MOT Y CHI CHONG CONG
MOT LOI THE GIANH LAI QUE HUONG
On Tuesday, April 15, 2014 7:50 AM, Hieu Doan <> wrote:
THÁC TRONG - SỐNG THỪA
LÃO MÓC
Tháng 3 năm 1882, Thống
đốc Nam Kỳ là Le Myre De Vilers hạ lệnh cho Capitaine de Frégate - tức Hải quân
Trung tá – Henri Rivière từ Sàigòn mang quan ra đất Bắc Kỳ với dã tâm xâm lược.
Được tin chiến thuyền
Pháp đến Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu một mặt sai Tuần phủ Hoàng Hữu
Xứng ra tiếp đón, một mặt ra lệnh tu sửa thành trì.
Hoàng Diệu tự là Quang
Viễn, người làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm Mậu Thân 1848
đổ Cử nhân, năm Quí Sửu 1853 thi Hội đỗ Phó bảng, làm quan đến Binh bộ Tham
tri. Năm 1880 được bổ Tổng đốc Hà Ninh, tức Hà Nội - Bắc Ninh.
Tháng 2 năm Nhâm Ngọ
1882, thấy quân Pháp tới, quan Tổng đốc ra lệnh đề phòng. Quả nhiên 5 giờ sáng
ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ tức ngày 25-4-1882, Henri Rivière gởi tối hậu
thư cho quan Tổng đốc, hẹn đến 8 giờ phải giải binh, còn Tổng đốc cùng các quan
phải đến trình diện tại Đồn Thủy, là nơi đóng quân của Henri Rivière. Nhận được
thư, Tổng đốc Hoàng Diệu liền sai Án sát Tôn Thất Bá dùng thang trèo ra ngoài
thành để điều đình. Án sát Tôn Thất Bá vừa xuống thang thì các chiến hạm “La
Fanfare”, “La Massue” và “La Carabine” đã khai hỏa vào thành. Thủy quân Lục
chiến Pháp làm ba cánh đánh vào cửa Đông, cửa Bắc và cửa Tây Nam thành Hà Nội.
Quan Tổng đốc Hoàng Diệu cùng Phó Lãnh binh Hồ Văn Phong thân lên cửa Bắc đốc
quân kháng cự. Đến hơn 11 giờ trưa, thành vỡ.
Quan Tổng đốc cùng mười
viên Cử nhân võ lui về phía Hành cung. Ngài ra lệnh: “Ai muốn về kinh thì về,
ai muốn đánh thì lên Sơn Tây hợp với quan Thống đốc Quân vụ Hoàng Kế Viêm”.
Quan Tổng đốc cắn ngón tay viết tờ biểu tạ tội với triều đình, hướng về Kinh
bái vọng rồi lấy khăn chít đầu treo cổ trước võ miếu.
Bố chánh Phan Văn Tuyển,
Đề đốc Lê Trinh trụt thành bỏ chạy. Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn vào hành cung
ba ngày sau mới ra. Án sát Tôn Thất Bá thừa lúc ra ngoài thành, nghe súng nổ bỏ
trốn.
*
Theo lời truyền, sau khi
thành Hà Nội mất và quan Tổng đốc tuẫn tiết theo thành, một nhà thơ đất Bắc Kỳ
là Nguyễn Văn Giai tục gọi là Ba Giai, đã làm hai bài ca, là bài “Hà thành thất
thủ ca” và bài “Chính khí ca”.
Trong bài “Chính khí
ca”, đọc lên sẽ thấy cái tiết liệt ngàn năm của Tổng đốc Hoàng Diệu, người đã tuẫn
tiết theo thành. Bốn câu mở đầu của bài “Chính khí ca”:
Một vùng chính khí lưu
hành,
Khoảng trong trời đất nhật
tinh sơn hà.
Hiệu nhiên ở tại lòng
ta,
Tấc vuông son sắt hiện
ra khí cùng…
Tác giả đã lấy ý trong
bài “Chính khí ca” của Văn Thiên Tường. Văn Thiên Tuờng là một trung thần đời
Nam Tống bên Trung Hoa, khi Nam Tống bị nhà Nguyên diệt, ông bị bắt, có làm bài
“Chính khí ca” được lưu truyền đến bây giờ.
“Thiên địa hữu chính khí,
tạp nhiên phú lưu hình. Hạ tắc vi hà nhạc, thượng đắc vi nhật tinh. Ư nhân viết
hiệu nhiên, bái hồ tắc thương minh. Hoàng lộ đương thanh di, hàm hòa thổ minh
đình. Thời cùng tất nãi hiện, nhất nhất thùy đan thành…”
Tháng Tư năm Nhâm Ngọ
1882 ấy là giờ phút đen tối của đất Bắc Kỳ. Hà Nội thất thủ, tiếp thêm một
trang sử bi thảm của dân tộc trước gót giày Bạch quỷ.
… Một cơ gió thảm mưa sầu,
Nấu nung gan sắt, dãi dầu
lòng son.
Chữ trung còn chút con
con,
Quyết đem gởi cái tàn hồn
gốc cây…
(Chính khí ca).
Trong cái giờ phút đen
tối thành mất, quân tan đó, Tổng đốc Hoàng Diệu đã bình tĩnh nhận lấy trách
nhiệm của mình. Là Tổng đốc, thay mặt triều đình trọng nhậm một tỉnh thành quan
trọng nhất của đất Bắc Kỳ, nay thành mất vào tay giặc, quan Tổng đốc đã cắn tay
lấy máu viết sớ tạ tội với triều đình và sau đó ông đã “Quyết đem gởi cái tàn
hồn gốc cây”.
Không phải ai cũng làm
được như quan Tổng đốc.Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Trinh, Bố chánh Phan
Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá bị vua Tự Đức bắt đeo gông giải về Kinh luận tội.
Bố chánh Phan Văn Tuyển
bị lột chức đuổi về làm dân, Lê Trinh cũng bị lột chức, cho đi tiền quân hiệu
lực để đái công chuộc tội… Mà thôi, nói đến những vị quan viên ấy làm gì. Người
đời sau chỉ nhớ tới quan Tổng đốc Hoàng Diệu thành mất chết theo thành mà thôi.
*
Gần một trăm năm sau, ở
miền Nam cũng gặp “một cơn gió thảm mưa sầu” khác. Tháng Tư năm 1975, Cộng sản
tràn ngập miền Nam. Và trong những giờ phút đen tối nhất của quân dân miền Nam,
người ta thấy xuất hiện những Nguyễn Tri Phương, những Hoàng Diệu khác.
Hồ Ngọc Cẩn, Phạm Văn
Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ…và còn rất nhiều
những Hoàng Diệu của miền Nam đã chiến đấu tới giờ phút cuối cùng hoặc đã anh
dũng chết theo vận nước. Những tên tuổi ấy sẽ sống mãi với sử xanh.
Nhưng không biết vì sao,
một trong những tên tuổi ấy, nhiều năm trước đã bị một số người đem ra bôi xấu.
Đó là Thiếu tướng Phạm Văn Phú, nguyên Tư lệnh Quân Đoàn II & Quân khu II.
Có một vị Đại tá, trước
ngày đảo chánh 11-1963 từng là cấp chỉ huy của Thiếu tướng Phú, sau đó trở lại
là cấp dưới trực tiếp của Tướng Phú, đã viết mấy loạt bài, dụng ý chê bai Tướng
Phú. Một vị Đại tá khác, từng là Tham mưu trưởng dưới quyền Thiếu tướng Phú,
khi được phỏng vấn, đã kể lại cuộc triệt thoái cao nguyên với những lời kể
không mấy tốt đẹp về Thiếu tướng Phú, đã được giáo sư Larry Engelmann đăng lại
trong quyển “Tears Before The Rain”. Một vị khác, từng là Thẩm phán dưới chế độ
Việt Nam Cộng Hoà, cũng đã có một loạt bài qui trách nhiệm để mất miền Nam cho
những ai, những ai… trong đó có Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Vị ấy cho rằng nếu
miền Nam còn, Thiếu tướng Phú sẽ phải ra Tòa án Quân sự để chịu trách nhiệm của
mình…
Người viết không có đủ
những kiến thức quân sự, hoặc những dữ kiện thuộc loại “thâm cung bí sử” như
các vị kia nên không dám phán đoán những chi tiết mà các vị ấy đưa ra nó đáng
tin tới mức nào. Người viết cũng chỉ nghe kể lại là Thiếu tuớng Phạm Văn Phú đã
từ chối lời mời di tản của người Mỹ, ở lại và tự tử bằng 32 viên Chloroquine.
Có một điều mà người
viết chắc chắn là: Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã chết, và chính ông đã chọn cho
ông cái chết ấy.
*
Nhân vô thập toàn! Có ai
mà khi sống lại không có những lúc sai trái, lầm lẫn điều này, điều nọ. Nếu
Thiếu tướng Phạm Văn Phú trong những ngày miền Nam hấp hối, ung dung bước lên
phi cơ di tản; thì giờ đây chúng ta có quyền nói với ông điều mà chúng ta không
có đủ tư cách để nói với anh linh của người anh hùng Phạm Văn Phú.
Nếu sau khi để mất thành
Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu cũng bỏ thành chạy trốn như Hoàng Hữu Xứng, Lê
Trinh… thì chắc chắn ông cũng sẽ bị triều đình ra lệnh đóng gông và giải về
Kinh nghị án, rồi có thể sẽ bị giáng xuống làm một người lính trơn, phải đi
“Tiền quân hiệu lực” để chuộc tội đã mất thành trì. Và sử sách cũng sẽ không
trân trọng ghi tên ông vào như hơn một trăm năm qua.
Nhưng Tổng đốc Hoàng
Diệu đã chọn cho mình một cái chết, để nhận trách nhiệm với triều đình và với
dân tộc. Chính thái độ chọn lựa ấy mà lịch sử mới khắc tên Hoàng Diệu bằng hai
chữ vàng: “Tuẫn Quốc”.
Nếu miền Nam còn, và
Thiếu tướng Phạm Văn Phú còn; có thể ông sẽ bị buộc cho một số trách nhiệm của
một vị Tư lệnh. Nhưng cuối cùng, trước Quân Đội, trước Tổ Quốc, vì Danh Dự và
Trách Nhiệm, Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã chọn mức trách nhiệm cao nhất: Cái
Chết!
Thế thì còn gì nặng hơn
nữa để chúng ta có thể trút lên vai Thiếu tướng Phạm Văn Phú?
Những Hoàng Hữu Xứng,
Tôn Thất Bá, Phan Văn Tuyển… chắc chắn sẽ không có một tư cách gì để phê phán
người chủ tướng của họ là quan Tổng đốc họ Hoàng. Chắc chắn là như thế!
Ai trong số những người
còn sống, đã sinh ra và đã sống, sẽ sinh ra và sẽ sống sau cái chết của Tổng
đốc Hoàng Diệu có đủ tư cách để bôi nhọ ông? Chắc chắn là không!
Thế thì ai trong số
chúng ta hiện giờ sẽ có đủ tư cách để bôi nhọ Thiếu tướng Phạm Văn Phú? Phê
phán thì có thể, nhưng chỉ có lịch sử mới có cái quyền ấy! Hay là các vị Đại
tá, Thẩm phán ấy tự cho mình có quyền phê phán, và hơn nữa, quyền được bôi nhọ
cái tên Phạm Văn Phú? Các vị ấy muốn qua mặt lịch sử, muốn ngồi trên lịch sử và
đặt ra lịch sử theo ý riêng của mình hay sao?
Cái tên Phạm Văn Phú bây
giờ không còn là của riêng cá nhân Thiếu tướng Phạm Văn Phú, cũng không còn là
của riêng gia đình Thiếu Tướng Phạm Văn Phú; mà cái tên ấy hiện giờ là của
chung tất cả chúng ta. Cũng như những cái tên Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê
Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn…, cái tên Phạm Văn Phú đã trở thành những
biểu tượng, là những cái tên được khắc bằng chữ vàng vào lịch sử. Không một ai
có quyền bôi bẩn những cái tên ấy, dù bằng bất cứ hình thức nào, hoặc vì bất cứ
lý do gì!
*
Những cái tên ấy, những
con người ấy, những cái chết ấy đã làm sáng lên danh dự của một Quân đội kiêu
hùng đã chống đỡ cho sự tồn vong của miền Nam trong hai mươi mốt năm. Những con
người ấy đã thay cho hết thảy chúng ta để gánh vác cái phần nặng nề, gai góc
nhất của gánh nặng trách nhiệm để mất miền Nam. Nếu có ai tự hào là cá nhân
mình đã vượt qua những gì mà các con người ấy, các tên tuổi ấy, các cái chết ấy
đã vượt qua thì mới có quyền bôi bẩn tên tuổi của các vị anh hùng đã tuẫn quốc
đó.
Ai mà trong cuộc đời lại
chẳng có kẻ yêu, người ghét. Thiếu tướng Phạm Văn Phú chắc cũng không ra ngoài
cái quy luật ấy. Nhưng những thù hằn, những tỵ hiềm cá nhân của các vị ấy đến
đâu chắc cũng không thể nào nặng hơn những gì mà Thiếu ướng Phú đã thay chúng
ta để làm trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam.
Nếu có một chút lý trí
và lòng tự trọng tối thiểu, các vị ấy có lẽ sẽ không bao giờ đi làm một việc mà
Cộng sản Hà Nội bao nhiêu năm qua rất muốn làm nhưng chưa có cách gì làm được:
nói xấu và bôi bẩn các biểu tượng anh hùng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa!
Đừng bao giờ nên để cho
những tỵ hiềm cá nhân làm mờ lý trí. Huống chi những tỵ hiềm riêng ấy cũng
không lấy gì là chính đáng!
*
Trước khi muốn phán xét
người, chúng ta hãy tự phán xét mình. Liệu chúng ta có đủ lý trí, lòng khách quan
và sự can đảm nhìn vào sự thực để tự phán xét mình chưa?
Hàm huyết phún nhân,
tiên ô tự khẩu. Nói xấu người khác tức bẩn mồm mình. Khi chúng ta muốn bôi bẩn
người khác, chúng ta đã tự bôi bẩn mình. Huống chi giữa chúng ta và con người
mà chúng ta muốn bôi bẩn ấy, khoảng cách giờ đã quá xa, quá rõ. Không khéo lại
có thể làm cho mọi người thấy rằng chúng ta chê bai bôi bẩn các người anh hùng
ấy chỉ nhằm mục đích muốn nổi tiếng nhờ vào cách đóng trò khỉ ở gần những ánh
hào quang của những người đã dám “thung dung tựu nghĩa!”
Thác trong thôi cũng nên
đời
Sống thừa chi để kẻ cười
người chê!
(Chính khí ca).
Có lẽ rồi một ngày nào
đó sẽ có người viết một “Tân chính khí ca” để nói về các Hoàng Diệu năm 1975.
Còn xin thưa với các ông Đại tá, Thẩm phán đã bỏ công viết lách để cố công làm
mờ đi một biểu tượng: những con đom đóm làm sao đọ được với ánh mặt trời.
Bởi vì so với những cái
“THÁC TRONG” của các bậc anh hùng tuẫn quốc kia, các vị Đại tá T.K.K, L.K.L.,
Thẩm phán Nguyễn Cần, tức Tú Gàn, tức Lữ Giang và cả bản người viết bài này
nữa, chúng ta chỉ là những kẻ đang “SỐNG THỪA” mà thôi!
LÃO MÓC
tieng-dan-weekly.blogspot.com
MOT Y CHI CHONG CONG
MOT LOI THE GIANH LAI QUE HUONG
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết