm
2000, cho biết mình là một trong 4 sứ giả hòa bình, vào những ngày cuối tháng
4-1975, được Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, mời vào phái đoàn, đến trại David
là nơi đóng quân của Phái đoàn Bắc Việt, trong phi trường Tân Sơn Nhất, để
thương thuyết ngưng bắn. Ðẩu viết :
Ngày 29-4-1975 : Lúc 6 giờ 30 sáng, Ðẩu đi tìm Nguyễn Văn Huyền, mới được TT
Minh phong chức “Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm”. Theo Ðẩu, lúc đó chính phủ
Dương Văn Minh chưa có ai liên lạc hay tiếp xúc với phía bên kia. Do đó Ðẩu
xung phong, cùng với Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng kinh tế thương mại vừa mới
phong), Nguyễn Văn Hạnh (Nhà thầu), Tô Văn Cang (kỹ sư). Lúc 11 giờ 15 cả bọn
vào trại David bằng công xa của Bộ trưởng Diệp, có cận vệ, nhưng trống không vì
phái đoàn VC đã rút đi hết. Lúc 13 giờ 30, theo lệnh Nguyễn Văn Huyền, Ðẩu viết
lời tuyên bố của Chính phủ VNCH, chấp nhận điều kiện của VC đòi hỏi ngày 25-4-1975,
sau đó được đọc trên đài phát thanh Sài Gòn vào lúc 14 giờ 30’.
Lúc 19 giờ cùng ngày, Ðẩu cùng Nguyễn Văn Huyền vào Dinh Hoa Lan gặp Tổng Thống
Minh và cho biết “Giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh” đã không thể thực
hiện được, vì Bắc Việt không chấp nhận trong lúc đang thắng thế quân sự.. Ngày
30-4-1975, lúc 7 giờ 30 sáng, Ðẩu lại theo Nguyễn Văn Huyền, đi trên công xa của
Tổng thống, tới họp tại Văn phòng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, ở số 7 đường Thống Nhất.
Theo Ðẩu, ngay trên xe lúc đó, Huyền nói với đượng sự bằng tiếng Pháp “Phải đầu
hàng”.
Tại Phủ Thủ tướng lúc 8 giờ 30 sáng, bộ ba Minh, Huyền, Mẫu hợp kín. Lúc 9 giờ
15, cũng tại đây, TT Minh dùng điện thoại, đọc lệnh ngưng bắn đơn phương trên
Ðài Phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội. Lúc 9 giờ 30 cùng ngày, bộ ba Minh-Huyền-Mẫu
và nhiều người trong nội các, dùng công xa kéo về Dinh Ðộc Lập, chờ Cộng Sản Bắc
Việt tới giao quyền hành. Dịp này Ðẩu cũng tháp tùng nhưng lại bỏ về nhà, nên
cho biết không chứng kiến những gì đã xảy ra tại Dinh Ðộc Lập, vào lúc 11 giờ
30 khi xe tăng Bắc Việt có mặt ở đây.
3-NGÀY 30-4-1975 TẠI DINH ÐỘC LẬP, TT DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU
HÀNG HAY BỊ QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT BẮT ? :
Theo Nguyễn Khắc Ngữ, thì sau khi cuộc di tản của người Mỹ trên mái nhà chấm dứt
vào 7 giờ sáng. Lúc đó Tổng thống Dương Văn Minh cũng chưa biết là mình phải
làm gì trước giờ thứ 25 của VNCH. Tuy nhiên xung quanh lại có nhiều thành phần
trở cờ, thân hay là VC nằm vùng xúi giục, nhất là Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung,
Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh.. bởi vậy đã ra TUYÊN CÁO ÐẦU
HÀNG, thâu băng ở Dinh Thủ rtướng và được Ðài phát thanh Sài Gòn, phát lúc 9 giờ
sáng, với nội dung :
“Ðường lối chủ trương của chúng tôi là Hòa Giải và Hòa
Hợp Dân Tộc, để cứu vãn sinh mệnh của đồng bào. Chúng tôi tin tưởng sâu-xa vào
sự hòa giải của người VN với nhau, để phải khỏi phí phạm xương máu của người VN
chúng ta . Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh
ngưng nổ súng và ở đâu ở đó . Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ
Lâm thời miền Nam VN hãy ngưng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ gặp Ðại diện
Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, để cùng nhau thảo luận, về việc bàn
giao chính quyền, trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào .”
Sau đó Nguyễn Hữu Hạnh, mới được TT.Dương Văn Minh gắn lon Chuẩn tướng và phong
chức Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH , thế Trung tướng Vĩnh Lộc vừa ra đi ,
để đọc NHẬT LỆNH , bắt QLVNCH phải tức khắc tuân lệnh TT. Dương Văn Minh, buông
súng đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt, làm tan rã ngay QLVNCH, một Quân đội hào hùng,
dũng liệt, lúc đó dù đã bị Hoa Kỳ bán đứng và bỏ rơi nhưng vẫn can trường tiếp
tục chiến đấu với kẻ thù xâm lăng phương Bắc. Những tướng lãnh Phạm Văn Phú,
Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Minh Ðảo, Lý Tòng
Bá, Trần Quang Khôi, Lê Văn Thân, Ðổ Kế Giai.. người quyên sinh chết, kẻ vào tù
khổ sai tại các trại giam ở tận biên giới Việt Bắc. Riêng đồng bào cả nước cũng
cùng người linh, chịu chung số phận hẳm hiu, lầm than suốt ba mưoi hai năm qua,
dưới chế độ tham tàn bạo ngược, mà Tổng thống Dương Văn Minh và phe nhóm, đã vô
tình hay cố ý, lót đường, trải thảm, rước giặc vào tàn sát đồng đội, đồng
bào.qua danh từ hoa mỹ “Hòa hợp, hòa giải dân tộc”.
Ðầu hàng để bom đạn khỏi tàn phá Sài Gòn và tránh bớt đổ máu cho đồng bào, vào
những ngày cuối tháng tư quốc hận. Nhưng Sài Gòn và cả nước vẫn bì tàn phá hủy
diệt, đồng bào cả nước vẫn đổ máu gục ngã, ngay sau khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm
được cả nước ngày 1-5-175. Chết nào cũng chết, tàn phá nào cũng là hủy diệt. Vậy
tại sao không để cho QLVNCH và đồng bào chết một cách oanh liệt khi đối mặt với
giặc thù, mà lại bắt họ và đất nước phải chết đau hận nhục. dưới gót giầy xâm
lược của Ðế quốc Ðệ tam Cộng Sản ?
Có một sự kiện lịch sử cần phải viết nhớ, là lúc Dương Văn Minh cùng phe nhóm vừa
từ Dinh Thủ tướng về Dinh Ðộc lập, đã thấy trong sân cỏ có rất nhiều Chiến xa
M48 của VNCH nhưng đã bị Tổng thống ra lệnh trở về đơn vị, để chờ đầu hàng.
Cũng vì vậy mà Tăng 54 của Bắc Việt mới phách lối ủi xập được cửa sắt của Dinh
Ðộc lập và những trận giặc miệng trên báo chí trong và ngoài nước, của Bùi Tín,
Bùi Văn Tùng, Bùi Biên Thùy và mới đây thêm Nguyễn Ðình Ðẩu, Phùng Bá Ðạm,
Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Khang Thái.. về cái gọi là “Bắt Dương Văn Minh tại
Dinh Ðộc Lập”.
Ngày nay đọc ba quyển hồi ký của Võ Nguyên Giáp và Bộ Chung Một Bóng Cờ của Tập
đoàn Giải Phóng Miền Nam gồm Nguyễn Hữu Thọ,, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng,
NguyễnThị Bình.. viết chung, do Nhà xuất bản Chính trị của Ðảng độc quyền phát
hành, qua những tiết lộ về các bí mật hậu trường chính trị miền Nam trước năm
1975. Nhờ đó ta mới biết chân tướng của Nguyễn Xuân Oánh, Phó Thủ tướng “Tôi cảm
thấy sống rất thoải mái và phấn chấn, vì trong mấy chục năm qua nằm vùng trong
Chính quyền miền Nam, tôi cũng đã giúp Ðảng ta nhiều công lớn”. Còn Nguyễn Hữu
Có, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng thì nói “Ðảng ta mau tuyên truyền ra hải ngoại,
để Việt kiều biết tìm cơ hội cống hiến yêu nước XHCN”. Nhưng nhức nhối hơn cả vẫn
là Nguyễn Khánh, trong lúc Miền Nam đã nguy ngập vào tháng 3-1975, chẳng những
không tìm cách giúp đỡ, mà còn đâm sau lưng chiến sĩ, bằng cách đòi hỏi Mỹ phải
chấm dứt ngay quân viện cho VNCH. Ngày 17-4-1975 khi Cộng Sản đang vây khổn Sài
Gòn, thì Khánh viết “The Peace must be Vietnamized - Phải VN hóa hòa bình”,
đăng trên tờ New York Times. Cuối cùng, khi được tin Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
từ chức, Khánh lại liên lạc với MTGPMN hỏi là “Mình phải tiếp tục làm gì ?”
Còn Ðại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống hai ngày cũng là tổng thống chót của
VNCH, ngoài việc dùng quyền hành vua nước và tổng tư lệnh quân đội, bắt QLVNCH
buông đầu hàng rã ngũ. Sau ngày 1-5-1975, còn Họp báo công bố “Chính Sách Khoan
Hồng Của Cách Mạng” và nói “Riêng cá nhân tôi rất hân hoan, vì cho tới năm 60
tuổi, tôi mới được trở thành công dân của một nước VN độc lập, tự do”.
Về chuyện gì đã xảy ra trong Dinh Ðộc Lập, vào trưa này 30-4-1975, hiện đã có rất
nhiều tài liệu của cả hai phía, cũng như ngoại quốc ghi nhận. Nói chung tất cả
sự kiện gần giống nhau, chỉ có khác biệt là ai cũng dành công, việc bắt TT
Dương Văn Minh và Nội các VNCH, là của mình.
+ NGUYỄN KHẮC NGỮ :
Viết trong “Những ngày cuối cùng của VNCH” cho biết vào lúc 12 giờ 30 ngày
30-4-1975, lúc quân Bắc Việt do Bùi Văn Tùng chỉ huy, đã vào được bên trong
Dinh Ðộc Lập. Về phía VNCH, tại phòng Khánh Tiết, hầu như có đủ các nhân vật
thuộc phe nhóm DVM và nội các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, tất cả đang ngồi trên
ba hàng ghế chờ. Chính TT.Minh đã ra đón cán binh Bắc Việt, tận cửa Phòng Khánh
Tiết và nói về việc bàn giao. Nhưng chúng nhất định không chịu, đòi Dương Văn
Minh phải đầu hàng VÔ ÐIỀU KIỆN và cho biết TUYÊN CÁO phía VNCH do Minh và Hạnh
vừa đọc, không có giá trị. Sau cùng Lê Văn Minh nói thẳng là Dương Văn Minh đã
bị bắt, thì còn gì để bàn giao.
Biết mình đã lỡ dại, nên TT Minh, Thủ tướng Mẫu đành để cho giặc áp giải tới
Ðài phát thanh, ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện, đồng thời
tuyên bố giải tán Chính quyền VNCH, từ trung ương trở xuống địa phương. Còn Vũ
Văn Mẫu thì nhân danh Thủ tướng chính phủ, kêu gọi đồng bào hoan hỉ đón giặc
vào.
+ BÙI TÍN CÓ BẮT ÐƯỢC DƯƠNG VĂN MINH ?
Ðây là bài viết của Bùi Văn Tùng, trả lời Thành Tín, tức Bùi Tín qua “Sài Gòn
trong ánh chớp chói lọi của lịch sử”, được VC in và phát hành năm 1978. Trong
bài viết của Thành Tín, cho biết Bùi Văn Tùng, Chính Ủy Lữ Ðoàn Thiết giáp 203,
đã áp giải TT Minh và Thủ tướng Mẫu, từ Dinh Ðộc Lập tới Ðài phát thanh Sài
Gòn, rồi tự Tùng và Thệ viết “Bản Tuyên bố đầu hàng” đưa cho Tổng thống đọc
nhưng Minh không muốn dùng chức vụ “Tổng thống”, mà chi muốn xưng danh hiệu “Ðại
tướng”. Cuối cùng trước mũi súng, Tổng thống kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, đã
phải tuân hành theo mọi mệnh lệnh.
Năm 1992, Bùi Văn Tùng có viết một bài liên quan tới các sự kiện trưa ngày
30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập, Sài Gòn. Trong bài viết, Tùng cho biết sau năm
1975, Bùi Tín có làm một Bộ phim về chiến tranh VN nhưng Tùng đã tố Tín, cố
tình đạo diễn, để cho mọi ngưởi tưởng lầm, chính Tín đã bắt và buộc Dương Văn
Minh đầu hàng. Cuối cùng Bùi Văn Tùng xác nhận Bùi Tín đã có mặt tại Dinh Ðộc Lập
vào chiều ngày 30-4-1975, qua tư cách một nhà báo phóng viên. Nhưng theo Tùng,
thì việc bắt Tổng Thống Minh đầu hàng vào lúc 13 giờ 15 “tại Ðài phát thanh Sài
Gòn, chứ không phải Dinh Ðộc Lập”. Hỡi ôi, sự thật biết đâu mà mò.
+ NGUYỄN TRẦN THIẾT :
Thiết là một nhà báo Bắc Việt, cho biết vào lúc 12 giờ 12 ‘, Ðại tá CS Nam Long
lúc đó đang có mặt Trong Dinh Ðộc Lập, đã tiếp phái đoàn báo chí phe mình,
trong đó có Bùi Tín. Thiết cho biết mình vào Dinh ĐL, với nhiệm vụ phỏng vấn TÙ
BINH VNCH có mặt tại chỗ lúc đó, gồm TT kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, Nguyễn
Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. Theo Thiết, vì chỉ trong mấy ngày, mà VNCH đã thay đổi
ba lần nội các, qua các Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Bá Cẩn, cuối cùng là
Vũ Văn Mẫu, nên quá nhiều ông lớn, nên chẳng biết đâu mà mò.
Trong bài của Thiết, có nhắc tới việc Bùi Tín chửi Dương Văn Minh khi Tổng thống
đòi bàn giao Chính quyền với MTGPMN “Nhưng ông đâu có chính quyền để bàn giao ?
Người ta không thể giao cái gì không có trong tay. Ngụy quyền cũ từ dưới lên
trên đã sụp đổ hoàn toàn”. Nhưng Minh vẫn có cãi ‘Các ông có thấy Sài Gòn không
đổ máu ? đó là mơ ước của tôi”. Và đã được Bùi Tín trả lời “Ðúng, Sài Gòn gần
như không đổ máu, không bi tàn phá. Ðó là do sức áp đảo và khí thế thần tốc của
cách mạng”.
Mai mỉa nhất là Nguyễn Văn Hảo lúc đó đòi được bắt tay với bộ đội Bắc Việt và
khoe chính mình đã ngăn cản không cho bất cứ kẻ nào phá hoại nguồn lợi kinh tế
của nước ta. Kho bạc còn, vàng dự trữ còn. Công lao của tụi này đấy..
Tóm lại, tại Dinh Ðộc Lập ngày 30-4-1975, theo Nguyễn Trần Thiết thì chính Sáu
Hoàng Cao Minh Chiếm, mới là người Ðại diện chính thức của Bắc Việt, chấp nhận
sự đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và nội các.
Riêng Nguyễn Hữu Hạnh nhờ năm vùng, nên sau tháng 5-1975 được Cộng Sản thưởng
công làm Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận GPMN, thành phố Sài Gòn-Gia Ðịnh rồi lên Ủy
viên Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc VN.
+ PHÙNG BÁ ÐẠM :
Tháng 4-2005, trên báo Khoa học phổ thông số 18 xuất bản tại Thành Hồ, có đăng
bài “Gặp lại một nhân chứng lịch sử” của Nguyễn Khang Thái”. Bài viết ghi lại lời
kể của Phùng Bá Ðạm, tự nhận thuộc Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoan 2, là
đơn vị đã vào Dinh Ðộc Lập đầu tiên ngày 30-4-1975. Theo Ðạm kể, khi xe tăng Bắc
Việt còn cách Dinh Ðộc Lập khoảng 300m, thì Tô Văn Thành,thuộc Ðại đội 3, Tiểu
đoàn 7, ngồi trên xe tăng trúng đạn chết. Vì vậy khi tới gần Dinh ĐL, xe tăng
VC đã mở hết tốc lực ủi sập cổng và tiến vào sân cỏ trước dinh.
Nhờ các nhà báo hướng dẫn, Phạm Xuân Thệ, Phùng Bá Ðạm, Ðào Ngọc Vân.. với lá cờ
của MTGPMN chạy lên lầu và gặp Nguyễn Hữu Hạnh ở tầng 2, đón đưa vào phòng
khánh tiết, lúc đó đã có TT Minh và nội các đang ngồi chờ đầu hàng. Do Ðài phát
thanh Sài Gòn lúc đó đã ngưng hoạt động, nên Thệ, Ðạm áp giải TT Minh và Vũ Văn
Mẫu, tới nơi để lên đài, mặc dù Ðại tướng cố từ chối.
Trên đường tới Ðài phát thanh, ngồi trên xe Jeep do Ðào Ngọc Vân lái. Ở băng trước
TT Minh ngồi với Phạm Xuân Thệ. Còn Vũ Văn Mẫu, Phùng Bá Ðạm, Ðinh Thái Quang
cùng 2 bộ đội, ngồi phía sau.
Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã bị Tiểu đoàn 8 Bắc Việt chiếm. Chính bản văn
“Tuyên bố đầu hàng”, mà TT Dương Văn Minh đọc trên đài, là do Phạm Xuân Thệ,
Ðinh Thái Quang, Trịnh Ngọc Ước và Phùng Bá Ðạm đạo diễn. Lúc này Trung tá Bùi
Văn Tùng, Chính Ủy Lữ đoàn 203 Thiết giáp cũng vừa tới. Theo Ðạm kể, vì lúc đó
trong bọn, Bùi Văn Tùng có cấp bậc cao nhất, nên thay mặt quân Bắc Việt, chấp
nhận lời đầu hàng của TT Dương Văn Minh, vào lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 30 ‘, ngày
30-4-1975.
Kể từ giờ phút đó Sài Gòn tan hoang và thê thảm nhất là tại Tòa Ðại sứ Mỹ, nằm
trên đường Thống Nhất-Mạc Ðỉnh Chi. Phủ Thủ tướng Mẫu, cả con dấu cũng lăn lóc
dưới sàn gạch. Trong Bộ Quốc Phòng, Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Tổng Tham Mưu.. đâu
đâu cũng ngổn ngang xe Jeep, súng ngắn.. mà người xưa đã đi đâu mất.
Từ đó người VN chịu cảnh đổi đời. Tất cả đều bị Rợ Hồ gọi là Nguỵ, lính tráng
là Ngụy quân, công chức là Ngụy quyền và đồng bào Miền Nam cũng thành Ngụy Dân.
Nhờ Tổng Thống Minh kịp thời đầu hàng, tránh cho Sài Gòn còn nguyên vẹn, kể cả
16 tấn vàng của Ngân hàng quốc gia do Nguyễn Văn Hảo giữ, giúp cho Bắc bộ Phủ,
thâu tóm trọn vẹn tài sản của dân chúng và công khố nhà nước một cách đầy đủ.
Tóm lại, nhờ công cách mạng giải phóng, nên người Việt từ Bắc vào Nam, chịu
chung cảnh người thành vượn, đói rách thảm thê, không có bút mực nào diễn tả
cho trọn vẹn.
Cũng từ đó dân chúng căm hờn, đổ hết mọi trách nhiệm cho ông Dương Văn Minh, một
tổng thống cuối cùng của VNCH, vì ngu muội khiến cho dân chúng lầm than dưới chế
độ bạo tàn của đệ tam quốc tế, tạo cợ hội cho đảng cộng sản VN, đem đất đai biển
đảo, tài nguyên quốc gia, nhượng bán cho kẻ thù không đội trời chung của Dân Tộc
là Trung Cộng. Thế là cuộc bút chiến xảy ra công khai trên báo chí hải ngoại giữa
hai phe thương và ghét Dương Văn Minh.
Người ta trách ông Minh không phải là trách ông đã ra lệnh cho QLVNCH buông
súng đầu hàng giặc, nhưng trách ông, tự biết mình là người rất ấu trĩ về chính
trị, từng là bại tướng của Khánh, Khiêm, Thiệu nhiều lần. Tài năng như vậy, mà
dám xưng phong ra nhận lãnh trách nhiệm cứu nước trong giờ thứ 25, khiến cho nước
non phải thảm nhục.
Người ta trách ông Minh ham sống sợ chết, không biết hành xử xứng đáng với
cương vị và thân phận của mình. Ðường đường là một Ðại tướng, Lãnh tụ phe thứ
ba và trên hết là Tổng thống của một nước nhưng ông Dương Văn Minh, đã cố tình
làm ngơ, các gương trung liệt nghĩa khí của người xưa, gương anh hùng bất khuất
của thuộc hạ trước mắt “Chết để giữ tròn khí tiết, chết vinh hơn sống nhục”.
Thật vậy hoàn cảnh của tướng Minh, đâu khác gì thảm trạng của hai tướng giữ
thành Bình Ðịnh, vào năm Tân Dậu 1801. Lúc đó thành bị Tây Sơn vây hãm lâm vào
cảnh tuyệt lộ, trong không lương ngoài chẳng binh cứu. Trong nỗi tuyệt cùng, Võ
Tánh và Ngô Tùng Chu đã viết thư cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu “Phận ta làm
chủ tướng, thì đành liều chết dưới cờ. Còn tướng sĩ không có tội tình gì, không
nên giết hại”.Sau đó Võ Tánh tự đốt chết, còn Ngô Tùng Châu uống thuốc độc chết.
Trưa 30-4-1975, khi TT Minh ra lệnh QLVNCH buông súng đầu hàng. Nhiều binh sĩ
đang chiến đấu tại mặt trận đã tự tử chết, vì họ không muốn đối mặt với kẻ thù
tàn ác dã man. Các tướng lãnh Phạm Văn Phú (Tư Lệnh QĐ2), Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh
QĐ4), Lê Văn Hưng (Tư Lệnh Phó QĐ4), Lê Nguyên Vỹ (Tư lệnh SĐ5BB), Trần Văn Hai
(Tư Lệnh SĐ7BB).. kẻ trước người sau, quyên sinh để bảo toàn khí tiết cho quân
đội Miền Nam nói chung và danh dự của một cấp chỉ huy, lúc sa cơ thất thế.
Trái lại Ðại Tướng cũng là Tổng thống Dương Văn Minh, khúm núm ra trình diện
trước các tên cán binh tép riu của Bắc Việt như Bùi Quang Thận, Ðại Ðội Trưởng,
ĐĐ Chiến Xa, để rồi bị tên chủ nhiệm chính trị của đoàn xe tăng mang số 203,
tên Lê Văn Minh nạt nộ : “các anh đã bị bắt, không có bàn giao gì cả”.
Mới đây đào hát cởi truồng một thời phản chiến Jane Fonda, vì muốn quảng cáo
cho một tuỳ bút nói về chuyện tình của mình, đã lên đài CBS, nhỏ những giọt nước
mắt cá sấu, để nhận tội phản quốc với Hoa Kỳ, khi ả sang Bắc Việt, vào năm
1972, ngồi trên các khẩu cao xạ chửi Mỹ. Câu chuyện khôi hài của đám con buôn
chính trị thập thành cũng chẳng có gì lạ nhưng đối với người Việt tị nạn, thì lại
có một ý nghĩa, vì ít ra cô đào hát còn có can đảm nhận sự sai lầm của mình.
Trong lúc đó thử hỏi những kẻ từng đâm sau lưng người lính đã hy sinh cho họ,
hiện nay đang sống nơi hải ngoại, có ai dám muối mặt như Fonda để nhận sai trái
năm nào, dù thời gian tới 31 năm và mặt nào phản chiến, phản tặc, tới nay ai
cũng đều biết.
Thanh niên nam nữ, miền Nam VN, thế hệ sinh từ 1900 về sau, thường mượn tư tưởng
làm trai của Nguyễn Công Trứ, để làm hành trang xử thế khi vào đời :
“Ðã mang tiếng đứng trong trời đất
phải có danh gì với núi sông”
Còn ông Dương Văn Minh lại là một nhân vật lớn của lịch sử, tại sao không vì lịch
sử, mà lưu lại cho hậu thế cái khí tiết “Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô ?”
Thì ra con người cũng có năm bảy hạng người ./-
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Những ngày cuối cùng của VNCH -Nguyễn Khắc Ngử
- VN. Niên Biểu Nhân vật Chí của Chánh Ðạo
- Nam Kỳ Lục Tỉnh (IV) của Hứa Hoành
-Ðôi dòng ghi nhớ của Phạm Bá Hoa
-QLVNCH trong giai đoạn hình thành của Bộ TTM.
-Những bí mật cuộc cách mạng 1-11-1963 của Lê Tử Hùng
-Hồi ký của Nguyễn Chánh Thi
-Les Guerres du VietNam của Trần Văn Ðôn
-Saigon et Moi của Mérilon
-sách vở bao chí KBC,PNDD,TP..
Xóm Cồn
Quốc Hận năm thứ 37
MƯỜNG GIANG
***
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết