Sách về Mậu Thân ra mắt độc giả
Mỹ
Nhà báo tự do Bùi Văn PhúGửi cho BBC từ ĐH Berkeley
·
1 tháng 3 2015
Chiều thứ Tư
25/2/15, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Berkeley đã có buổi giới
thiệu bản dịch tiếng Anh tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, nguyên bản
tiếng Việt được xuất bản lần đầu tại Sài Gòn năm 1969.
Tham dự có mặt
nhà văn Nhã Ca đến từ miền Nam California và đến từ Đại học Texas A&M là
giáo sư Olga Dror, người đã dịch tác phẩm ra tiếng Anh, với tựa Mourning Headband
for Hue (Nxb Indiana University Press, 2014. 378 trang).
Ngoài phần dịch
toàn bộ tác phẩm, bản tiếng Anh còn có trên 50 trang là nghiên cứu của giáo sư
Dror về những quan điểm, hệ lụy và nhân vật liên quan đến vụ thảm sát Tết Mậu
Thân ở Huế.
Giáo sư sử học
Peter Zinoman của Đại học Berkeley mở đầu chương trình với phần giới thiệu tác
phẩm. Theo ông, Giải khăn sô cho Huế là: “Cái nhìn của một người dân miền Nam
bị kẹt giữa làn đạn của quân cộng sản chiếm thành phố này ba tuần lễ và sự phản
công giành lại kiểm soát của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Hồi ký của
Nhã Ca còn là chứng liệu về lực lượng võ trang Việt Cộng đã giết thường dân
trong những khu vực họ chiếm đóng.”
Tuy nhiên,
không như những vụ thảm sát khác trong chiến tranh Việt Nam, vụ giết người ở
Huế chưa bao giờ được giới học thuật phương Tây nghiên cứu đầy đủ nên khó tìm
được những tài liệu hay bài viết nghiêm túc về chủ đề này. Giáo sư Zinoman nhận
xét.
Về tác giả,
giáo sư Zinoman giới thiệu Nhã Ca là một nhà văn, nhà thơ đã có nhiều tác phẩm
xuất bản tại Việt Nam trước năm 75 như Giải khăn sô cho Huế, Đêm nghe tiếng đại
bác. Tác phẩm bà viết tại hải ngoại phải kể đến cuốn Hồi ký của một người mất
ngày tháng.
Sau năm 1975,
trong đợt trấn áp văn nghệ sĩ Nhã Ca bị giam tù 14 tháng. Chồng bà là thi sĩ
Trần Dạ Từ, một nhà thơ có tiếng, đã bị giam 12 năm.
Nhờ vận động
của quốc tế, Nhã Ca và Trần Dạ Từ được rời Việt Nam qua Norway. Năm 1992 ông bà
di dân qua Mỹ và sáng lập tờ Việt Báo có trụ sở ở nam California là một nhật
báo có đông độc giả.
Trận chiến tại Huế
Qua phần nói
chuyện, mở đầu là trình bày của giáo sư sử và văn hoá Việt Olga Dror. Bà nói về
lịch sử cố đô Huế từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, là nơi có truyền thống sinh
hoạt trong tinh thần Phật giáo qua nhiều thời kỳ lịch sử.
Bà nhắc đến
những phong trào đấu tranh ở đó, đặc biệt vào những năm 1966-67 là thời gian
nhiều trí thức bỏ Huế lên rừng, tức đi theo cộng sản, và họ đã trở về Huế khi
tổng tấn công Mậu Thân xảy ra.
Giáo sư Dror
nói về trận chiến tại Huế, chỉ sau hai ngày tấn công bộ đội cộng sản đã chiếm
được Phú Vân Lâu và kéo cờ lên kỳ đài. Sau ba tuần chiếm giữ, quân cộng sản bị
đẩy lui.
Những tháng sau
đó nhiều hố chôn người tập thể được tìm thấy và khai quật. Bà đưa lên nhiều
hình ảnh dẫn chứng.
Tuy nhiên khi
đó vụ tàn sát đã không được dư luận chú ý vì năm 1968 nội tình nước Mỹ có nhiều
sự kiện quan trọng: ngày 31/3 Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố không tái
tranh cử, ngày 4/4 Mục sư Martin Luther King Jr. bị ám sát, ngày 6/6 ứng viên
tổng thống Robert Kennedy bị giết chết, tháng 8 Đại hội Đảng Dân chủ ở Chicago
diễn ra trong bạo động và tháng 11 Richard Nixon được bầu làm tổng thống.
Năm 1968 tại
Việt Nam, ngoài vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế còn có vụ lính Mỹ giết mấy trăm dân
làng Mỹ Lai và vụ này cũng không được hoàn toàn đưa ra ánh sáng cho đến cuối
năm 1969.
Ngày nay, so
sánh hai vụ tàn sát, theo giáo sư Dror thì Mỹ Lai đã có nhiều tài liệu, công
trình nghiên cứu được phổ biến.
Quan điểm khác biệt
Giáo sư Dror
dẫn hai nhà nghiên cứu với hai quan điểm khác nhau về thảm sát Tết Mậu Thân ở
Huế. Quan điểm của Douglas Pike cho rằng lãnh đạo cộng sản có trách nhiệm về vụ
tàn sát hàng nghìn thường dân. Trong khi đó Gareth Porter cho rằng đã không có
thảm sát.
Các nhà làm
chính sách Mỹ, trong đó có Thượng nghị sĩ George Murphy dùng tài liệu và lập
luận của Pike, hay Thượng nghị sĩ George McGovern dùng những nghiên cứu của
Porter để tìm cách biện minh rằng nếu cộng sản chiếm miền Nam thì sẽ có trả thù
đẫm máu, theo Murphy; hay sẽ không có tắm máu, theo McGovern.
Về một số nhân
vật bỏ cố đô lên rừng trước năm 1968 và được cho là đã trở về Huế khi cuộc tấn
công xảy và thi hành một số vụ giết người, giáo sư Dror nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc
Tường và Nguyễn Đắc Xuân. Bà đưa chứng liệu từ nhiều nguồn khác nhau nhưng
không xác minh chắc chắn họ đã là những đao phủ thủ trong những ngày Huế bị lực
lượng cộng sản chiếm giữ.
Giáo sư Dror kể
rằng trong một hội thảo năm 2012 ở Nga, quê hương nguyên quán của bà, khi bà
nói về Mậu Thân ở Huế thì được đề nghị nên nghiên cứu về những vụ thảm sát do
Mỹ gây ra. Điều đó thúc đẩy bà muốn tìm hiểu nhiều hơn về những gì đã xảy ra ở
Huế trong Tết Mậu Thân và bà đã tìm đọc và dịch ra tiếng Anh tác phẩm Giải khăn
sô cho Huế.
Giáo sư Dror
nói vụ tàn sát Mậu Thân ở Huế còn là một cuốn sách sử đang chờ đợi nhiều người
viết lên.
Sang phần trình
bày của Nhã Ca, bà nói tiếng Việt, giáo sư Việt ngữ Trần Hạnh của Đại học
Berkeley giúp chuyển ngữ.
“Mỗi người Việt
đều có một cuốn lịch trong nhà, hay trong đầu và trên mỗi tờ lịch là những ghi
nhớ mà khi câu chuyện của từng người được góp lại thì đó là lịch sử.”
“Là người sống
sót từ trận chiến Mậu Thân Huế, tôi viết Giải khăn sô cho Huế. Đây không phải
là tiểu thuyết hư cấu, cũng chẳng văn chương thơ phú gì, chỉ là sự thật, chuyện
trẻ con chạy nạn. Chuyện mình, chuyện người, mắt thấy tai nghe, thấy sao viết
vậy. Chỉ là những mảnh vỡ của một thành phố tan tác trong cảnh hỗn mang giữa
máu lửa, chết chóc.”
Nhã Ca nói về
tác phẩm của mình như thế. Rồi bà kể lại biết bao chuyện tang thương khác của
Việt Nam. Bom đạn. Nhà cháy. Chèo ghe trối chết chạy loạn.
Từ tuổi lên năm
bà đã thấy cảnh xác người bị chặt làm ba khúc, đầu đặt trong một rổ tre, nạn
nhân là ông thợ rèn bị Việt Minh xử tử vì cho là Việt gian. Bà chứng kiến cảnh
một bạn cùng trường tiểu học Nam Giao đứng như trời trồng, khi thấy đầu của bố
mẹ đặt trong nón lá, bốn con mắt vẫn trừng trừng mở.
'Hố chôn tập thể'
Về Mậu Thân ở
Huế, Nhã Ca kể lại câu chuyện của Võ Trang, nay 56 tuổi và là kỹ sư hiện sống ở
San Diego, có bố được cán binh cộng sản đến gõ cửa mời đi họp rồi bị giết chết.
Cô hàng xóm 19 tuổi gần nhà Trang đi họp thay cho anh vắng nhà cũng bị giết.
Khi xác của các nạn nhân được tìm thấy trong một hố chôn tập thể đã phồng lên,
bốc mùi. Hai cái chết trong hàng trăm người bị chôn sống ở khu Gia Hội.
Nhã Ca nhìn lại
sử thời Pháp thuộc, năm Ất Dậu 1885 ba vạn dân quân Huế tấn công vào đồn Mang
Cá, 1500 người hy sinh. Năm sau người dân đã lập đàn tưởng niệm, xây miếu âm
hồn trong Thành Nội. Hàng năm chế độ thực dân vẫn cho phép cử hành lễ giỗ.
Số nạn nhân của
vụ tàn sát Mậu Thân nhiều gấp năm lần, nhưng sau năm 1975 chế độ cộng sản đã
phá huỷ đài tưởng niệm và công an cấm tụ họp làm đám giỗ.
Nhã Ca nhắc đến
nội chiến ở Hoa Kỳ. Sau khi chấm dứt, không diễn binh, không ăn mừng chiến
thắng mà chỉ có một “ngày tủi nhục quốc gia” để cùng nhau xưng tội, cầu nguyện
xin tha thứ. Nhờ đó mà có được nước Mỹ như ngày nay.
“Trong khi đó,
ngày nay ở Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu vẫn chưa biết
nghĩ lại.” Nhà văn than thở và mong ước một ngày sẽ “có một bàn thờ chung, ngày
giỗ chung tại quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết
thế nào là văn hóa, lịch sử.”
Hai diễn giả
sau đó đã trả lời một số câu hỏi.
Về phim Đất
khổ, là câu chuyện gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng kẹt ở Huế dịp Tết Mậu
Thân, dựa trên Giải khăn sô cho Huế, được quay thành phim khoảng đôi ba năm sau
khi tác phẩm ra đời. Tại sao phim này bị cấm chiếu, còn sách của bà được xuất
bản? Nhã Ca cho biết bà là người viết kịch bản và phim mới làm xong, chưa kịp
chiếu thì biến cố 30/4/1975 xảy đến.
Bà nói thêm sau
khi phim được cho sản xuất bên Mỹ cách đây mấy năm, trong nước cũng cho phổ
biến, nhưng sau khi người Việt hải ngoại yêu cầu nhà sản xuất bỏ hình cờ đỏ sao
vàng ngoài bìa đi thì trong nước lại cấm.
'Chiếc nón lá bay'
Cuộc tấn công
Mậu Thân và ảnh hưởng của truyền thông Mỹ đối với quấn chúng Mỹ, đăc biệt là
nhận định của Walter Cronkite. Giáo sư Dror có ý kiến gì không? Bà nói cuộc
tổng tấn công là chiến thắng quân sự cho phía Hoa Kỳ nhưng là thất bại về
phương diện chính trị đối với dư luận quần chúng Mỹ.
Nhà văn có thể
nói về nhân vật Võ Thành Minh trong tác phẩm đã giúp đỡ nhiều người bị thương.
Nhã Ca nói đó là một huynh trưởng hướng đạo, từng có mặt tại hội nghị Genève
1954 và đã đem sáo ra thổi để phản đối. Mậu Thân ông đạp xe đạp đem gạo cho
người này, đi cứu giúp người kia. Phía cộng sản cho ông một giấy đi đường, sau
rút lại rồi bắt ông lên núi và giết chết ông.
Khó khăn nào
trong việc dịch? Giáo sư Dror trả lời bà học tiếng Việt với giọng bắc nên khi
dịch có nhiều câu nói tiếng trung nên bà thường xuyên trao đổi với Nhã Ca để
hiểu rõ ý nghĩa.
Nhã Ca nói sau 75 bà đi tù, chồng cũng đi tù. Ra khỏi tù không biết gì về miền bắc, cũng không còn thấy sách của mình vì đã bị đốt sạch.
"Ra hải
ngoại mới biết có Nguyễn Tuân đọc và nhận xét tác phẩm không có giá trị gì đặc
biệt, chỉ nhớ cảnh Nhã Ca lên máy bay trực thăng thì chiếc nón lá bay đi là một
hình ảnh rất thơ mộng.
Không nhẽ tác phẩm của tôi chỉ là chiếc nón lá không
thôi sao."
Tác phẩm được
xuất bản đã 46 năm, nay có bản tiếng Anh. Phản ứng của người Việt hải ngoại từ
khi tác phẩm ra đời ra sao?
Nhà văn kể rằng năm 2008 khi tái bản và ra mắt sách
thì có người biểu tình. Đúng nước Mỹ là một nước tự do, chứ như ở Việt Nam mà
như thế là đi tù hết rồi.
Còn nhiều câu
hỏi nữa, nhưng đã hết giờ. Nếu bài nói chuyện của Nhã Ca ngắn gọn, chú trọng
hơn vào hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thì buổi nói chuyện đã có phần trích đọc
và nhiều câu hỏi nữa để người tham dự, nhất là những sinh viên, có thể đào sâu
thêm một số vấn đề liên quan đến tác phẩm.
Vì như giáo sư
Peter Zinoman đã nhận định: “Giải khăn sô cho Huế là tài liệu lịch sử quan trọng
nhất về biến cố Tết Mậu Thân ở Huế và khi tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam cần
đọc nó bên cạnh All Quiet in the Western Front và những tác phẩm khác.”
Bài viết phản ánh quan điểm riêng và văn phong của tác giả, một
nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết