Nhận Định Và Đánh Giá Về
Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Lâm Vĩnh Thế
Sau ngày 30-4-1975, và trong một thời gian khá dài, có lẽ đến
10-15 năm, phần đông người Việt ở hải ngoại đều có một nhận định chung không
tốt về cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu như sau: một nhà lãnh đạo hèn nhát, đào
ngũ, bỏ rơi đồng đội và đồng bào, và là người lãnh đạo chịu trách nhiệm hoàn
toàn về sự sụp đổ quá nhanh của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Nhận định này, mặc dù
phổ biến, và dựa vào một số sự việc đã xảy ra trong các tháng 3-4/1975, chỉ là
do cảm tính, không dựa vào bất cứ tài liệu khả tín nào cả.
Gần như ai cũng
biết và nhớ câu nói nổi tiếng của ông “Ðừng nghe những gì Cộng
sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm,” nhưng hình như
đó cũng là sự đánh giá duy nhứt của nhân dân Miền Nam về sự nghiệp
chính trị của ông. Nhưng dần dà sau đó, với sự ra đời của một số sách và bài
báo ngày càng nhiều, cả Việt ngữ lẫn Anh ngữ, của một số tác giả nghiêm túc, và
dựa trên những tài liệu mật của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật, nhận định
của người Việt hải ngoại về ông đã có phần thay đổi. Bài viết này cố gắng
đưa ra một đánh giá trung thực, khách quan về vị nguyên thủ quốc gia này của
VNCH. Tiêu chuẩn mà người viết sử dụng trong việc đánh giá lại nhân vật lịch sử
này gồm 3 yếu tố: 1)
Quá trình đào tạo và kinh nghiệm thực tiễn; 2) Cách ứng xử,
quyết định và hành động; và 3) Khả năng chính trị và cầm quyền. Việc đánh giá
này tập trung trong 3 giai đoạn quan trọng trong cuộc đời chính trị của nhân vật
này: 1) Trước cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, 2) Từ sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963
cho đến ngày 30-10-1967; và 3) Từ ngày 1-11-1967 cho đến khi ông từ chức Tổng
Thống VNCH vào ngày 21-4-1975.
Trước Đảo Chánh 1-11-1963
Theo Cáo Phó mà gia đinh ông in ra khi ông mất vào ngày 29-9-2001,
tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, ông Nguyễn Văn Thiệu
sinh ngày 5-4-1923, tại làng Tri Thủy, xã Tân Hải, quận Thanh Hải, tỉnh Ninh
Thuận.
Ông học tiểu học tại quê nhà, sau đó ra Huế học trung học tại Trường
Pellerin. Sau khi xong trung học, ông vào học Trường Hàng Hải, có tốt nghiệp
nhưng không hành nghề. Sau đó ông theo học trường Sĩ Quan Đập Đá tại Huế, tốt
nghiệp Thiếu Úy năm 1949, phục vụ tại Miền Tây Nam Phần một thời gian rồi đuợc
gởi sang Pháp tu nghiệp tại Coequidan. Trở về nước, ông phục vụ tại Phân Khu
Hưng Yên (Bắc Việt), cùng thời gian với một số sĩ quan Việt Nam, trong đó có 2
người về sau trở thành tướng lãnh của Quân Lực VNCH (QLVNCH): Đại Tướng Cao Văn
Viên và Thiếu Tướng Đỗ Mậu.
Trong cuốn hồi ký của ông, Việt Nam máu lửa
quê hương tôi, Thiếu Tướng Đỗ Mậu đã ghi lại những nhận xét về Trung Úy
Nguyễn Văn Thiệu của vị tướng người Pháp, Tư Lệnh Chiến Trường Bắc Việt, Trung
Tướng Francois de Linarès, như sau: "Thông minh sắc bén, siêng năng,
thứ tự và tỉ mỉ. Sĩ quan hảo hạng có một ý thức tuyệt hảo về tổ chức và bảo
mật. (Intelligence aigue, travailleur, méthodique et minutieux. Très bon officier.
Possède un sens remarquable de l'Organisation et du Secret).” 1
Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Tháng
3-1955, với cấp bậc Trung Tá, ông được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị
Liên Quân Đà Lạt.
Tháng 7-1957, ông được gửi đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu
Cao Cấp tại Fort Leawenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Sau khóa học này, năm 1958, ông
về nước và được tái bổ nhiệm Chỉ Huy Trưởng trường võ bị này. Tháng 2-1959,
ông rời trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt để đi học khóa Tình Báo Tác Chiến tại
Okinawa, Nhật Bản.
Trở về nước, ông được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân
tại Bộ Tổng Tham Mưu, và ngày 26-10-1959 ông thăng cấp Đại Tá. Sau đó ông được
gửi đi Hoa Kỳ lần thứ hai để theo học khóa Phòng Không tại Fort Bills, Texas.
Đầu tháng 10 năm 1961, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1. Ngày 20-12-1962,
ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đóng tại Biên Hòa.2
Khi
các tướng lãnh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, ông tham gia và mang quân Sư Đoàn 5 từ Biên Hòa về tấn công Dinh Gia Long
và thành Cộng Hòa, nơi đồn trú của Liên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Sau khi
cuộc đảo chánh thành công, ông được thăng cấp Thiếu Tướng. (Lúc đó, QLVNCH chưa
có cấp bậc Chuẩn Tướng; cấp bậc Chuẩn Tướng do Tướng Nguyễn Khánh thiết lập vào
tháng 4-1964, và ngày 8-4-1964, Đại Tá Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh Không Quân, là vị
Đại Tá đầu tiên được thăng cấp Chuẩn Tướng).
Trong giai đoạn này, những gì chúng ta biết được về ông Thiệu rất
ít vì ông chưa có vai trò quan trọng, nổi bật trong chính trường VNCH. Qua lời
phê của Tướng De Linarès, chúng ta được biết ông là một sĩ quan giỏi, thông
minh, tỉ mỉ, làm việc có phương pháp, và có ý thức cao về bảo mật. Điều này có
nghĩa là ông làm việc cẩn thận, có tính toán, và luôn luôn có cảnh giác, đề
phòng người khác. Những cá tính này sẽ bộc lộ rõ rệt hơn khi ông thực sự nắm
quyền. Trong giai đoạn này, ít nhứt, ông đã có 2 quyết định rất quan trọng cho
sự nghiệp của ông, cả hai đều đuợc ông cân nhắc, tính toán rất cẩn thận trước
khi quyết định.
Quyết định thứ nhứt là bỏ đạo Phật của gia đinh để theo Công
giáo của vợ ông. Ta không biết rõ ông thực hiện quyết định này vào năm nào,
nhưng có lẽ phải sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã vững vàng, và như thế ít nhứt
là 4-5 năm sau khi ông kết hôn với bà Mai Anh. Như thế, rõ ràng là việc ông bỏ
đạo của gia đinh mình để theo đạo của vợ hoàn toàn không phải là một đòi hỏi do
cuộc hôn nhân mà là một quyết định có tính toán. Và, quả thật, quyết định này đã
giúp ông thăng tiến nhanh trong binh nghiệp, trở thành Chỉ Huy Trưởng Trường Võ
Bị Đà Lạt và Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ trong thời gian 5-6 năm. Quyết định
thứ nhì là tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963.
Quyết định này cũng đã
được suy tính kỹ lưỡng sau khi ông được Đại Tá Đỗ Mậu kết nạp và biết rõ có sự
tham gia của các tướng lãnh quan trọng, đặc biệt là tướng Trần Thiện Khiêm, lúc
đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn 3,
là những người có đầy đủ quyền điều động các đơn vị trọng yếu chung quanh thủ đô.
Và quyết định này đã giúp ông trở thành một tướng lãnh. Như vậy, ông chỉ mất có
14 năm để lên đến cấp tướng vào năm 1963 lúc ông 40 tuổi, tính từ ngày ông tốt
nghiệp Thiếu Úy tại Khoá Sĩ Quan Đập Đá ở Huế năm 1949.
Từ Sau Đảo Chánh 1-11-1963 Đến 30-10-1967
Giai đoạn này có thể phân làm 2 giai đoạn nhỏ: 1) từ sau đảo chánh
1-11-1963 cho đến khi Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG) ra đời; và, 2) từ khi
UBLĐQG ra đời đến ngày 30-10-1967. Toàn bộ thời gian này có thể xem như là thời
gian tập sự cầm quyền của ông Thiệu, giúp ông nắm vững các vấn đề chính trị của
đất nuớc, hiểu rõ sách luợc của Đồng Minh Hoa Kỳ và hoàn thiện phương pháp làm
việc của riêng cá nhân ông.
Giai Đoạn Trước Khi UBLĐQG Ra Đời
Sau khi tham gia vào vụ đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm,
được thăng cấp Thiếu Tướng, và trở thành một Ủy Viên của Hội Đồng Quân Nhân
Cách Mạng (HĐQNCM), ông Thiệu không được bổ nhiệm vào những chức vụ cao cấp và
quan trọng hơn và phải trở về cương vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Có lẽ vì thế
ông bất mãn với chế độ mới. Vì là một thành viên của HĐQNCM, chắc chắn ông biết
được sự bất mãn và chia rẽ trong nội bộ của Hội Đồng.3
Tuy nhiên,
với bản tánh dè dặt và tính toán kỹ lưỡng, ông không manh động mà chờ thời cơ
đến. Thời gian chờ đợi không lâu. Chỉ 3 tháng sau, cùng với những tướng lãnh
bất mãn khác, như Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Thiếu Tướng
Nguyễn Hữu Có, ông tham gia vào cuộc "Chỉnh Lý" của Trung Tướng
Nguyễn Khánh ngày 30-1-1964. Quyết định này giúp ông thăng tiến thêm cả về chính
trị lẫn binh nghiệp: 1) Ông trở thành Tổng Thư Ký của Hội Đồng Quân Nhân Cách
Mạng (từ tháng 2 đến tháng 9-1964) và, 2) Ông được Tướng Khánh bổ nhiệm làm Tư
Lệnh Vùng 4 (từ tháng 9-1964), và ngày 1-1-1965 ông vinh thăng Trung Tướng do
chính Tướng Khánh gắn sao tại Bộ Tư Lệnh Vùng 4 ở Cần Thơ.
Với tư cách Tổng Thư Ký của HĐQNCM, chắc chắn ông đã được tiếp cận
với những vấn đề chính trị cấp quốc gia mà Hội Đồng phải giải quyết. Ông cũng
được cơ hội thông báo và thi hành những quyết định của Hội Đồng đối với các sĩ
quan cao cấp 4 và ngay cả các tướng lãnh; điều này giúp ông mở rộng
phạm vi quen biết và ảnh hưởng, giúp gia tăng thế lực của ông trong quân đội và
chính trường. Việc ông được Tướng Khánh bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 4 giúp ông có
cơ hội chỉ huy cả một Quân Đoàn (là đơn vị lớn nhứt của QLVNCH) gồm 3 Sư Đoàn
7, 9 và 21, chịu trách nhiệm về an ninh cho 1/4 lãnh thổ của quốc gia. Với tư
cách Tư Lệnh Quân Đoàn, dĩ nhiên, ông là cấp trên trực tiếp của 3 vị sĩ quan
cao cấp Tư Lệnh của các Sư Đoàn nói trên. Cả 3 vị Tư Lệnh này về sau đều thăng
lên đến cấp bậc trung tướng và đều trở thành Tư Lệnh Quân Đoàn, đó là Trung
Tướng Nguyễn Bảo Trị, Trung Tướng Vĩnh Lộc và Trung Tướng Đặng Văn Quang.5
Riêng Trung Tướng Đặng Văn Quang sau này sẽ là Phụ Tá đắc lực về Quân Sự và An
Ninh cho ông khi ông trở thành Tổng Thống VNCH.
Thời gian từ tháng 2 đến tháng 9-1964, Tướng Thiệu, với tư cách
Tổng Thư Ký của HĐQNCM, đã luôn luôn làm việc gần gũi với Tướng Khánh. Thời
gian này Tướng Khánh cũng là Thủ tướng Chính phủ, trực tiếp điều hành guồng máy
quốc gia.Thời gian này cũng là thời gian xáo trộn nhứt trong lịch sử của VNCH,
với những vụ xuống đường, biểu tình, và đảo chánh. Phật Giáo tạo áp lực rất
mạnh và sinh viên học sinh cũng gây nhiều khó khăn cho Chính phủ. Tướng Khánh
không chịu nỗi những áp lực đó và nhượng bộ liên tục, khiến cho phe quân nhân
cũng bất mãn.
Cuộc đảo chánh ngày 13-9-1964 của hai tướng Dương Văn Đức và Lâm
Văn Phát cho thấy rõ sự bất mãn này của phe quân nhân đối với Tướng Khánh. Cuộc
đảo chánh này thất bại vì không được các tướng trẻ (Young Turks) ủng hộ. Tướng
Thiệu đã có dịp quan sát trực tiếp cách làm việc của Tướng Khánh. Ông rút
ra được hai bài học về chính trị: 1) Càng nhượng bộ thì phe Phật Giáo càng lấn
tới; điều này có nghĩa là nhượng bộ nhiều quá không phải là một điều hay trong
chính trị, và, 2) Muốn giữ được chính quyền thì phải có hậu thuẩn của quân đội,
nhứt là các tướng trẻ.
Nhóm tướng trẻ này, thường được báo chí Mỹ gọi chung dưới tên
"Young Turks," là các sĩ quan cao cấp, chỉ huy các quân binh chủng và
các đại đơn vị của QLVNCH trong giai đoạn này, mà phần lớn là do Tướng Khánh
phong tướng với ý đồ tạo ra một tầng lớp tướng lãnh trẻ để làm hậu thuẫn cho
những mưu toan chính trị của ông Đầu tháng 10-1964, một tài liệu của Cơ Quan
Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency - CIA) đã liệt kê rõ
tên họ của nhóm tướng trẻ này, với cấp bậc và đơn vị mà họ chỉ huy như sau: 6
1. Chuẩn Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh Không Quân
2. Đại Tá Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù
3. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến
4. Đại Tá Nguyễn Bảo Trị, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
5. Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng, Tư Lệnh Vùng I
6. Chuẩn Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh
7. Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Sằng, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh
8. Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh
9. Chuẩn Tướng Đặng Văn Quang, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh
Nhóm tướng trẻ này ngày càng đông, có tổ chức và trở nên một đoàn
thể chính trị rất mạnh có khả năng khuynh loát chính quyền. Đối với riêng Tướng
Khánh, chỉ một thời gian ngắn sau khi được thăng lên cấp tướng, các tướng trẻ
đã nhận ra yếu kém của ông ta trong cách đối phó với các cuộc khủng hoảng chính
trị, nhứt là trong vụ Hiến Chương Vũng Tàu trong tháng 8-1964, mà ông vừa ban
hành đã vội hủy bỏ ngay dưới áp lực của sinh viên, làm mất mặt Quân Đội rất
nhiều. Tiếp theo đó, cuộc đảo chánh ngày 13-9-1964 của hai tướng Dương Văn Đức
và Lâm Văn Phát, mà chính các tướng trẻ đã đứng ra chống đối và dẹp yên được,
càng cho họ thấy rõ sự bất lực của Tướng Khánh.
Từ đó trở đi, không những Tướng
Khánh không thể lợi dụng được họ nữa mà, trái lại, còn bị họ làm áp lực nặng nề
buộc phải thỏa mãn những đòi hỏi của họ. Họ chiếm đa số trong Hội Đồng Quân Lực
(HĐQL) do Tướng Khánh thành lập. Tuy vẫn được họ giữ lại trong các chức vụ Tổng
Tư Lệnh và Chủ Tịch HĐQL, Tướng Khánh thật sự đã không còn nắm được quyền hành
nữa. Việc các tướng trẻ sẽ loại bỏ ông chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.
Nhân danh HĐQL, họ đã có một loạt những hoạt động khuynh loát chính phủ như
sau:
1) giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia (THĐQG) khi Hội Đồng này từ chối
không chịu thực hiện đòi hỏi cho các tướng già về hưu của họ;
2) giải nhiệm và
mang đi quản thúc Thủ Tướng Trần Văn Hương khi Thủ Tướng Hương không giải quyết
được tình hình rối loạn do phe Phật Giáo và sinh viên tạo ra;
3) đề cử Bác sĩ
Phan Huy Quát lập chính phủ mới; và, 4) khi xảy ra cuộc đảo chánh ngày 19-2-1965
của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo đòi loại bỏ Tướng Khánh, họ chống lại cuộc đảo chánh
nhưng nắm lấy cơ hội này để loại bỏ Tướng Khánh, và đề cử Trung Tướng Trần Văn
Minh làm Tổng Tư Lệnh.
Ngày 22-2-1965 Tướng Khánh vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam.7
Tuy nhiên, có một điều mà các tướng trẻ không bao giờ ngờ đến là
tất cả những hành động này của họ đã vô tình tạo ra những điều kiện thật tốt
cho việc thăng tiến của Tướng Thiệu. Đối với Quân Đội nói chung và đối với nhóm
các tướng trẻ nói riêng, có hai điều mà họ luôn luôn tôn trọng và tuân thủ: đó
là hệ thống quân giai và thâm niên cấp bậc.
Vào đầu năm 1965, tình hình các
tướng lãnh trong QLVNCH là như sau: Thống Tướng Lê Văn Tỵ đã mất từ ngày
21-10-1964; trong 3 vị Đại Tướng là Trần Thiện Khiêm (thăng cấp Đại Tướng ngày
11-8-1964), Dương Văn Minh (thăng cấp Đại Tướng ngày 24-11-1964) và Nguyễn Khánh
(thăng cấp Đại Tướng ngày 27-11-1964) thì 2 Tướng Khiêm và Minh đã bị Tướng
Khánh dùng cách cử làm Đại sứ và đưa ra khỏi nuớc, còn lại Tướng Khánh thì tuy
vẫn còn giữ các chức vụ Tổng Tư Lệnh và Chủ Tịch HĐQL nhưng trên thực tế không
còn nắm quyền nữa. Như vậy, trên thực tế, có địa vị quan trọng nhứt trong Quân
Đội lúc bấy giờ là các vị Trung Tướng. Lúc bấy giờ có tất cả 10 vị Trung Tướng.
Đó là các vị sau đây:
- Phạm Xuân Chiểu, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Tôn Thất Đính, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Trần Văn Đôn, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-2-1957
- Lê Văn Kim, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Nguyễn Ngọc Lễ, thăng cấp Trung Tướng ngày 9-12-1956
- Trần Văn Minh (Minh nhỏ), thăng cấp Trung Tướng ngày 10-12-1956
- Lê Văn Nghiêm, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Trần Ngọc Tám, thăng cấp Trung Tướng tháng 4-1964
- Nguyễn Văn Thiệu, thăng cấp Trung Tướng ngày 1-1-1965
- Mai Hữu Xuân, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
Trung Tướng Thiệu, tuy thâm niên cấp bậc là kém nhứt trong số 10
vị Trung Tướng, nhưng trên thực tế lại là ngôi sao đang lên trong khi các vị
kia, đặc biệt là 4 tướng Đà Lạt Đôn-Xuân-Kim-Đính, đều là những vì sao đang sắp
tắt. Kể từ sau cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Tướng Thiệu đã liên
tiếp được đề cử giữ những chức vụ quan trọng về cả 2 mặt quân sự và chính trị:
- 2-11-1963: Vinh thăng Thiếu Tướng
- 2-11-1963: Ủy Viên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng
- 30-1-1964: Tham gia cuộc "Chỉnh lý” của Tướng Khánh
- 31-1-1964: Tổng Thư Ký Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng
- 2-2-1964: Tham Mưu Trưởng Liên Quân Bộ Tổng Tham Mưu
- 8-2-1964: Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Nội các Nguyễn
Khánh
- 15-9-1964: Tư Lệnh Vùng 4
- 1-1-1965: Vinh thăng Trung Tướng
- 18-1-1965: Đệ Nhị Phó Thủ Tướng trong Nội các Trần Văn Hương cải
tổ.
Chính vì vậy mà ngay trong phiên họp ngày 24-1-1965 của HĐQL do
Tướng Khánh triệu tập và chủ tọa, khi các tướng thảo luận về việc nên giải
quyết thế nào đối với Chính phủ Trần Văn Hương cũng như việc có nên đề cử ra
một vị Thủ Tướng quân sự hay không, và khi bỏ phiếu để chọn ra một vị tướng làm
Thủ Tướng thì Tướng Thiệu đã nhận đuợc số phiếu cao nhứt.8 Ông từ
chối không nhận việc đề cử này, viện lý do ông là người Công Giáo nên chắc chắn
sẽ bị phe Phật Giáo chống đối và như vậy sẽ không thể làm tròn đuợc nhiệm vụ
giao phó. Phản ứng này của ông càng làm tăng thêm uy tín của ông trong giới
tướng lãnh.
Ngày 27-1-1965, HĐQL giải nhiệm và đem đi quản thúc Thủ Tướng Hương
và đề cử Bác sĩ Phan Huy Quát thành lập nội các mới. Ngôi sao số mạng của Tướng
Thiệu càng sáng rực hơn khi ông được Bác sĩ Quát mời tham gia Chính phủ với
chức vụ Đệ Nhứt Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Truởng Quân Lực.
Sau khi Tướng Khánh bị
buộc phải rời khỏi Việt Nam, ngày 3-3-1965, Tướng Thiệu được các tướng lãnh đề
cử làm Tổng Thư Ký của Ủy Ban Thường Vụ của HĐQL. Tháng 5-1965 xảy ra cuộc
khủng hoảng nội các của Chính phủ Quát do bất hòa giữa Quốc Trưởng Phan Khắc
Sửu và Thủ Tướng Quát. Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp (HĐQGLP) không giải quyết được.
Cả Quốc Trưởng và Thủ Tướng không ai chịu nhượng bộ. Sau cùng Thủ Tướng quyết
định từ chức và giải tán Chính phủ. Quốc Trưởng cũng từ chức. Ngày 11-6-1965,
Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát và Chủ Tịch HĐQGLP Trung
Tướng Phạm Xuân Chiểu ra tuyên cáo chung giao quyền lại cho Quân Đội.9
Ba ngày sau, QLVNCH công bố Quyết định số 3, ngày 14-6-1965, gồm 5 Điều, thành
lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG).10 Điều 2 của Quyết Định này
ghi rõ thành phần của UBLĐQG gồm có 10 người như sau:
- 1 Chủ Tịch
- 1 Tổng Thư Ký
- 1 Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành pháp
- Tổng Truởng Quốc Phòng
- Tổng Tham Mưu Trưởng
- 4 vị Tư Lệnh 4 Vùng Chiến Thuật
- Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô
Điều 4 của Quyết Định này ghi rõ như sau: Hoàn toàn tín nhiệm và
chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn
Thiệu; B. Tổng Thư Ký: Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu; C. Ủy Viên Phụ Trách Điều
Khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Lần này ông Thiệu không từ chối
nữa.
Giai Đoạn Từ Khi UBLĐQG Ra Đời Đến Ngày 30-10-1967
Trong thời gian hơn 2 năm này, ông Thiệu, với tư cách Chủ Tịch
UBLĐQG, đóng vai trò Quốc Trưởng của VNCH. Điều 3 của Quyết Định số 3 của
QLVNCH ghi rõ "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, thay mặt toàn thể Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, điều khiển Quốc gia." Điều 5 đề ra các nhiệm vụ
chính yếu của UBLĐQG như sau: "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có nhiệm vụ
thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh."
Ngay từ đầu, ông Thiệu phải đã biết là Ủy Viên Phụ Trách Điều
Khiển Hành Pháp sẽ đóng vai trò Thủ Tướng điều khiển cái gọi là Nội Các Chiến
Tranh mà UBLĐQG sẽ phải thành lập theo Điều 5 nói trên. Tại sao ông chấp nhận
làm Chủ Tịch UBLĐQG (Quốc Truởng) và để cho ông Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành
Pháp Trung Ương (UBHPTƯ) (Thủ Tuớng) ? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cần
duyệt lại tình hình các tướng lãnh tại thời điểm đó. Vào thời điểm giữa tháng
6-1965, 5 vị Trung Tướng là Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn
Nghiêm và Mai Hữu Xuân đều đã được cho giải ngũ (Sắc Lệnh số 119/QT/SL ngày 24-5-1965
do Quốc Truởng Phan Khắc Sửu ký). Như vậy chỉ còn lại 5 vị Trung Tướng là Phạm
Xuân Chiểu, Tôn Thất Đính, Trần Văn Minh, Trần Ngọc Tám và Nguyễn Văn Thiệu.
Trong các vị này, Tướng Đính là thất thế nhứt, ông không bị cho giải ngũ cùng
với các Tướng Đôn-Kim-Lễ-Nghiêm-Xuân chỉ vì ông chưa đủ 25 năm quân vụ.
Ông
phải chấp nhận giữ chức vụ Tổng Thanh Tra Quân Lực kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Quân Huấn thuộc loại ngồi chơi xơi nuớc. Tướng Trần Ngọc Tám, tuy không thuộc
đối tuợng cần loại bỏ như các tướng Đà Lạt, nhưng cũng không được tin cậy, và
ông phải nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hành Quốc Tế Quân Viện. Tướng Trần Văn
Minh thì đã đảm nhận chức vụ Tổng Tư Lệnh thay thế Tướng Khánh; ngày 14-5 đổi
danh hiệu trở lại là Tổng Tham Mưu Trưởng, nhưng ông cũng sẽ không giữ chức vụ
này được bao lâu; hai tháng sau, ngày 15-7-1965, ông sẽ phải bàn giao chức vụ Tổng
Tham Mưu Trưởng lại cho Tướng Nguyễn Hữu Có để rời Việt Nam đi làm Đại sứ VNCH
tại Tunisie ở Bắc Phi.11
Như vậy thật sự chỉ còn 2 vị Trung Tướng
còn có uy tín và thế đứng trong QLVNCH là Phạm Xuân Chiểu (thâm niên cao hơn)
và Nguyễn Văn Thiệu (kém thâm niên hơn). Về phía các tướng trẻ thì nổi bật nhứt
và có quyền lực nhứt là 2 vị Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I và
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh Không Quân. Theo hồi ký của Đại Tá Phạm
Văn Liễu, lúc đó đang giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, khi các tướng
lãnh họp để chọn người đảm nhiệm các chức vụ Chủ Tịch UBLĐQG và Chủ Tịch UBHPTƯ
thì hai vị tướng được mọi người đề cử là 2 tướng Phạm Xuân Chiểu và Nguyễn
Chánh Thi. Ông Chiểu từ chối không nhận và đề cử Tướng Thiệu; Tướng Thi cũng từ
chối và đề cử Tướng Kỳ.
Cả 2 ông Thiệu và Kỳ đều vui vẻ chấp nhận.12
Điều này cũng được chính Tướng Thi xác nhận trong cuốn hồi ký của ông. Chỉ khác
là ông Thi cho biết là sau khi ông từ chối không nhận sự đề cử của các tướng
lãnh thì chính ông Thiệu đề cử Tướng Kỳ. Ông viết như sau trong cuốn hồi ký: "Sau
đó Nguyễn Cao Kỳ được Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu cộng tác, đứng ra lập chính phủ,
và đằng sau đã có bọn phù thủy Mỹ che chở. Tôi còn nhớ rất rõ, sau khi tôi nói
vừa chấm dứt thì được nghỉ mấy phút giải lao, tự nhiên Nguyễn Văn Thiệu đi
ngang, ghé tai tôi nói nhỏ: "Để cho thằng Kỳ làm đi !." Nói xong,
nhìn tôi cười liếc."13 Chúng ta không thể biết chắc chắn
là những chi tiết trình bày trong cuốn hồi ký của Tuớng Thi có hoàn toàn đúng
sự thật hay không nhưng nó phù hợp với tình hình chính trị lúc bấy giờ và cũng
phù hợp với cá tính của Tướng Thiệu. Tình hình chính trị tại thời điểm này là
trong vòng chưa đến 2 năm (từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965), kể từ khi chế độ
Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đã có liên tiếp 4 Chính phủ (Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh,
Trần Văn Hương và Phan Huy Quát), trong đó có đến 3 Chính phủ tồn tại không hơn
4 tháng, và rất nhiều vụ đảo chánh hoặc âm mưu đảo chánh, cũng như không biết
bao nhiêu vụ biểu tình, xuống đường, bạo động của các phe phái tôn giáo và
thanh niên sinh viên học sinh.
Ông Thiệu, với cá tính luôn luôn tính toán,
không tin là một Chính phủ mới, dù là Nội Các Chiến Tranh đi nữa, có thể tồn
tại lâu hơn 4-5 tháng. Và một khi đã nhận làm mà thất bại thì chắc chắn sẽ bị
cháy tên và sẽ không có cơ hội lần thứ hai. Chính vì thế, ngay từ cuộc họp ngày
24-1-1965, khi được các tướng lãnh bỏ phiếu đề cử ông làm Thủ Tướng, ông đã từ
chối ngay. Do đó, lần nầy cũng vậy thôi, ông thà nhận trách nhiệm làm Quốc Trưởng
(Chủ Tịch UBLĐQG) chứ không dại gì chịu nhận làm Thủ Tướng (Chủ Tịch UBHPTƯ).
Đây là một tính toán sai lầm của Tướng Thiệu và suýt chút nữa nó đã làm tiêu ma
luôn sự nghiệp đang lên của ông, như chúng ta sẽ bàn đến trong phần sau.
Trong suốt thời gian tập sự cầm quyền này, như đã trình bày bên
trên, chúng ta đã thấy rõ cách hành xử và ứng phó của Tướng Thiệu trước tình
hình chính trị vô cùng khó khăn phức tạp của VNCH. Còn về vấn đề đối với đồng
minh Hoa Kỳ thì sao? Chúng ta đã biết cá tính suy nghĩ thận trọng trước mọi vấn
đề của Tướng Thiệu. Như vậy chúng ta có thể tin chắc chắn rằng ông không thể
không nhìn thấy chính sách dùng người của Hoa Kỳ. Khi còn có giá trị lợi dụng
cần thiết cho đường lối và sách lược của họ thì họ đề cao và ủng hộ hết mình.
Khi không còn ích lợi cho việc thi hành đường lối, chính sách của họ thì họ
thẳng tay loại bỏ không thương tiếc.
Từ 1963 đến 1965, trong vòng 2 năm ngắn ngủi,
Hoa Kỳ đã dùng mọi cách để loại bỏ 3 nhà lãnh đạo VNCH: Ngô Đình Diệm, Dương
Văn Minh và Nguyễn Khánh. Trong cả 3 lần Hoa Kỳ thi hành chính sách thay người
này, Tướng Thiệu đều có tham dự một cách tích cực cả. Lần thứ nhứt, trong cuộc
đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, ông là người chỉ huy Sư
Đoản 5 Bộ Binh tấn công vào Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa. Lần thứ hai, trong
vụ Chỉnh Lý ngày 30-1-1964 vô hiệu hóa Quốc Trưởng Dương Văn Minh và bắt giam
các Tướng Đôn-Xuân-Kim-Đính, ông cũng ngả theo phe của Tướng Khánh. Lần thứ ba,
sau cuộc đảo chánh của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo ngày 19-2-1965, ông cùng các tướng
trẻ trong HĐQL loại Tướng Khánh ra khỏi chức vụ Tổng Tư Lệnh và buộc Tướng Khánh
phải rời khỏi Việt Nam vĩnh viễn.
Qua các việc trên, Tướng Thiệu chắc chắn phải
hiểu là tuyệt đối không thể làm mất lòng người Mỹ nếu muốn tiếp tục nắm quyền
tại VNCH, vì người Mỹ có thể dùng nhiều cách, kể cả đảo chánh, để loại bỏ cấp
lãnh đạo của VNCH mà họ không thích hoặc không sử dụng được. Đặc biệt là trường
hợp đối với Tướng Khánh. Khi Tướng Khánh thực hiện vụ Chỉnh Lý ngày 30-1-1964,
Hoa Kỳ ủng hộ ngay từ đầu và sau đó đã đánh bóng đề cao Tướng Khánh rất nhiều.
Nhưng chẳng bao lâu họ nhận ra Tướng Khánh không phải là "người hùng"
mà họ nghĩ và mong muốn. Ông đã để cho tình hình chính trị của VNCH ngày càng rối
loạn.
Khi xảy ra vụ HĐQL giải tán THĐQG, Đại sứ Taylor rất tức giận, và trong
cuộc gặp gỡ tại văn phòng của Tướng Khánh, sau khi Tướng Khánh xác nhận chính
ông chịu trách nhiệm về việc giải tán THĐQG, Đại sứ Taylor đã buông lời đe dọa
Tướng Khánh nguyên văn như sau: "In that case get ready to leave the
position of Comdr-in-Chief and to leave the country." 14 (Xin
tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Trong trường hợp này, ông hãy chuẩn
bị rời chức vụ Tổng Tư Lệnh và ra khỏi nước.”). Hai tháng sau, như
đã trình bày bên trên, Tướng Khánh bị loại khỏi chức vụ Tổng Tư Lệnh và bị buộc
phải rời khỏi Việt Nam, đúng như lời đe dọa trước đó của Đại sứ Taylor. Vì thế,
trong suốt thời gian mà ông giữ cương vị Quốc Trưởng, Chủ Tịch UBLĐQG, (cũng
như cả sau này, khi ông đã trở thành Tổng Thống của Đệ Nhị Cộng Hòa) ông rất
cảnh giác đối với người Mỹ và lúc nào cũng lo sợ bị đảo chánh.
Trong cuốn hồi
ký của mình, Đại Tá Phạm Văn Liễu, lúc đó giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát
Quốc Gia, đã mô tả nỗi lo sợ này của Tướng Thiệu như sau: "Mỗi lần
ở Sài Gòn có tin đồn đảo chính là Tướng Thiệu lại bay ngay xuống Cần Thơ tá
túc. Nhiều khi mới 6, 7 giờ sáng đã thấy Tướng Thiệu bơ phờ xuất hiện ở phi
trường Bình Thủy." 15
Trở lại việc Tướng Thiệu đảm nhận vai trò Chủ Tịch UBLĐQG, tức
Quốc Trưởng VNCH. Như trên có nói, đây là một tính toán sai lầm của Tướng
Thiệu. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, hay Nội các Chiến tranh, đã tồn tại hơn 2 năm,
và ngày một vững mạnh, vượt qua được tất cả những cuộc khủng hoảng chính trị
rất nghiêm trọng.16 Và, dĩ nhiên, uy tín cá nhân của Tướng Kỳ trong
Quân Đội cũng như quyền hành của Tướng Kỳ, với tư cách Chủ Tịch UBHPTƯ, tức Thủ
Tướng, càng ngày càng tăng và được cũng cố rất vững vàng.
Vai trò và uy thế của
Tướng Thiệu đã bị giảm thiểu nặng nề. Đại tá Phạm Văn Liễu đã có những ghi nhận
như sau trong cuốn hồi ký của ông: "Tướng Thiệu sử dụng Dinh Gia Long
làm Phủ Chủ Tịch UBLĐQG. ... Bên mé trái của tòa nhà, ngoài dăm sĩ quan đã làm
việc với Tướng Thiệu ở Sư Đoàn 5 ra, không có mấy người lui tới. ... Theo dư luận
hồi đó, bao nhiêu quyền hành, công việc do Tướng Kỳ thu tóm hết, Tướng Thiệu
chỉ là một thứ bù nhìn giữ dưa. Tướng Thiệu cũng hiểu vậy, cố gắng chịu đựng,
ngậm bồ hòn làm ngọt, ngầm chiêu binh mãi mã chờ thời."17
Sau
khi Hiến Pháp mới đuợc ban hành vào ngày 1-4-1967, Nội các Chiến tranh tích cực
chuẩn bị bầu cử Tổng Thống và Thượng Nghị Viện sẽ diễn ra vào tháng 9-1967, thì
vị thế của Tướng Kỳ đã hoàn toàn chế ngự chính trường VNCH. Ông được sự ủng hộ
của các tướng Tư Lệnh Vùng, và, như thế cũng có thể nói là có luôn cả sự ủng hộ
của các vị Tỉnh Trưởng vì các vị này đều là người thân tín của các Tướng Tư
Lệnh Vùng.
Trong Quốc Hội Lập Hiến (QHLH) ông cũng được sự ủng hộ của một
số dân biểu quan trọng nhờ vậy QHLH, khi thảo luận về Hiến Pháp, đã đồng ý
thông qua điều khoản ấn định tuổi tối thiểu để ứng cử Tổng Thống là 35 thay vì
40 (lúc đó Tướng Kỳ được 37 tuổi, và Tướng Thiệu 43 tuổi).18 Trong
một cuộc họp báo tại Đà Lạt, ngày 12-5-1967, Tướng Kỳ tuyên bố sẽ ra ứng cử
Tổng Thống. Một tuần lễ sau, ngày 19-5-1967, Tướng Thiệu cũng cho biết sẽ ứng
cử Tổng Thống. Việc này làm cho các tướng lãnh lo ngại số phiếu quân nhân có
thể bị chia xẻ giữa hai liên danh riêng rẻ của 2 Tướng Thiệu Kỳ và một liên
danh dân sự có thể đắc cử.
Các tướng thuộc phe Tướng Kỳ đã cử Thiếu Tướng
Nguyễn Đức Thắng đến gặp Tướng Thiệu để thuyết phục Tướng Thiệu rút lui nhưng
Tướng Thiệu không đồng ý, nhất định từ chối.19 Điều này bộc lộ bản
tính "làm chính trị phải lì" của Tướng Thiệu. Hiểu theo
nghia tích cực, "lì" tức là có quyết tâm cao, đã tính
làm một chuyện gì thì sẽ cố gắng làm cho đến cùng, nghĩa là có kiên nhẫn.
Tướng
Thiệu rõ ràng là người có đức tính này. Ông lại cũng tỏ ra là một người có tinh
thần làm việc nghiêm chỉnh, ngược hẳn lại so với Tướng Kỳ. Đại Tá Phạm Văn Liễu
cũng đã có những nhận xét khách quan đối với 2 vị Tướng này như sau: "Tôi
được giao trách nhiệm tổ chức lễ ra mắt cho chính phủ quân đội vào ngày 19-6...
Trước ngày 19-6, anh Như Phong nhờ tôi đem hai bài diễn văn do anh soạn thảo
tới cho hai vị chủ tịch. Khi ghé nhà ông Kỳ trong trại Phi Long, ông Kỳ đang
bận đánh mạt chược với mấy sĩ quan Không Quân. Thấy tôi, Tướng Kỳ ra phòng
khách nghe tôi trình bày về chương trình buổi lễ. Khi tôi đưa bản thảo bài diễn
văn cho ông Kỳ, ông ta hờ hững đón nhận, nói qua tiếng cười : "Cứ để lại
cho tôi, tối tôi sẽ coi. Bây giờ còn đang dở ván mà chược." Hiểu tính ông,
tôi xin rút lui để cho ông đỡ mất hứng... Thái độ Tướng Thiệu chững chạc hơn
ông Kỳ nhiều. Khi tôi đưa ra bản thảo bài diễn văn, ông Thiệu kêu người pha trà
mời tôi, rồi thận trọng duyệt lại bản thảo. Ông Thiệu đọc đi đọc lại nhiều lần,
cân nhắc từng câu, từng chữ, có khi đến cả dấu chấm, phẩy trong bài. Sự tương
phản giữa hai ông Thiệu và Kỳ quá rõ ràng. Mặc dù ông Thiệu lúc ấy chỉ có hư vị
nên thái độ khiêm tốn hơn, thận trọng hơn; nhưng nói về bản chất một cấp lãnh
đạo và chỉ huy, ông Thiệu có vẻ được chuẩn bị sẵn và được một ban cố vấn có khả
năng tiếp sức." 20
Về tính cẩn trọng này của ông Thiệu, chúng ta sẽ có dịp biết thêm
khi xét đến giai đoạn ông đã là Tổng Thống qua các nhận xét của những nhân vật
thân cận với ông như Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng và Cố vấn Nguyễn Văn Ngân.
Trong thời gian nắm giữ chức vụ Chủ Tịch UBLĐQG, tức Quốc Truởng,
Tướng Thiệu đã chứng tỏ khả năng chính trị của ông qua môt số sự việc mà quan
trọng nhứt là vụ Biến Động Miền Trung năm 1966. “13-3-66, Hội-đồng
Tướng-lãnh, gồm cả các chỉ huy địa phương nhóm họp tại Bộ
Tổng-tham-mưu và biểu quyết với 32 phiếu thuận và 4 phiếu trắng cho
tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ việc. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân được cử
lên thay làm Tư-lịnh Vùng I kiêm Đại-biểu Chính-phủ.”21
Đây
là một cuộc khủng hoảng chính trị lớn nhứt trong thời gian cầm quyền của Chính
phủ Nguyễn Cao Kỳ tức Nội Các Chiến Tranh. Cuộc khủng hoảng chính trị này
rất phức tạp và ảnh hưởng trên ¼ lãnh thổ của VNCH, lại ngay sát
vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc nên gây ra rất nhiều bối rối,
khó khăn cho Nội các Nguyễn Cao Kỳ và cả UBLĐQG. Sau khi Tướng Thi bị
cách chức Tư Lệnh Vùng I vào ngày 13-3-1966, chỉ trong một thời gian
rất ngắn mà đã có 4 bốn lần thay đổi tướng Tư Lệng Vùng I như sau:
- Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân: từ ngày 13-3-1966 đến ngày
8-4-1966
- Trung Tướng Tôn Thất Đính: từ ngày 9-4-1966 đến ngày
15-5-1966
- Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao: từ ngày 16-5-1966 đến ngày
30-5-1966
- Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm: từ ngày 31-5-1966
Điều này cho thấy UBLĐQG, mà Chủ tịch là Tướng Thiệu, đã
rất lúng túng và phạm sai lầm nhiều lần trong việc giải quyết cuộc
khủng hoảng chính trị này. Nó cho chúng ta thấy rất rõ tính cách
“tập sự cầm quyền” của Tướng Thiệu trong giai đoạn này Đồng thời nó
cũng cho thấy rõ là Tướng Thiệu đã học tập có kết quả tốt khi ông
biết kết hợp cả 2 mặt quân sự và chính trị (vừa cương vừa nhu) trong
giai đoạn cuối khi kết thúc cuộc khủng hoảng chính trị này. Chúng ta
hãy xem lại diễn tiến của việc giải quyết cuộc khủng hoảng để thấy
rõ sự trưởng thành về chính trị của UBLĐQG mà Tướng Thiệu là người
cầm đầu: 22
- Vào
khoảng cuối tháng 3-1966, chính quyền trung ương ở Sài Gòn gần
như không còn kiểm soát được Vùng I nữa. Ngày 4-4-1965, Tướng Kỳ
cùng với hai tướng Nguyễn Hữu Có, Cao Văn Viên và Đại Tá Nguyễn Ngọc
Loan mang 2 Tiểu đoàn TQLC có chiến xa yểm trợ ra Đà Nẵng và gặp sự chống
đối quyết liệt của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư Lệnh Quân Đoàn I và
Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh. Trước sự chống
đối quyết liệt có thể đưa đến một cuộc đụng độ đẫm máu giữa
các đơn vị của QLVNCH, Tướng Kỳ và Tướng Viên quyết định trở về Sài
Gòn nhưng vẫn để các đơn vị TQLC ở lại; Tướng Có ở lại để điều đình
với phe chống đối.
- Các
ngày sau đó, sau khi họp với phe Phật Giáo (do Thượng Tọa Thích
Tâm Châu lãnh đạo), UBLĐQG đồng ý sẽ tổ chức bầu cử Quốc Hội
Lập Hiến (QHLH) trong vòng 6 tháng. Nhưng sau đó Thương Tọa Tâm Châu
lại có văn thư đòi hỏi nhiều chuyện khác trong đó có đòi hỏi
chính quyền trung ương phải rút hết quân về Sài Gòn. Tướng Kỳ
rất tức giận và đơn phương ra lệnh đưa thêm quân ra Đà Nẵng, lần
này gồm cả TQLC và Nhảy Dù. Được tin này, Tướng Thiệu yêu cầu
Tướng Viên gửi công điện hỏa tốc, ra lệnh rút các lực lượng
tổng trừ bị đó về Sài Gòn ngay.
- Ngày
12-4-1966, UBLĐQG triệu tập Đại Hội Chính Trị Toàn Quốc tại Sài
Gòn. Ngày 14-4, khi Đại Hội bế mạc, Tướng Thiệu đích thân đến
chủ tọa và đọc Sắc Luật 14/66 thông báo chính phủ sẽ tổ chức
bầu cử QHLH trong vòng từ 3 tới 5 tháng.
- Ngày
22-4-1966, để thi hành Sắc Luật 14/66 nói trên, UBHPTƯ triệu tập
một Ủy Ban gồm 48 người với nhiệm vụ soạn thảo luật bầu cử
QHLH.
- Mặc dù chính quyền trung ương đã nhượng bộ và đã tiến hành các bước cần thiết trong việc bầu cử QHLH, phe Phật Giáo ở Miền Trung dưới sự lãnh đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn tiếp tục chống đối và biểu tình bạo động. Lần này thì Tướng Thiệu cương quyết dùng võ lực. Ngày 15-5-1966 chính ông ra lệnh đem quân ra Đà Nẵng để tái lập trật tự.
- Ông thật sự đã áp dụng bài
học mà ông đã học được trong lúc làm Tổng Thư Ký cho Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng (từ tháng 2 đến tháng 9-1964) thời Tướng
Nguyễn Khánh làm Chủ Tịch: “Càng nhượng bộ thì phe Phật Giáo
càng lấn tới; điều này có nghĩa là nhượng bộ nhiều quá không phải là một
điều hay trong chính trị.” Cuối tháng 6-1966, quân của chính
quyền trung ương từ Sài Gòn gửi ra hoàn toàn làm chủ tình hình
tại Đà Nẵng và Huế; cuộc khủng hoảng chính trị tại Vùng I
chấm đứt.
Cũng trong thời gian giải quyết cuộc khủng hoảng này,
ngày 6-6-1966, Hội Đồng Tướng Lãnh nhóm họp tại Bộ Tổng Tham Mưu
quyết định mở rộng UBLĐQG và mời 10 nhân vật dân sự thuộc các tôn
giáo và chính đảng tham gia, gồm các vị sau đây: “Trần Văn Đỗ,
Phạm Hữu Chương, Phan Khoang (Viẹt Nam Quôc Dân Đảng), Nguyễn Văn Huyền
(Công Giáo), Vũ Ngọc Trân (Công Giáo), Trần Văn Ân (Cao Đài), Văn Thành
Cao (Cao Đài), Nguyễn Lưu Viên, Quan Hữu Kim (Hòa Hảo), Huỳnh Văn Nhiệm
(Hòa Hảo).” 23
Khi xảy ra vụ khủng hoảng nội các vào tháng 10-1966 (6 vị
Bộ Trưởng gốc Miền Nam từ chức để phản đối Tướng Nguyễn Ngọc Loan
lạm quyền), một lần nữa gây khó khăn không ít cho Chính phủ Nguyễn
Cao Kỳ, chính UBLĐQG mở rộng này cũng đã có đóng góp trong việc hòa
giải, khiến 4 trong 6 Bộ Trưởng đồng ý rút đơn từ chức và tiếp tục
ở lại phục vụ cho Nội Các Chiến Tranh.
Sau khi Hiến Pháp mới được ban hành vào ngày 1-4-1967, đối
với Tướng Thiệu, cuộc bầu cử chức vụ Tổng Thống đầu tiên của nền
Đệ Nhị Cộng Hòa, sẽ tổ chức vào ngày 3-9-1967, là một cơ hội không
thể bỏ qua, và lần này, ông quyết tâm phải dành cho được chức vụ
này, không để phạm sai lầm một lần nữa như hồi tháng 6-1965 khi QLVNCH
thành lập UBLĐQG và UBHPTƯ. Hơn ai hết, Tướng Thiệu biết rất rõ
rằng tại thời điểm này, sau hai năm trực tiếp nắm quyền trên cả nước
với tư cách là Chủ Tịch UBHPTƯ (tức Thủ Tướng), thế lực của Tướng
Kỳ đã hoàn toàn chế ngự chính trường VNCH.
Nhưng ông cũng biết rất
rõ rằng tất cả các tướng lãnh nói riêng và cả quân đội nói chung
đều không muốn thấy một liên danh dân sự (với những chính trị gia
được dân chúng Miền Nam ủng hộ mạnh mẻ như các ông Trần Văn Hương,
Phan Khắc Sửu) thắng trong cuộc tranh cử này. Chuyện này có thể xảy
ra nếu số phiếu của các cử tri phe quân nhân có thể bị chia ra trong
trường hợp có hai liên danh quân nhân. Do đó, sau khi Tướng Kỳ tuyên bố
ra tranh cử Tổng Thống trong một cuộc họp báo tại Đà Lạt vào ngày
12-5-1967, thì một tuần lễ sau, ngày 19-5-1967, Phủ Chủ Tịch UBLĐQG
cũng ra thông báo là Tướng Thiệu sẽ ứng cử chức vụ Tổng Thống.
Các
tướng lãnh, nhứt là các tướng lãnh thuộc phe Tướng Kỳ, rất không yên
tâm về chuyện này. Họ cử Tướng Nguyễn Đức Thắng đến gặp Tướng
Thiệu để thuyết phục Tướng Thiệu rút lui nhưng Tướng Thiệu nhứt quyết
không chịu. Trước tình thế này, Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu
Trưởng QLVNCH, phải triệu tập cuộc họp của Đại Hội Đồng Quân Lực
tại Bộ Tổng Tham Mưu vào 2 ngày 28 và 29-6-1967 để áp lực 2 tướng
Thiệu Kỳ phải đứng chung với nhau trong một liên danh, và vì vấn đề
hệ thống quân giai, Tướng Thiệu là một Trung Tướng (3 sao) phải đứng
trên (Tổng Thống), và Tướng Kỳ là một Thiếu Tướng (2 sao) phải đứng
dưới (Phó Tổng Thống) trong liên danh chung này.
Để thỏa mãn tự ái
của Tướng Kỳ và giúp cho Tướng Kỳ dễ dàng chấp nhận đứng chung và
làm phó trong liên danh chung này, Tướng Thiệu đã chấp nhận ký tên
vào một Mật Ước giữa các tướng lãnh cao cấp, đồng ý là, nếu đắc
cử, ông chỉ là Tổng Thống trên danh nghĩa mà thôi, tất cả quyền hành
vẫn thuộc về Tướng Kỳ.24 Như vậy, nhờ quyết tâm cao và
tính toán đúng, Tướng Thiệu đã thắng lớn trong ván bài chính trị
này, một ván bài đã thua thấy rõ ngay từ đầu. Quyết tâm và tính
toán này sẽ được ông áp dụng nhiều lần nữa sau này khi ông đã trở
thành Tổng Thống VNCH.
(Còn tiếp)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết