Di chúc Bắc Kỳ tự do
Cho C. và những người bạn đất Bắc của tôi
Tuấn Khanh - Câu chuyện kỷ niệm 60 năm về hành trình
đến miền Nam của hơn một triệu người trôi qua lặng lẽ. 20 tháng 7, 1954 trở
thành lịch sử thế giới, nhưng chưa bao giờ đủ với những câu chuyện kể về số
phận và suy nghĩ của riêng người Việt. Tôi chờ đọc một áng văn nào đó, nói về
suy nghĩ của những người miền Nam khi nhìn thấy dòng người Bắc Kỳ, này khi họ
đến về đồng bằng, chảy về thành phố, nhưng không thấy. Tràn ngập những bài viết
chỉ là nỗi nhớ tha hương, là ký ức và lòng kiêu hãnh của những người tìm tự do
từ phía Bắc. Vì vậy, tôi muốn ghi ra chút ít ở đây, về cái nhìn của một người
miền Nam, về cha mẹ, ông bà của bạn bè Bắc Kỳ của mình, dù họ còn hay đã mất.
Hai tiếng “Bắc Kỳ” xuất hiện trên miệng trẻ con
miền Nam, và cả của tôi, suốt một thời gian dài, chỉ là sự trêu chọc ban bè
cùng lứa, vì một kiểu ngữ âm rất khác mình. “Bắc Kỳ” trong ký ức từng là một
tâm cảm bị ám thị, thiếu thiện cảm hơn cả khi so sánh với “Ba Tàu”. Chỉ khi tạm
đủ chữ trong đầu, biết thêm về đất nước này, hai chữ “Bắc Kỳ” trong tôi mới thật
sự thay đổi. Có lẽ cũng giống như tôi, nhiều người miền Nam hời hợt kỳ thị đã
tự cứu mình bằng cách lập ra những hạng mục khác như Bắc kỳ 9 nút (54), Bắc kỳ
2 nút (75)… để bày tỏ thái độ của mình.
Nhưng không đủ.
Phải mất đến hơn nửa đời người, tôi mới nhận ra
rằng không hề có một giai cấp nào trong đồng bào miền Bắc của đất nước mình, mà
chỉ có một cuộc sống không được chọn lựa nào đó đã phủ chụp lên từng miền, từng
vùng đã ảnh hưởng cùng cực đến họ, tạo ra những điều khó tả nhưng vậy. Ở mọi
miền, Nam hay Trung hay Bắc, người ta cũng đều có thể nhìn thấy kẻ vô lại trong
giống nòi, nhưng sự khó khăn nhìn nhận luôn thường dành cho phía Bắc, như một
ám chỉ về một vùng đất phải chịu sự khác biệt về chính trị trong nhiều năm, như
đã ám toán mọi sinh lực sống bình thường của con người.
Tôi nhận ra điều đó, ở một ngày khi thấy chung
quanh mình có rất nhiều bạn, kể cả thầy cô, là những người Bắc mà tôi tin cậy.
Họ đại diện cho những người “Bắc kỳ” mạnh mẽ, vượt qua số phận và hoàn cảnh của
mình để không bị đè bẹp, không hèn hạ hoặc chết, như F. Nietzsche đã viết
“những gì không giết được chúng ta, sẽ làm chúng ta lớn mạnh hơn” (That which
does not kill us makes us stronger).
60 năm của những người Bắc di cư vào Nam, cho
tôi và thế hệ của mình được nhìn rõ họ hơn, nhắc tôi phải nói về một bản di
chúc lớn, một bản di chúc vĩ đại mà hơn một triệu người từ bến tàu Hà Nội, Hải
Phòng… mang đến cho cả đất nước. Bản di chúc cũng được lưu giữ trong mắt, trong
lời nói của từng người Việt tha hương khắp thế giới: bản di chúc về tự do.
Cả miền Nam sau 1954 cần phải có một lời cám ơn
văn chương Bắc Kỳ, âm nhạc Bắc Kỳ, báo chí Bắc Kỳ… đã góp tay dựng lên một nền
văn hóa của cả đệ nhất và đệ nhị cộng hòa của miền Nam. Nền văn hóa ngắn ngủi
nhưng đủ trường tồn và mạnh mẽ vượt qua một chướng ngại, tồn tại trong lòng
người từ sau 1975 đến nay, ở Việt Nam và trên cả thế giới. Cùng với những người
anh em từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, những người Bắc đó đã làm tất cả để bù
đắp, để dựng xây… cho thỏa sức, việc họ rời bỏ rất xa quê nhà, thậm chí trơ
trọi, chỉ để đổi lại hai chữ tự do.
Rất nhiều năm sau đó, con cháu của những người
bắc 54 cũng lớn lên ở miền Nam hay vượt đại dương đến nơi nào đó, không ít
người trong họ vẫn âm thầm mang theo một bản di chúc có thể sống mãi đến nhiều
thế hệ sau về tự do, và chọn lựa vì tự do. Trong một lần ở Mỹ, tôi nghe phát
thanh viên của một đài radio người Việt bình luận về một nỗi nhớ quê nhà Hà
Nội. Nhớ con đường quanh Hồ Gươm, nhớ con hẻm có bán canh bún nhỏ… Giọng Bắc
của anh ta trầm buồn như mới ngày hôm qua còn nhìn thấy những thứ đó, trong khi
tôi biết rõ anh chưa về Việt Nam một ngày nào kể từ sau 1975. Sau lần phát
thanh đó, gặp anh, tôi trêu là sao anh nói cứ như là cứ vừa ở Việt Nam về. Đột
nhiên giọng anh trầm lại “Phải cố gắng nhớ dù chỉ là tưởng tượng lại. Phải nhớ
như nhớ lời của ông bà mình xua mình xuống tàu, trối dặn mình phải sống với tự
do”. Tim tôi như thoáng ngừng đập trong tíc tắc. Dòng người mờ ảo trong những
cuốn phim tài liệu trắng đen về số phận Việt Nam chia cắt ập về. Tôi cũng nhận
ra rằng bản di chúc tự do đó, không phải những người Bắc Kỳ chia cho nhau, mà
chia lại cho tôi, cho bạn, cho cả dân tộc này. Từng người chúng ta được nhận.
Chọn lựa mình hôm nay khốn nạn hay tử tế, là do mình đã không chịu nhìn thấy di
sản của cha ông gửi lại qua bản di chúc không thành văn này.
Tôi nhìn thấy người bạn trẻ của tôi, con một
người Bắc di cư, nay sống ở Biên Hòa, đưa một tấm ảnh kỷ niệm 60 năm người Bắc
xuống tàu vào Nam. Khi bên ngoài người ta nói về những điều lớn lao như hiệp
định Genève và các chính quyền, thì cũng có một dòng người không nhỏ đưa lại
những hình ảnh thuộc về con người. Có những tấm ảnh khiến mình phải lặng đi khi
thấy cụ già bước gấp vào Nam, hành lý trên tay quý nhất chỉ là tấm hình Đức Mẹ.
Người bạn trẻ của tôi đưa lên tấm ảnh người ta chen chúc chia tay nhau ở một
bến tàu. Khó mà biết được ông bà hay cha mẹ của anh đã có mặt ở đó hay không,
trong những chấm li ti như cát bụi. Bản thân người bạn trẻ đó thì giờ cũng là
phần li ti trong hàng triệu người Bắc 54 đã lớn lên, đã thành đạt ở miền Nam
này hôm nay.
Và tôi nhận ra rằng, bản di chúc tự do đó cũng
vẫn đang âm thầm trong anh, như bao phần li ti đang trỗi lên, trên đất nước
này.
Tuấn Khanh
|
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Chiến tranh
biên giới Việt Trung năm 1979
Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
SBTN
SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN
SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết