Những sự thật
cần phải biết - (Phần 25) - Lê Đức Anh - Kẻ bán nước
Đặng Chí Hùng
(Danlambao) - Lê
Đức Anh là một tên cai phu cao su có nhiều tội ác với những người dân lành. Đây
là kẻ đã từng tiếp tay cho thực dân Pháp đánh đập nhân dân ta. Đó là tội ác
không thể dung tha. Đặc biệt, Lê Đức Anh có vai trò rất quan trọng trong việc
bán nước của đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó chúng ta cần phải thấy rõ được bộ
mặt thật của Lê Đức Anh để nhân dân một ngày gần đây xét xử trước công luận về
tội ác này. Đó chính là lẽ phải và chính nghĩa mà chúng ta phải đấu tranh vì
một dân tộc Việt Nam trường tồn mãi mãi...
I. Ác ôn giả danh dân lành:
1. Lý lịch hiện nay:
Theo tài liệu được cung cấp trên trang chính của
báo điện tử cộng sản thì Lý lịch của Lê Đức Anh như sau:
“Họ và tên: Lê Đức Anh
Bí danh: Sáu Nam
Ngày sinh: 1920
Quê quán: xã Bàn Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên - Huế
Ngày tham gia cách mạng: 1937
Ngày vào Đảng: 30-5-1938
Trình độ học vấn: Văn hóa lớp 7/10, Lý luận
chính trị: Trường Đảng Việt Bắc, Học viện Quân sự cao cấp Liên Xô.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Từ 1937 đến 1945: Tham gia phong trào dân chủ
ở Phú Vang, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1938, Chỉ huy
quân đội vũ trang ở Thủ Dầu Một; Trung đội trưởng, Chính trị viên đại đội,
Chính trị viên tiểu đoàn, Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một, Ủy viên
Ban Chấp hành cao su Nam Bộ.
Từ 10/1948 đến 1950: Được cử giữ các chức vụ:
Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8; Khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Quân khu ủy viên.
Từ 1/1951 đến 1975: Tham mưu phó Bộ Tư lệnh
Nam Bộ, Cục phó Cục Tác chiến, Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Cục trưởng Cục
Quân lực, Phó Tổng tham mưu trưởng, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền, Tư lệnh
Quân khu 9, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Trung tướng (1974).
Từ 1975 đến 1976: Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ
Chí Minh, Tư lệnh cánh quân Tây Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân khu ủy,
Đại biểu Quốc hội khóa VI.
Từ 12/1976: Tại Đại hội IV được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu 7 (1978), Ủy viên
Quân ủy Trung ương, Thượng tướng (1980).
Từ 6/1981: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư
lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Tại Đại hội V (3/1982) của Đảng
được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng
bầu vào Bộ Chính trị, Đại tướng (1984). Từ tháng 2/1987 tháng 9/1992: Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng, tại Đại hội VI (12/1986) và Đại hội VII (6/1991) được bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ
Chính trị. Đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Từ 1992: Được Quốc hội khóa IX bầu làm Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội VIII (6/1996), được
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào
Bộ Chính trị, giữ chức Chủ tịch nước.
Từ 12/1997: Được Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.”.
Theo tài liệu dạy lịch sử tóm tắt của cộng sản
Việt Nam thì tiểu sử tóm tắt của Lê Đức Anh như sau: “Lê Đức Anh (sinh 1920), nhà hoạt động quân
sự, chính trị Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam; đại tướng. Quê làng Bàn Môn,
huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tham gia cách mạng từ 1937. Đảng viên
Đảng Cộng sản Đông Dương. Tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc
Ninh, các đồn điền Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch (1944).
Gia nhập lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam
(8.1945). Thời kì 1945 - 54, đã kinh qua các chức vụ từ cấp trung đội, đại đội,
tiểu đoàn, chi đội, trung đoàn, tham mưu trưởng Khu VII, Khu VIII, Khu Sài Gòn
- Chợ Lớn, tham mưu phó rồi quyền tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Cục phó
Cục Tác chiến, cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu, phó tư lệnh kiêm tham
mưu trưởng Quân giải phóng Miền Nam (1964 - 68). Tham gia chiến dịch đánh bại
cuộc hành quân Jansơn Xiti (Junction City)) của Mĩ vào căn cứ của Trung ương
Cục và Bộ Chỉ huy Miền ở Tây Ninh (1967); đánh vào khu vực Chợ Lớn trong cuộc
Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Tư lệnh Quân khu IX (1969 - 74). Phó tư lệnh
Chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm tư lệnh cánh quân Tây Nam đánh vào Sài Gòn (1975).
Từ 5.1976 đến 1978, tư lệnh Quân khu IX, tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu VII.
Thành viên của Ban Lãnh đạo chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam tại
Campuchia (2. 1979). Tháng 12.1986 - 87, tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân
Việt Nam, bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm phó bí thư Quân ủy Trung ương. Chủ tịch
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992 - 97). Ủy viên Bộ Chính trị (khóa
V - VIII); Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, ủy viên thường vụ Bộ Chính trị
(6.1996 - 12.1997). Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX. Cố vấn Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (12.1997 - 4.2001). Huân chương Sao
vàng, huân chương Quân công hạng nhất, huân chương Chiến thắng hạng nhất và
nhiều huân, huy chương khác.” (1)
Ngoài ra trên wiki tiếng Việt (có sự chấp thuận
của cộng sản) thì lý lịch của Lê Đức Anh cũng không có gì khác so với bản lý
lịch nêu trên. Nó chỉ có thêm 2 chi tiết chính đó là Lê Đức Anh có bí danh Sáu
Nam và nhắc tới con trai là Lê Mạnh Hà, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh. Con trai là Lê Sỹ Hiệp, Vụ trưởng, Thư ký Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
(2)
Qua 3 tài liệu của cộng sản ta có thể thấy lý
lịch của Lê Đức Anh khá sạch. Nhưng sự thật có phải như thế không? Chúng ta sẽ
được thấy ngay sau đây.
2. Lý lịch bất minh:
Lý lịch của Lê Đức Anh đã được chính các cán bộ
cộng sản đề nghị xem xét vì có nhiều bất minh. Hãy theo dõi những tài liệu dưới
đây để thấy điều này.
Thứ nhất, về các bản khai lý lịch của Lê Đức Anh đã cho thấy sự mâu thuẫn.
Sau đây là lược trích dẫn nội dung thư của 3 tướng cộng sản Phùng Thế Tài, Lê
Tự Đồng và Nguyễn Quyết như sau:
Một tài liệu tháng 11-1976, khi Lê Đức Anh tham
gia Đại hội 4 và được đề cử vào Ban chấp hành Trung ương. Lúc đó Lê Đức Anh là
Tư lệnh Quân khu 9. Tài liệu này ghi:
“- Thành phần gia đình: Trung nông; Bản thân:
Viên chức
- Tham gia cách mạng: 1937
- Vào Đảng: 7 - 1945
- Chính thức: 8 - 1945
Bản thân học đến năm 1937, ra dạy tư ở Phú
Vang, được kết nạp Đảng vào năm 1938, nhưng chưa sinh hoạt chi bộ. Giữa năm
1939, người anh rể (Hồ Văn Nguyên) bị bắt nên mất liên lạc. Cuối năm 1939 vào
Hội An, năm 1940 vào Đà Lạt - Lộc Ninh. Tháng 11 năm 1944 tiếp mối liên lạc
hoạt động trong công nhân cao su. Tháng 7-1945 được giao nhiệm vụ chuẩn bị khởi
nghĩa. Lấy đó làm ngày kết nạp và lấy ngày 30-8-1945 là ngày làm Tỉnh ủy viên
Thủ Dầu Một làm ngày chính thức”.
Một tài liệu nữa làm tháng 8 - 1986 trước Đại
hội 6. Lúc đó Lê Đức Anh là Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia,
Ủy viên Bộ Chính trị. Trước đó Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân khu 7. Tài liệu này
ghi như sau:
“- Thành phần gia đình: Trung nông
- Bản thân: Công nhân
- Ngày và nơi tham gia cách mạng: 1937
- Ngày nhập ngũ: Tháng 8 - 1945
- Ngày vào Đảng: 30 - 5 - 1938
- Ngày chính thức: 05 - 10 - 1938
1937: Tham gia phong trào Bình Dân ở Phú Vang,
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 năm 1938. Giữa năm 1939, địch
khủng bố mất liên lạc, vào Hội An, Đà Lạt, Thủ Dầu Một làm ăn. 4-1944: Được
giao các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi. 8-1945: Chỉ huy quân đội vũ
trang Thủ Dầu Một, làm trung đội trưởng, chính trị viên đại đội, chính trị tiểu
đoàn, chính trị viên chi đội 1, sau là trung đoàn 301, trung đoàn ủy viên, Tỉnh
ủy viên Thủ Dầu Một”.
Rõ ràng 2 bản lý lịch khai ngày vào đảng khác
nhau và từ đó có 1 số vấn đề xảy ra khiến các quan chức cộng sản kỳ cựu đặt vấn
đề. Phải nói rằng, trong công tác Đảng viên của cộng sản thì vấn đề Đảng tịch
bất cứ thời kỳ nào cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu. Điều lệ Đảng quy định:“Đảng viên chỉ được tính tuổi Đảng từ khi được
kết nạp Đảng chính thức. Có nghĩa rằng chỉ có thể chính thức được công nhận là
Đảng viên từ ngày được chi bộ chính thức kết nạp”.
Trong bản tóm tắt lý lịch lần thứ nhất (tháng 11
- 1976) của Lê Đức Anh có ghi rõ: chưa sinh hoạt chi bộ. năm 1939 thì mất liên
lạc. Cho dù được kết nạp dự bị năm 1938 thì cũng không thể kết nạp chính thức,
vì chưa sinh hoạt chi bộ. Bản tóm tắt lý lịch này còn ghi là: “Tháng 11 - 1944 tiếp mối liên lạc hoạt động
trong công nhân cao su”. Vậy,
tiếp nối liên lạc hoạt động gì? Hoạt động Đảng là hoạt động với tư cách đảng
viên chính thức hay đảng viên dự bị? Giả định đã tiếp mối liên lạc về Đảng thì
sau đó hoặc là được kết nạp dự bị lại, hoặc là sau một thời gian thử thách được
chính thức kết nạp vào Đảng. Trong tóm tắt lý lịch tháng 11-1976 không nói điều
này. Xin lưu ý là từ tháng 4 - 1944 đến tháng 7 - 1945 là 1 năm 3 tháng. Lúc đó
đang là cao trào cách mạng tiền khởi nghĩa, có vùng Đảng đã hoạt động bán công
khai. Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 còn ghi là: “Tháng 7-1945 được giao nhiệm vụ chuẩn bị khởi
nghĩa. Lấy đó làm ngày kết nạp và lấy ngày 30-8-1945 là ngày làm Tỉnh ủy viên
Thủ Dầu Một làm ngày chính thức”. Việc dùng từ “lấy đó” chính là việc mập mờ kết nạp và chưa kết
nạp đảng của Lê Đức Anh.
Bản tóm tắt lý lịch tháng 11-1976 ghi: Thành
phần là “viên chức”. Viên chức là thuộc thành phần tiểu tư sản. Được kết nạp
năm 1938, nhưng không có ngày. Điều lệ Đảng cộng sản trước đây quy định: “Thời gian dự bị của những người được kết nạp Đảng
thành phần tiểu tư sản là 6 tháng. Còn xuất thân thành phần công nhân thời gian
dự bị là 3 tháng”. Cho nên khi khai ngày
kết nạp (dự bị) là 30 - 5 - 1938 và ngày chính thức là 05-10-1938 (cách nhau 4
tháng 6 ngày thì tất nhiên kèm theo đó phải khai tụt xuống là xuất thân công
nhân). Vì nếu xuất thân viên chức thì thời gian dự bị phải là 6 tháng. Rõ ràng
là Lê Đức Anh khai man lý lịch. Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 ghi: “Tham gia Mặt trận Bình Dân, bị địch khủng bố
mất liên lạc vào Nam Bộ làm ăn. Tháng 4-1944, tiếp tục hoạt động”. Như vậy là chỉ nói tham gia Mặt trận Bình Dân,
không nói rõ tham gia Đảng. Chỉ nói “mất liên lạc vào Nam Bộ làm ăn. Tháng
4-1944 tiếp tục hoạt động”. Như vậy là từ năm 1939 đến tháng 4 năm 1944 làm ăn,
không hoạt động gì, thời gian đó là hơn 5 năm. 5 năm không phải là thời gian
ngắn.
Bản tóm tắt lý lịch tháng 11-1976 như vậy, thế
thì làm sao lại có thể sinh ra trong bản tóm tắt lý lịch lần 2: “ngày vào Đảng là ngày 30-5-1938, ngày chính
thức là ngày 05- 10 - 1938?” Vì sao đến năm 1986 lại nhớ cụ thể ngày tháng kết nạp chính thức
đến như vậy? Nếu được kết nạp chính thức rồi mà trong suốt 5 năm ấy, sao không
tìm cách bắt liên lạc với Đảng? Khi vào Hội An, phong trào cách mạng ở Hội An,
Duy Xuyên, Quảng Nam rất mạnh. Tổ chức Đảng và các tổ chức công khai như các
hội ái hữu, các nghiệp đoàn đều hoạt động mạnh, ngay trong Sở đạc điền mà Lê
Đức Anh làm thư ký cũng có tổ chức quần chúng của Đảng. Rõ ràng có sự man trá
trong lý lịch của Anh.
Xem nguyên văn bức thư tại: (3)
Lê Đức Anh và Thủ tướng X
Thứ hai, ông Năm Thi là một cộng sản kỳ cự trong bức thư gửi Lê Đức Thọ
yêu cầu xác minh lý lịch và các vấn đề về Lê Đức Anh viết ngày 2 - 8 - 1986 có
nói: “Đầu năm 1945, tôi
(Năm Thi là Ủy viên Ban cán sự Thủ Dầu Một) được phân công đến Lộc Ninh để kiểm
điểm khả năng tổ chức lực lượng Mặt trận Việt Minh... Tháng 2-1945 một tổ chức Mặt
trận Việt Minh trong công nhân cao su... Ngày vào Đảng năm 1945 (của đồng chí
Lê Đức Anh) do Đảng bộ Thủ Dầu Một có thể là đúng. Còn trước năm 1945, tôi (Năm
Thi) chưa thấy rõ vì không có sự giới thiệu nào là một đồng chí đảng viên nằm
vùng... Nhiều đồng chí chí cho rằng: đồng chí Lê Đức Anh chưa được kết nạp hoặc
chưa được kết nạp chính thức. cho nên mới dùng cái từ “lấy đó làm ngày kết nạp,
lấy đó làm ngày chính thức”. Vì vậy, yêu cầu thẩm tra đảng tịch đồng chí Lê Đức
Anh của nhiều đồng chí lão thành cách mạng là có lý do xác đáng. Nhiều đồng chí
cán bộ, đảng viên nghi vấn đồng chí Lê Đức Anh chưa được kết nạp vào Đảng là có
lý do... cần phải Điều tra lý lịch ngày vào Đảng có phải là 44 hay 39?...”
Như vậy rõ ràng Lê Đức Anh tự khai vào Đảng ngày
30 tháng 5 năm 1938 và chính thức ngày 05 tháng 10 năm 1938 là khai man.
Thứ ba, một bức thư khác của 3 ông tướng cộng sản Phùng Thế Tài, Lê Tự
Đồng và Hoàng Minh Thảo đề ngày 2/4/2001 cũng đã cho thấy Lê Đức Anh là một
nhân vật bất minh ngay cả với cộng sản:“Ngoài những điểm trên, chúng tôi xin hỏi Ủy ban kiểm tra Trung
ương có nghe đồn về việc Lê Đức Anh đã khai man lý lịch để nhận Huy hiệu 60 năm
tuổi Đảng và đã có thời kỳ làm cai phu Đồn điền. Nghe đâu đã có một đồng chí đã
tố giác việc này. Thực hư ra sao chúng tôi không rõ, nhưng đây là vấn đề bảo vệ
trong sạch của Đảng và cũng là sinh mệnh chính trị của đảng viên, rất mong Ủy
ban kiểm tra Trung ương có xác minh, kết luận rõ ràng.”.
3. Lê Đức Anh thực chất là ai?
Lê Đức Anh học tiểu học ở Huế, năm 11 tuổi ra
Vinh học tiếp nhưng chỉ được một vài năm. Huy Đức viết: “Học vấn của
ông Lê Đức Anh ở mức đọc thông viết thạo” (QB, tr. 103). Và con ngươi
thật của Lê Đức Anh ra sao? Hãy đọc những tài liệu sau đây:
Thứ nhất, hãy đọc thêm một bức thư nữa của một số vị cộng sản kỳ cựu để
thấy lý lịch của Lê Đức Anh thế nào và Lê Đức Anh là ai.
“Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm
2005
Kính gởi:
- Bộ chính trị
- Ủy ban kiểm tra trung ương đảng
- Ban chấp hành trung ương đảng khóa 9
Đồng kính gởi:
- Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- Đ/c Lê Khả Phiêu, nguyên tổng bí thơ
- Đ/c Nguyễn Đức Tâm, nguyên ủy viên bộ chính
trị, trưởng ban tổ chức trung ương
Chúng tôi gồm:
1. Phạm Văn Xô (Hai Xô) sinh năm 1910, vào
đảng năm 1930, nguyên ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ thời kháng chiến chống
Pháp; ủy viên thường vụ Trung ương Cục miền Nam - trưởng ban kiểm tra trung
ương Cục thời chống Mỹ, nguyên ủy viên ban chấp hành trung ương đảng; ủy viên
ban kiểm tra trung ương khóa 3, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đồng Văn Cống (Bảy Cống), trung tướng, sinh
năm 1918, nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn 99 Nam Bộ thời kháng chiến chống
Pháp; tư lệnh quân khu 9, phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam, ủy viên quân ủy
Miền thời kháng chiến chống Mỹ; tư lệnh quân khu 7, phó tổng thanh tra quân đội
sau ngày đất nước thống nhất, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) sinh năm 1920,
nguyên ủy viên ban cán sự đảng, ủy viên tỉnh ủy, ủy viên thường vụ tỉnh ủy Thủ
Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) từ năm 1942 đến năm 1946, chi đội trưởng chi
đội I, liên trung đoàn trưởng 301-310, tư lệnh đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn (1950),
bí thư đảng bộ nhà tù Côn Đảo (1953) thời kháng chiến chống Pháp; chủ nhiệm hậu
cần bộ chỉ huy Miền thời chống Mỹ, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.
Có thư báo cáo và kiến nghị lên các cơ quan
lãnh đạo cao nhất của đảng mấy điểm sau đây:
Thời gian qua, nhiều cán bộ lão thành cách
mạng và cựu chiến binh cao tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ đến
gặp chúng tôi hỏi tình hình nội bộ đảng. Họ đưa chúng tôi xem nhiều tài liệu mà
con cháu họ truy cập được từ Internet. Trong các tài liệu đó, có thư của nhiều
tướng lĩnh và lão thành cách mạng gửi bộ chính trị và trung ương khóa 9, đặc
biệt là thư ngày 3-1-2004 của đại tướng Võ Nguyên Giáp; các thư của thượng tướng
Nguyễn Nam Khánh, nguyên phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân Đội Nhân Dân
Việt Nam, nguyên ủy viên trung ương đảng các khóa 5, 6, 7; của đồng chí Nguyễn
Trọng Vĩnh, 65 tuổi đảng, nguyên cục trưởng cục tổ chức Tổng cục chính trị Quân
Đội Nhân Dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, ủy viên trung ương đảng khóa
3; của đồng chí Nguyễn Tài, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên thứ
trưởng bộ công an, phó chủ nhiệm ủy ban pháp luật của quốc hội khóa 8.
Các bức thơ tâm huyết đó đều kiến nghị bộ
chính trị phải sớm đưa ra hội nghị trung ương đảng xem xét và xử lý một loạt
các vụ việc nghiêm trọng liên tiếp xảy ra trong đảng hàng chục năm qua, trong
đó có vụ T4, từng được bộ chính trị khóa 8 bàn giao lại cho bộ chính trị khóa 9
và được coi là "một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng" nhưng đến nay
vẫn chưa vạch mặt những kẻ cầm đầu để xử lý một cách triệt để.
Những vụ việc trên, chúng tôi ít nhiều đều có
nghe, có biết. Qua các thư trên, chúng tôi càng hiểu rõ hơn. Nhưng do phải chờ
kết luận của trung ương, chúng tôi không thể giải thích cho những người đến
hỏi.
Nay xin báo cáo và cung cấp một số tư liệu để
trung ương có thêm căn cứ xem xét nguồn gốc các vụ việc nói trên.
Theo chúng tôi thì những vụ việc nghiêm trọng
xảy ra trong hơn hai chục năm qua, từ vụ Xiêm Riệp (1983), Sáu Sứ (1991), vụ
nâng Cục 2 lên thành Tổng Cục 2 với quyền hạn siêu đảng, siêu nhà nước, được
hợp pháp hóa bằng pháp lệnh tình báo của quốc hội và nghị định 96/CP của chính
phủ, vụ T4 (1997-1999), đến vụ nói xấu, vu khống nhằm lật đổ tổng bí thư Lê Khả
Phiêu trước đại hội 9, v.v., đều có bàn tay của nhân vật từng hoạt động cách
mạng và kháng chiến ở Nam Bộ mà chúng tôi đều biết rõ. Đó là nguyên cai đồn
điền cao su, nguyên chủ tịch nước, nguyên cố vấn Lê Đức Anh.
Vì sự trong sạch và vững mạnh của đảng, với ý
thức trách nhiệm của những người cộng sản từng gắn bó với đảng và hoạt động ở
Nam Bộ hơn sáu bảy chục năm qua, chúng tôi xin báo cáo với đảng một số hiểu
biết về Lê Đức Anh như sau:
1. Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su
như tự khai trong lý lịch mà là người phụ trách việc chế biến thực phẩm cho chủ
đồn điền và các quan chức Pháp ở Lộc Ninh (chef des cooperatives) từ đầu thập
kỷ 40 của thế kỷ 20, được anh chị em công nhân cao su đặt cho biệt danh là "cai
lé", do chột mắt vì bệnh đậu mùa. Lê Đức Anh là người giúp việc thân cận
của chủ đồn điền De Lalant (Delalande?), một sĩ quan phòng nhì của Pháp. Lương
của y cao như lương của chef de camp.
Năm 1955, sau khi bộ đội Nam Bộ tập kết ra
miền Bắc, đồng chí Trần Văn Trà là tư lệnh kiêm chính ủy, đồng chí Nguyễn Văn
Vịnh là phó chính ủy, đồng chí Đồng Văn Cống làm tham mưu trưởng, Lê Đức Anh
làm tham mưu phó. Thấy Lê Đức Anh không được vào đảng ủy, đ/c Đồng Văn Cống hỏi
thì đ/c Vịnh trả lời: "Qua lớp chỉnh đảng ở Việt Bắc, lý lịch của Lê Đức
Anh không rõ, nên không giới thiệu".
Trong một lần tâm sự với Lê Đức Anh, đ/c Đồng
Văn Cống hỏi: "Nghe người ta nói cậu là surveillant?". Lê Đức Anh
không trả lời. Đ/c Đồng Văn Cống hỏi tiếp: "Hay cậu là 2è bureau (phòng nhì)?".
Lúc ấy Lê Đức Anh mới trả lời: "Tôi làm công chức cho đồn điền".
Đến Đại hội đảng lần 4 năm 1976, đ/c Đồng Văn
Cống, Lê Đức Anh và Nguyễn Chánh Nam Bộ cùng dự đại hội, sinh hoạt trong đoàn
quân sự. Khi xem danh sách giới thiệu vào trung ương khóa 4, thấy ghi Lê Đức
Anh là công nhân cao su, đ/c Đồng Văn Cống hỏi: "Sao cậu khai là công
nhân?". Lê Đức Anh ấp úng trả lời: "Họ ghi sai, tôi là công
chức!".
2. Lê Đức Anh không phải là đảng viên từ năm
1938 mà từ tháng 4 năm 1945, khi ban cán sự đảng Thủ Dầu Một tuyên bố tổ chức y
vào đảng và giao nhiệm vụ cho y về gây dựng cơ sở cách mạng ở đồn điền cao su
Lộc Ninh trong một cuộc họp có 8 người, trong đó có đồng chí Năm Thi tham dự,
vì thấy y tỏ ra hăng hái trong phong trào công nhân cao su ở Lộc Ninh sau ngày
Nhật đảo chánh Pháp. Cuộc họp đó do bí thơ Văn Công Khai chủ trì bàn việc phối
hợp với phe đồng minh chống phát xít Nhật theo chủ trương chung của mặt trận
Việt Minh.
Do man khai đảng viên từ năm 1938, nên năm
1998, Lê Đức Anh được tặng huy hiệu 60 năm tuổi đảng, được báo chí, truyền hình
rầm rộ đưa tin trên cả nước!
Đầu năm 2002, để tiếp tục "hợp thức
hóa" đảng tịch của mình, Lê Đức Anh cho công chiếu trên đài truyền hình
trung ương bộ phim tài liệu nhan đề "Đồng chí Lê Đức Anh" vào tối
mùng 4 Tết. Không tìm được "nhân chứng lịch sử" nào sáng giá hơn,
người ta cho xuất hiện một ông anh trong gia đình để xác nhận "Lê Đức Anh
từng đậu Đíp-lôm (bằng Thành Chung) và vào đảng năm 1938!".
3. Lê Đức Anh đã hai lần để sổng toàn quyền
Decoux, thống đốc Nam Kỳ Hoffen và chủ đồn điền De Lalant, sĩ quan phòng nhì
của Pháp.
Trong cuộc đảo chánh Nhật-Pháp ngày 9-3-1945,
quân Nhật bắt được toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux và thống đốc Nam Kỳ
Hoffen tại Sài Gòn, sau đó giải về giam ở nhà De Lalant, chủ đồn điền cao su ở
Lộc Ninh. Đ/c Năm Thi được giao nhiệm vụ dẫn một đội vũ trang lên Lộc Ninh tìm
cách bắt sống hoặc tiêu diệt tiểu đội bảo vệ của Nhật, rồi tổ chức dẫn độ
Decoux và đồng bọn lên Buôn Mê Thuột để đưa ra Bắc chuyển giao cho trung ương.
Đ/c Năm Thi đã bàn bạc với Lê Đức Anh và nhất trí lên kế hoạch phối hợp hành
động. Nhưng đêm hôm sau, y bất ngờ hủy bỏ kế hoạch, viện cớ sẽ bị quân Nhật kéo
lên khủng bố, phá vỡ cơ sở cách mạng của y!
Tháng 9-1945, khi chỉ huy quân Anh vào Nam vĩ
tuyến 16 tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật, tướng Gracey đòi Nhật trao Decoux
và đồng bọn cho quân đội Anh. Để ngăn cản việc đó, tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ
trương cắt đường giao thông từ Lộc Ninh về Sài Gòn, bằng cách đốn cây cản đường
từ Lộc Ninh về Hớn Quản rồi phục kích tiêu diệt lực lượng áp giải để bắt bọn
Decoux, đơn vị của Lê Đức Anh đã được bổ sung thêm vũ khí để thực hiện nhiệm vụ
này. Y nhận lệnh nhưng đã tránh né, cử người khác làm thay. Tên này đã lệnh cho
tự vệ dỡ cây và mở đường cho bọn Nhật đưa Decoux, Hoffen và De Lalant về Sài
Gòn an toàn!
4. Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Nam Bộ, Lê Đức Anh đã bỏ chạy, không tổ chức cho lực lượng võ trang đánh
trả quân Pháp tập kích vào Thuận Lợi, phá hủy một khối lượng lớn cơ sở vật chất
dự trữ của miền Đông.
Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng
chiến, ta chủ trương di chuyển máy móc thiết bị, vật tư, lương thực của các đồn
điền cao su và các địa phương miền Đông Nam Bộ về khu vực Thuận Lợi (Phú Riềng
cũ) thuộc công ty cao su Dầu Tiếng là địa bàn ở sâu trong hậu phương ta. Trong
khi quân Pháp tập kích Thuận Lợi, Lê Đức Anh và lực lượng võ trang thuộc quyền
của y đang đóng trên đất Thuận Lợi nhưng đã không tổ chức chiến đấu đánh trả
quân địch mà bỏ chạy dài về Cổng Xanh, chiến khu Đ. Do đó, Thuận Lợi bị quân
Pháp đốt cháy toàn bộ kho tàng, nhà cửa trong ba ngày đêm liền. Nghe tin tư
lệnh Nguyễn Bình sẽ xử tử mình vì tội đó, Lê Đức Anh bèn lánh mặt, đưa quân về
vùng Bắc Bến Cát. (Lúc ấy, đ/c Năm Thi là ủy viên thường vụ tỉnh ủy, chi đội
phó, kiêm tham mưu trưởng chi đội I Thủ Dầu Một nên biết rõ việc này).
5. Từ năm 1979 đến 1989, lãnh đạo và chỉ huy
quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu và giúp bạn ở Campuchia, Lê Đức Anh đã phạm
nhiều sai lầm về chính trị và quân sự.
- Về chính trị: ngoài vụ Xiêm Riệp bắt nguồn
từ chủ trương "đánh địch ngầm" do Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh đề ra, Lê
Đức Anh đã có nhiều biểu hiện và hành vi coi thường bạn, cho kiểm tra nhà ở của
một số ủy viên bộ chính trị đảng nhân dân cách mạng Campuchia, bao biện làm
thay, can thiệp vào công việc nội bộ, bắt bớ đảng viên của bạn khiến bạn phản
ứng và nghi ngờ tình cảm quốc tế trong sáng của đảng, nhà nước và quân đội ta.
- Về quân sự: đã đánh giá quá thấp kẻ địch, chủ
trương "trong năm 1980, quét sạch quân địch ngoài địa hình mà trọng điểm
là vùng rừng Ô-Ran, đồng thời hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ phá tan âm mưu địch
dùng phần tử hai mặt lũng đoạn đảng và chính quyền của bạn". Đã chỉ đạo
chiến tranh theo kiểu ăn đong, năm này chưa xong thì năm sau, kéo dài đến mười
năm vẫn chưa diệt được đối thủ mà Lê Đức Anh gọi là "tàn quân" Pôn
Pốt!
Từ cuối năm 1979, Lê Đức Anh đề ra chủ trương
"khóa chặt biên giới", "xây dựng tuyến phòng thủ biên giới"
với mật danh K5 bằng cách huy động đông đảo nhân dân các địa phương nước bạn,
từ rừng núi đến đồng bằng lên biên giới cùng quân tình nguyện Việt Nam và bộ
đội bạn chặt cây, đào hào, rải chông và căng giây thép gai nhằm ngăn chặn quân
Pôn Pốt từ Thái Lan vào đất Campuchia (!). Mặc dù ta và bạn đã bỏ ra nhiều công
sức và tiền của trong nhiều năm, nhưng biên giới vẫn không "khóa
chặt" được, địch vẫn mở được hành lang qua biên giới vào nội địa, xây dựng
được nhiều căn cứ dọc biên giới, có nơi vào sâu đến 30, 40 kilômét.
Do chủ trương sai lầm của Lê Đức Anh mà hàng
chục vạn cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cũng như bộ đội và nhân dân
bạn đã bỏ xác trên tuyến biên giới dài 1.200 km cũng như trong nội địa do bị
địch đánh úp, do mìn và sốt rét ác tính!
Mặc dù vậy, đến năm 1983, Lê Đức Anh vẫn cho
rằng ở Campuchia chưa có chiến tranh, chỉ mới là những "hoạt động du
kích" của "tàn quân Pôn Pốt". Chúng sẽ bị tàn lụi vào năm 1985
như nghị quyết của ban cán sự và bộ tư lệnh 719! Khi bộ phận tiền phương của
cục khoa học quân sự bộ tổng tham mưu tại Campuchia đề nghị nên có sự đánh giá
khách quan hơn, có sự chỉ huy chiến tranh bài bản hơn trên cơ sở nghiên cứu
tính chất và đặc điểm của cuộc chiến tranh ở Campuchia để tìm ra quy luật đặc
thù của nó, thì Lê Đức Anh nổi giận, ra lệnh cho cơ quan tiền phương cục khoa
học quân sự gồm 10 đại tá phải rút ngay về nước, trả lại cho bộ tổng tham mưu
với lý do "tinh giản biên chế ở chiến trường!".
Có những sai lầm khuyết điểm như trên, nhưng
Lê Đức Anh vẫn thăng tiến rất nhanh, từ ủy viên trung ương khóa 4 lọt vào bộ
chính trị khóa 5 rồi tiến lên nắm chức bộ trưởng bộ quốc phòng, chủ tịch nước!
6. Trong quan hệ gia đình, Lê Đức Anh là người
chồng phản bội: Ra Bắc được mấy năm, Lê Đức Anh nói với đ/c Đồng Văn Cống là sẽ
xin lấy vợ khác, vì bà Bảy Anh trong Nam đã lấy chồng, lại thuộc thành phần gia
đình phản động làm tay sai cho địch! Đ/c Đồng Văn Cống nói: "Hôm ở Cao
Lãnh tôi thấy chị Bảy khóc rất dữ khi tiễn Anh đi tập kết; nghe nói sau đó chị
về công tác ở miền Đông, căn cứ vào đâu mà anh nói Chị đi lấy chồng và theo
địch? Tôi không tán thành".
Nhưng rồi nhờ sự ủng hộ của Lê Đức Thọ, Lê Đức
Anh vẫn bỏ được vợ cũ, lấy được vợ mới. Trong lúc đó thì trong hoàn cảnh đấu
tranh khốc liệt và gian khổ ở miền Nam, chị Bảy Anh vẫn một lòng kiên trung chờ
đợi và tiếp tục hoạt động cách mạng, làm ủy viên tỉnh ủy Bình Dương cho đến
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng!
Khi biết chuyện này, các đồng chí Phạm Hùng,
Nguyễn Thị Định và đồng bào cán bộ miền Nam đều rất bất bình, cho Lê Đức Anh là
một tên vô đạo đức!
Thưa bộ chính trị và ban chấp hành trung ương
đảng!
Đây không phải lần đầu tiên các đảng viên Nam
Bộ báo cáo với đảng những hiểu biết nói trên về Lê Đức Anh.
Từ năm 1982, khi được tin Lê Đức Anh vào bộ
chính trị khóa 5, đồng chí thiếu tướng Tô Ký và hai đồng chí Bảy Cống và Năm
Thi bàn nhau và đã làm báo cáo gởi ủy ban kiểm tra trung ương đảng và thường vụ
thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không có hồi âm!
Cuối năm 1986 đầu năm 1987, khi thấy Lê Đức
Anh lại được bầu vào bộ chính trị rồi làm bộ trưởng bộ quốc phòng sau hai cái
chết bất ngờ của hai đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn, đ/c Nguyễn Văn
Thi lại viết thơ tay gởi trực tiếp đến các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức
Tâm, Lê Đức Thọ nói rõ lai lịch và những hành động đáng ngờ của Lê Đức Anh
trước và sau cách mạng tháng 8-1945, nhưng 18 năm qua các khóa trung ương vẫn
chưa có trả lời.
Đến Hội nghị trung ương 11B khóa 8 tháng 2 năm
2001, trước thủ đoạn nói xấu, vu khống quá lộ liễu của Lê Đức Anh nhằm lật đổ
tổng bí thơ Lê Khả Phiêu, đồng chí Hai Xô đang làm việc ở Hà Nội biết đ/c Năm
Thi từng có đơn tố giác, bèn gọi Năm Thi ra gặp các đồng chí Hai Xô, Nguyễn Đức
Tâm, Mười Hương và ủy ban kiểm tra trung ương để làm rõ quá khứ của Lê Đức Anh
(đ/c Đồng Văn Cống không ra Hà Nội trực tiếp báo cáo, đã phát biểu vào băng ghi
âm gởi ra ủy ban kiểm tra trung ương vào đầu tháng 3 năm 2001). Trong cuộc họp
đó, đ/c Nguyễn Đức Tâm xác nhận: khi làm trưởng ban tổ chức trung ương, có nhận
được thơ tố giác của đ/c Năm Thi, đã báo cáo với Lê Đức Thọ nhưng được trả lời
là gác lại, giải quyết sau. Thấy Lê Đức Anh được Lê Đức Thọ bảo vệ, đ/c Nguyễn
Văn Linh đành phải gác qua. Cũng trong cuộc họp đó, đ/c Hai Xô phát biểu:
"Nếu không chặn đứng được mưu đồ của Lê Đức Anh và đồng bọn, thì tình hình
nội bộ đảng sẽ ngày càng nghiêm trọng!".
Như vậy là hơn hai chục năm qua, qua nhiều lần
đại hội đảng và nhiều khóa trung ương, chúng tôi đã nhiều lần nói rõ về Lê Đức
Anh, nhưng mãi cho đến nay lai lịch, và các hành vi sai trái của nhân vật này
vẫn chưa được xác minh và xử lý, gây tác hại nghiêm trọng đến sự trong sạch và
vững mạnh, sự đoàn kết và thống nhất của đảng.
Chúng tôi nhất trí với ý kiến của đại tướng Võ
Nguyên Giáp là "ban chấp hành trung ương khóa 9 cần xử lý kiên quyết, dứt
điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng điều lệ của đảng,
pháp luật của nhà nước, và kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất kỳ
cương vị nào!".
Chúng tôi tán thành ý kiến của các đ/c Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Nam Khánh, Nguyễn Tài v.v. là "không cho phép duy trì
mãi một tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ, không thể để Tổng Cục 2 tồn tại với
quyền hạn quá rộng như nghị định 96/CP cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ
tình báo quân sự trực thuộc bộ tổng tham mưu như trước đây".
Không cho phép tái diễn những hành vi hãm hại
người trung thực, như người ta từng vu khống, tước quân hàm và định bắt giam
thượng tướng Trần Văn Trà, sau đó phải trả lại quân hàm mà không công bố; từng
vu khống với ý đồ hãm hại đại tướng khai quốc công thần Võ Nguyên Giáp!
Chúng tôi cho rằng: không chỉ riêng vụ T4 mà
toàn bộ những vụ việc xảy ra mấy chục năm qua là những mắt xích của một vụ án
chính trị nghiêm trọng nhất trong lịch sử 75 năm của đảng, có quan hệ đến sự
tồn vong của đảng và đất nước.
Đây không phải là "chuyện ngày xưa"
của mấy vị cách mạng lão thành mà các khóa bộ chính trị và trung ương sau này
không thể làm rõ được. Không! Đây là những vấn đề lịch sử quan trọng cần xác
minh để soi sáng những vụ việc ngày nay. Mảnh đất Lộc Ninh và không ít nhân
chứng cùng thời vẫn còn sống. Chỉ cần có trách nhiệm, có dũng khí và quyết tâm
là làm được! Chúng tôi sẵn sàng có một cuộc đối chất trực diện nếu có bộ chính
trị yêu cầu!
Không thể vin vào lý do: "ổn định nội
bộ" mà bỏ qua và che giấu việc này, vì nhiều tài liệu đã được công bố trên
Internet, nên trong đảng cũng như ngoài đảng, trong nước cũng như ngoài nước,
nhiều người đã biết các vụ việc xảy ra. Hồ chủ tịch nói: "Một đảng che
giấu khuyết điểm sai lầm của mình là một đảng hỏng!". Bộ chính trị càng
bưng bít thì càng mất uy tín, càng làm giảm lòng tin của đảng viên và quần
chúng đối với trung ương.
Đúng như đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh đã cảnh
báo: "Đang có những làn sóng bất bình ngầm ngày càng lan rộng. Sự yên lặng
hiện nay là sự yên lặng của những quả bom nổ chậm chưa đến giờ hẹn". Tình
hình trong Nam cũng vậy.
Kính mong bộ chính trị và ban chấp hành trung
ương lắng nghe tiếng nói đầy tâm huyết của các tướng lĩnh, các cán bộ cách mạng
lão thành mà quá trình hoạt động và sự đóng góp cho cách mạng đã chứng minh sự
trung thành của họ.
Giải quyết dứt điểm và thành công vụ án chính
trị siêu nghiêm trọng này, kiên quyết loại trừ những phần tử cơ hội ra khỏi các
cơ quan quyền lực của đảng và nhà nước, chấm dứt các hiện tượng cá nhân lũng
đoạn là việc làm cấp thiết và cực kỳ quan trọng để chuẩn bị cho đại hội toàn
quốc lần thứ 10 của đảng.
Đây cũng là việc làm thiết thực kỷ niệm 75 năm
ngày thành lập đảng ta!
Xin gởi đến các đồng chí bộ chính trị và trung
ương lời chào trân trọng và rất mong được sớm trả lời!
Xin cám ơn.
Phạm Văn Xô
Địa chỉ: 225-18 Xô Viết nghệ Tinh, quận Bình
Thạnh,
TP. Hồ Chí Minh - Điện thoại: 8.991300
Đồng Văn Cống
Địa chỉ: 774-2 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận,
TP. Hồ Chí Minh - Điện thoại: 8.447328
Nguyễn Văn Thi
Địa chỉ: 20B88 Cư xá Nguyễn Trung Trực, đường
3-2, quận 10,
TP. Hồ Chí Minh - Điện thoại: 8.655878”.
Qua bức thư chúng ta thấy gì? Đó là chính cộng
sản đã khẳng định Lê Đức Anh là cai cao su ác ôn chứ không phải viên chức hay
công nhân. Vậy mà hắn dám giả danh người lương thiện. Đó là tội ác cần được
phanh phui. Ngoài ra xung quanh con người này cũng là một sự thủ đoạn và chống
phá ngay cả đồng chí của mình. Do đó nhân cách của Anh chỉ là số không tròn
trĩnh.
Thứ hai, để khẳng định Lê Đức Anh là cai lé đánh đập phu đồn điền cao su
chúng ta cùng đọc đoạn trích sau từ báo cáo tổng cục chính trị bộ quốc phòng
cộng sản năm 2005: “Việc
một số nguồn tin đồng chí Lê Đức Anh đã từng có thời gian làm phu coi đồn điền
cao su là có thật. Tuy nhiên sau đó đồng chí đã công khai minh bạch điều này
với tổng cục chính trị, ban bí thư trung ương đảng năm 1995. Xét công lao và
thành tích của đồng chí trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và trong
suốt quá trình làm cai phu đồng chí không gây tội ác nào với nhân dân nên đảng
và nước thống nhất chấm dứt mọi nghi kỵ xung quanh việc này...”.
Mặc dù báo cáo là vậy. Tuy nhiên nếu đọc đầy đủ
các báo cáo mật của Vũ Quốc Hùng, hay thư của Nguyễn Chính Tâm (cộng sản kỳ
cựu) cho thấy Lê Đức Anh là một kẻ nhan hiểm và mưu mô đấu đá như bản thân cái
gốc cai phu độc ác của mình:
“Nhằm hạ bệ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trước Đại
hội IX bằng việc gây sức ép nhiều mặt để yêu cầu Ban Chấp hành Trung ương phải
kỷ luật Lê Khả Phiêu trước khi tổ chức Đại hội IX (bởi vì Lê Khả Phiêu đã qua
mặt cả Lê Đức Anh và Đỗ Mười, có ý định giải tán Ban Cố vấn hay chọc gậy bánh
xe, không muốn để cho 2 ông Thái thượng hoàng này lộng quyền đứng trên Bộ Chính
trị và Ban chấp hành Trung ương để sai khiến) nên Lê Đức Anh cùng tay sai là
Nguyễn Bắc Son đã tiến hành những hoạt động hết sức mờ ám, bỉ ổi, thâm độc và
vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và Điều lệ Đảng. Có thể do nhiều nguyên
nhân, nhưng trong đó sự tác động và chỉ huy của Lê Đức Anh và Đỗ Mười đã đóng
vai trò quan trọng nhất trong việc ngăn chặn Lê Khả Phiêu tiếp tục ứng cử chức
vụ Tổng Bí thư trong Đại hội IX của Đảng. Cũng chính vì vậy mà một kẻ ba phải,
thiểu năng về trí tuệ nhưng tham lam và hãnh tiến, có mác là người dân tộc
thiểu số đã được Đỗ Mười và Lê Đức Anh chọn làm Tổng Bí thư để dễ bề sai khiến.
Còn kẻ phản thầy Trần Đình Hoan đã được thưởng cho chức Trưởng ban Tổ chức
Trung ương để còn sắp xếp đệ tử của Đỗ Mười, Lê Đức Anh vào các vị trí then
chốt, béo bở của bộ máy Đảng và Nhà nước; Nguyễn Khoa Điềm, đàn em thân tín của
Lê Đức Anh đã được bố trí vào Bộ Chính trị để giữ chức Trưởng ban Tưởng Văn hóa
Trung ương.
Đáng tiếc là hình thức kỷ luật của Trung ương
đối với Lê Đức Anh và Đỗ Mười là quá nhẹ (chúng tôi không rõ khiển trách hay
cảnh cáo) và không được thông báo rộng rãi trong toàn Đảng để tất cả các đảng
viên đều biết. Hơn nữa vấn đề man khai ngày vào Đảng của Lê Đức Anh cho đến nay
vẫn chưa được kết luận chính thức. Đây không chỉ là trách nhiệm, khuyết điểm
của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII mà còn là trách nhiệm nặng
nề của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa IX. Vì vậy vấn đề Đảng tịch
của Lê Đức Anh cần được làm sáng tỏ trước khi tổ chức Đại hội X của Đảng để lấy
lại lòng tin của đảng viên và các cán bộ cách mạng lão thành đối với Đảng.
Điều đáng buồn hơn nữa là tên tay sai đắc lực
của Lê Đức Anh là Nguyễn Bắc Son (kẻ đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức
và điều lệ Đảng lại được Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Trưởng ban Tổ chức Trung
ương Trần Đình Hoan đạo diễn, bố trí giữ chức Bí thư tỉnh ủy Thái Nguyên để
chui tiếp vào Ban chấp hành Trung ương khóa X. Qua đó chúng ta cũng thấy là thế
lực của Lê Đức Anh, Đỗ Mười đang còn khá mạnh và tư cách của Nông Đức Mạnh,
Trần Đình Hoan lại quá kém. Cũng may là Hội nghị Trung ương 13 đã loại được
Trần Đình Hoan, Nguyễn Chí Vịnh, Nguyệt Việt Tiến... khỏi danh sách ứng cử viên
Ban chấp hành Trung ương khóa X. Hy vọng Hội nghị Trung ương 15 và Đại hội X sẽ
sáng suốt hơn để loại tiếp Nguyễn Bắc Son và cả Nông Đức Mạnh (vì đã quá tuổi
65, năng lực kém, tham lam, hãnh tiến, nhu nhược, thiếu bản lĩnh quyết đoán nên
đã để cho Đỗ mười và Lê Đức Anh lộng hành sai khiến, chỉ biết yêu bản thân mình
và nhiều tai tiếng như các thư phản ánh và góp ý kiến của các đồng chí nguyên
ủy viên Trung ương Đảng các khóa trước đây như Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh,
Trung tướng Nguyễn Hòa, đồng chí Lê Văn Hiển, đồng chí Nguyễn Trung Tín …, các
lão thành cách mạng như đồng chí Nguyễn Văn Thi, Trần Đại Sơn …) ra khỏi danh
sách mà Ban chấp hành Trung ương khóa IX giới thiệu cho Đại hội X.
Nguyễn Chính Tâm
Lão thành Cách mạng, Huy hiệu 60 năm tuổi
Đảng” (4)
Thứ ba, về con người Lê Đức Anh cũng là một kẻ lá mặt lá trái và cũng
quen thói cộng sản đó là nói thì hay và làm thì khác. Hẳn chúng ta còn nhớ
trong vụ án của anh Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng thì chính Lê Đức Anh đã nói: “Sử dụng bộ đội để cưỡng chế là tuyệt đối sai”.
Nhưng cuối cùng thì Lê Đức Anh đã làm gì? Chỉ là
nói mà thôi để rồi bè lũ cướp ngày của đồng chí X đưa anh Vươn vào tù trong khi
Lê Đức Anh được tiếng “ vì dân”. Đó chính là bộ mặt thật của Lê Đức Anh cũng
giống như nhiều ông già cộng sản “chỉ tốt, chỉ phản tình” khi hết ăn của dân
được nữa.
Ngoài ra, Lê Đức Anh còn là một tên tay sai hèn
hạ của Lê Đức Thọ. Bằng chứng, đó là vào ngày 30/4/1975, Lê Đức Thọ hống hách
ra lệnh cho Đại sứ Pháp là ông Mérillon phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng
đồng hồ. Sau đó cần Pháp, thì lại sang quỵ lụy như việc vào năm 1989, sang chữa
bệnh ung thư ở nhà thương quân đội Val de Grace, ở vùng Paris, năn nỉ Pháp giúp
đỡ sau khi biết rõ Liên Xô sẽ sụp đổ, và thất bại trong việc năn nỉ Hoa Kỳ giúp
đỡ, vì Hoa kỳ chú trọng đến Trung Cộng lúc bấy giờ. Việc năn nỉ Pháp cũng không
mang đến kết quả vì Pháp cũng không có dồi dào về kinh tế và Pháp đặt điều kiện
là phải dân chủ hóa chế độ. Điều kiện mà Thọ không chịu. Sau đó Lê Đức Thọ hèn
hạ quay sang năn nỉ Trung Cộng. Chính Thọ đã ra lệnh cho 2 tay em của mình là
Đỗ Mười và Lê Đức Anh thi hành lệnh của mình, nên mới đi đến quyết định họp với
Trung Cộng ở Thành đô vào tháng 3/1990, một cuộc họp bán nước toàn diện cho
Trung cộng tiếp nối ý tưởng của Hồ Chí Minh.
Thứ tư, tội ác của Lê Đức Anh còn thể hiện khi hắn cùng Lê Đức Thọ chỉ
đạo đánh sang cả Thái Lan vi phạm luật pháp quốc tế (Xin xem lại “Những sự thật
cần phải biết - Phần 22”). Để khẳng định rõ vai trò của Lê
Đức Anh trong vụ này chúng ta nên chú ý tới cuốn sách hồi ký“Cuộc chiến
tranh bắt buộc” của đại tá cộng sản Nguyễn Văn Hồng. Cuốn sách có
đoạn:
“Tôi nhớ cũng trong mùa khô năm 1982-1983, khi
tiến công một loạt các căn cứ còn lại dọc biên giới từ Ô-đa xuống Com Riêng,
trung đoàn bộ binh 31 đã cho một lực lượng vượt qua biên giới Campuchia-Thái
Lan, bố trí phục kích trên một con đường mòn chạy từ phía Nam lên Ô-đa-con
đường này thuộc lãnh thổ Thái Lan. Trong lúc ta đang tiến công vào trận địa,
thì có một toán lính theo con đường này tiến vào trận địa, anh em đã nổ súng
diệt gọn toán địch. Khi tiến lên thu vũ khí, mới biết được toán địch này là
lính biên phòng Thái Lan qua trang bị, phù hiệu và cấp hiệu đeo trên ve áo.
Lập tức, máy bay trinh sát và máy bay C130 của
không lực Thái lên quần lượn và bắn phá dọc biên giới. Chúng đã dùng súng mát
12,7 mm từ trên máy bay vãi đạn xuống đội hình của quân ta. Trước tình hình đó,
các đơn vị điện lên Sở chỉ huy sư đoàn: -Có được bắn máy bay không? Đây là một
tình huống ngoài dự kiến nên chưa có sự chuẩn bị trước. Chúng tôi đã báo cáo
lên Sở chỉ huy Mặt trận. Hôm sau, Mặt trận tăng cường xuống cho chúng tôi mấy
cơ cấu phóng A72 (loại tên lửa vác vai đi theo đội hình bộ binh). Tôi ra lệnh cho
các đơn vị: -Hãy sẵn sàng! Nếu máy bay bắn vào đội hình của ta thì kiên quyết
phải bắn hạ! Song do địa hình ở đây có ảnh hưởng đến tính năng kỹ thuật của
loại súng hỏa tiễn này và cũng do trình độ sử dụng súng của anh em chưa tốt,
nên khi có máy bay, ta bắn đến 5 quả đạn mà không đạt được kết quả. Tuy nhiên,
đây cùng là lời cảnh cáo đối với nhà cầm quyền Thái Lan đã dung túng, bao che
cho bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa-ri, can thiệp vào công việc nội bộ của
Campuchia.”.
Qua đoạn trích chúng ta thấy điều gì? Đó là quân
đội cộng sản đã vi phạm chủ quyền Thái, bắn chết lính Thái nhưng không xin lỗi
mà còn dùng tên lửa phòng không vác vai bắn máy bay của quân đội Thái Lan. Điều
đáng nói là quân của Nguyễn Văn Hồng đã xin ý kiến “trên”. Mà “trên” ở đây
chính là Lê Đức Anh chỉ huy trực tiếp chiến trường Campuchia giai đoạn đó. Và
quyết định đến việc đánh hay không trên đất Thái chính là một kẻ quyền thế hơn
nhiều đó chính là Lê Đức Thọ.
Bạn đọc có thể đọc toàn bộ cuốn sách tại trang
của đội ngũ hồng vệ binh cộng sản: (5)
II. Tham gia tích cực Bán nước:
Lê Đức Anh là một tên cai phu cao su độc ác.
Không những vậy nổi bật lên là tội ác bán nước cho Trung cộng một cách tích cực
cùng bè đảng cộng sản. Hiện nay đã có rất nhiều tài liệu nói rõ ràng về điều
đó.
Lê Đức Anh và “đồng chí “ Lú.
Thứ nhất, để vấn đề được minh bạch sáng tỏ, hãy đọc cuốn “Hồi ký Trần
Quang Cơ” của ông Trần Quang Cơ, nhân chứng lịch sử giữ vai trò quan trọng
trong Bộ Ngoại Giao của cộng sản Hà Nội vào thời điểm đó. Về vai trò làm đầu
sai trong việc đưa nước ta vào tròng ách nô lệ giặc phương Bắc của Nguyễn Văn
Linh, TBT đảng cs VN và Lê Đức Anh - đại tướng. Ông Trần Quang Cơ viết:
“Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín
đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh
trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng
trọng thị đối với Bắc Kinh. Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của
Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói: "Trong quan hệ hai nước, 10
năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến
pháp, có cái sai đang sửa". Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo
Trung Quốc để "bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội" vì "đế quốc
đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội... chúng âm mưu diễn biến hòa bình, mỗi
đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN, nhưng lại đang có nhiều
vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ
nghĩa xã hội... Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để
khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay...
Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác –
Lênin ….Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm
đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là
thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung
cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán
11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để
nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc (tham tán Lý Gia
Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê
Đức Anh và Trương Đức Duy. Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng
vụ Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6.6, anh Lê Đức Anh đã nói khá
cụ thể về "giải pháp Đỏ": "Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng,
danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin
và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia
của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau
có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây
là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường...
Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi...”.
Việc bán nước cho Trung cộng còn được Trần Quang
Cơ tiết lộ thông qua sự dắt mối của Vũ Xuân Vinh, ông Trần Quang Cơ viết:
“Theo Hồ Càn Văn, ngày 23.5.90 Cục trưởng Cục
Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tùy viên quân sự Trung
Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng
Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi đến Hà Nội.”
Qua đây cho thấy được là Lê Đức Anh chính là một
tên bán nước và nhiệt tình trong việc đưa Việt Nam thành nô lệ cho Trung cộng.
Thứ hai, bên cạnh hồi ký của Trần Quang Cơ là “hồi ký” của đại sứ Trung
cộng Trương Đức Duy tại Hà Nội cùng thời điểm đó. (Bản tiếng Việt của dịch giả
Quốc Thanh). Trước hết là những cuộc gặp bí mật giữa Lê Đức Anh với đại sứ Tầu
Trương Đức Duy và giữa TBT Nguyễn Văn Linh với Trương Đức Duy do chính sứ Tầu
viết. Về vai trò làm tay sai cho giặc của Lê Đức Anh, cũng chính do đại sứ Tầu
Trương Đức Duy viết:
“Hơn 10 năm qua, quan hệ Trung-Việt ở trạng
thái không bình thường, sứ quán không có mối liên hệ nào với người tin cậy bên
Nguyễn Văn Linh, vậy thì nên thông qua con đường nào đây để yêu cầu được gặp
riêng một cách ổn thỏa hơn? Tôi triệu tập ngay cuộc họp Đảng ủy mở rộng, mời
mọi người bàn bạc ra mưu sách. Ý tưởng thông qua con đường Vụ đối ngoại Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam thì sợ sẽ không giữ được bí mật, mà cũng khó để
thực hiện “gặp riêng”.
Có đồng chí nêu xem có thể thông qua con đường
quân đội được không? Tôi cho như thế sẽ khá là ổn thỏa, lại càng có lợi hơn cho
việc bảo mật. Thế là tôi liền nghĩ tới Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh Cục trưởng Cục
đối ngoại Bộ quốc phòng mà tôi khá thân thiết, từ ngày đến Việt Nam lần này,
tôi đã gặp ông ta vài lần, quan hệ rất tốt, có thể thông qua ông ta để yêu cầu
được gặp Đại tướng Lê Đức Anh (Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam, Bộ trưởng Bộ quốc phòng) thân thiết với Nguyễn Văn Linh, rồi xin Lê
Đức Anh giúp đỡ bố trí cho tôi bí mật gặp Nguyễn Văn Linh.
Mọi người thấy biện pháp này có thể được. Thế
là tôi lập tức cho Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ chính thức với Cục
trưởng Vũ Xuân Vinh. Khi gặp Cục trưởng Vũ Xuân Vinh, Tùy viên quân sự Triệu đã
trịnh trọng đề xuất: “Đại sứ Trương có việc gấp và quan trọng muốn được gặp Bộ
trưởng Lê Đức Anh. Xin Cục trưởng bố trí cho ngay”.
Chiều hôm đó, Vũ Xuân Vinh trả lời Tùy viên
quân sự Triệu rằng: “Đồng chí Đại tướng rất vui lòng được gặp đồng chí Đại sứ,
8 giờ sáng hoặc 7 giờ tối mai đều được. Đại tướng còn nói, sau này đồng chí Đại
sứ có muốn gặp ông thì cứ Cục đối ngoại Bộ quốc phòng bố trí là được”. Vào 8
giờ sáng ngày 20 tháng 8, xe của tôi chạy thẳng vào Bộ quốc phòng. Thiếu tướng
Vũ Xuân Vinh đón đợi ở cổng tòa nhà, dẫn tôi vào phòng tiếp khách của Bộ trưởng
rồi lui ra, khép chặt cửa lại. Tôi đang tiến thẳng vào thì Bộ trưởng Lê Đức Anh
cũng bước vào phòng khách từ một cửa khác, khi gặp nhau Lê Đức Anh bắt tay, ôm
tôi rất nhiệt tình.
Tôi nói xã giao: “Thực sự được xin lỗi, mới
sáng ra đã tới làm phiền đồng chí Đại tướng”. Đại tướng Lê Đức Anh mỉm cười
bảo: “Đại sứ đến lúc nào tôi cũng tiếp”. Trong phòng khách ngoài hai chúng tôi
ra, không có ai đi theo. Chuyện trò hàn huyên xong tôi chuyển ngay sang chủ đề
chính, đầu tiên bày tỏ lãnh đạo Trung Quốc rất coi trọng mối quan hệ Trung-Việt,
hiện nay tình hình quốc tế phát triển rất nhanh, thời gian không chờ đợi mình,
cả hai bên cần chớp lấy thời cơ, nhanh chóng loại bỏ trở ngại là vấn đề
Campuchia, từ đó thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.
Sau đó tôi nhắc đến lời nhắn của Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh đã được ghi lại gửi cho tôi, tôi cảm thấy hết sức quan trọng,
cho nên mong được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để trực tiếp lắng nghe ý
kiến của Tổng bí thư, đồng thời tôi cũng có một vài điều nữa cần nói với Tổng
bí thư. Tôi nói, hiện giờ mà thông qua con đường khác sẽ có khó khăn, cho nên xin
phiền đồng chí Đại tướng giúp cho. Lê Đức Anh nói rất thoải mái: “Đây quả thực
là việc hết sức quan trọng, hôm nay tôi sẽ báo cáo lại yêu cầu của Đại sứ với
Tổng bí thư”. Tiếp đó, Lê Đức Anh cũng nói về hai quan điểm, đại ý là: Thứ
nhất, nhấn mạnh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Trung Quốc, luôn chủ trương
thân thiện với Trung Quốc, từ sau khi nhậm chức Tổng bí thư vào năm 1986 đã làm
rất nhiều việc để khôi phục lại mối quan hệ giữa hai nước hai Đảng. Trước tình
hình thế giới phức tạp như hiện nay, việc thực hiện bình thường hóa quan hệ
giữa hai nước lại càng trở thành niềm mong muốn ấp ủ của ông ấy...”
Và cuộc gặp giữa Trương Đức Duy và Lê Đức Anh có
kết quả diễn tiến theo lời kể của Trương Đức Duy như sau:
“Chiều hôm đó, Cục trưởng Vũ Xuân Vinh hẹn gặp
gấp Tùy viên quân sự Triệu, nói rằng: “Theo chỉ thị của Đại tướng Lê Đức Anh,
xin chuyển lời tới Đại sứ Trương. Vào 19 giờ 30 phút ngày 22, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh sẽ gặp riêng Đại sứ Trương tại phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc
phòng. Cả hai bên đều không đem theo phiên dịch và thư kí. Đề nghị Đại sứ
Trương đổi sang một chiếc xe nhỏ, không cắm quốc kỳ, đi vào từ cửa bên Bộ quốc
phòng...
Vào 9 giờ tối hôm đó, Tùy viên quân sự Triệu
vừa gặp mặt trung tá Vũ Tần đã nói thẳng vào vấn đề luôn rằng Đại sứ Trương có
việc hết sức gấp và quan trọng, mong được gặp ngay Đại tướng Lê Đức Anh, xin
đồng chí trung tá giúp bố trí cho. Vũ Tần bảo Đại tướng tối nay tham dự Hội
nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương khóa 9 Đảng cộng sản Việt Nam, không
biết lúc nào tan. Tôi sẽ đến ngay nhà ông ta xem sao. Khi Đại tướng định giờ
gặp một cái là tôi sẽ gọi ngay điện thoại báo cho anh biết. Tùy viên quân sự
Triệu vừa về tới sứ quán chưa được bao lâu đã nhận ngay được trả lời điện thoại
của Vũ Tần: “Đúng 8 giờ sáng mai Đại tướng sẽ gặp Đại sứ Trương, địa điểm vẫn ở
chỗ cũ”. Sáng ngày 29, tôi đến phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng đúng giờ.
Khi gặp mặt, Đại tướng Lê Đức Anh nói một cách
dí dỏm: “Trông bộ dạng Đại sứ Trương vui thế kia, chắc là đem tin tốt lành đến
cho chúng tôi rồi”. Tôi nói: “Chiều tối qua, tôi nhận được chỉ thị quan trọng
của Trung ương. Cho nên, hôm nay vừa mới sáng ra đã lại tới làm phiền anh rồi”.
Tiếp đó, tôi thông báo lại với Đại tướng Lê Đức Anh việc Tổng bí
thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn
Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ, xin Lê Đức Anh chuyển lời mời đồng
thời bố trí cho tôi được gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa, để trả
lời trực tiếp với đồng chí ấy.
Lê Đức Anh bày tỏ: “Đây quả thực là một tin
tốt lành, tôi nghe mà cảm thấy rất phấn khởi. Xin đồng chí Đại sứ cứ yên tâm,
tôi sẽ báo cáo ngay với Tổng bí thư. Chuyến đi thăm lần này hết sức quan trọng,
chúng tôi phải có những nỗ lực lớn nhất để chuyến đi thăm được thành công.”
Sau khi cáo từ Lê Đức Anh về sứ quán được
khoảng hơn 1 tiếng, Trung tá Vũ Tần ở Bộ quốc phòng Việt Nam đã hẹn với Tùy
viên quân sự Triệu rằng: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ cùng với Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương vào 4 giờ chiều nay. Đại sứ có thể
chính thức đề xuất yêu cầu được gặp mặt với Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam...”
Trương Đức Duy (đứng giữa) đang làm nhiệm vụ
phiên dịch cho Hồ và Mao
(ảnh công bố trên “Pháp chế vãn báo” báo số ra ngày
19/2/2012
được báo Lịch sử Đảng Cộng sản Trung cộng đăng
lại)
Qua đoạn hồi ký trên chúng ta thấy gì? Đó là Lê
Đức Anh chính là kẻ muốn quy phục Trung cộng và tiếp tay cho Nguyễn Văn Linh và
bộ sậu cộng sản bán nước cho giặc. Tội đó không thể tha thứ.
Thứ ba, trên một bài báo của Vietnamnet (cộng sản) đã chỉ rõ vai trò kết
nối bán nước của Lê Đức Anh như sau: “Sau khi ông Lê Đức Anh đi "tiền trạm" về. Từ ngày 3
đến ngày 10/11/1991, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thăm chính
thức Trung Quốc. Hai bên Hội đàm, ra thông cáo chung và kí kết Hiệp định chính
thức quan hệ bình thường giữ hai nước trên cơ sở 5 nguyên tắc hòa bình, đồng thời
kí cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.” (6)
Tất nhiên là bài báo không được phép nói thẳng
ra Lê Đức Anh bán nước nhưng chúng ta thấy sự thật đã rõ ràng khi Kiệt và Mười
đi thăm bán nước cho Trung cộng. Và vai trò kết nối ở đây có công không nhỏ của
Lê Đức Anh. Sự kiện này đã được chính báo cáo của bộ chính trị cộng sản về Lê
Đức Anh như sau:” “Đồng
chí Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh v.v… đã có vai trò rất
quan trọng trong việc xây dựng khởi đầu cho mối quan hệ bẳng 16 chữ vàng và 4
tốt hiện nay. Tiếp nối truyền thống của Mao chủ tịch và Hồ chủ tịch đã xây dựng
…” (6)
(“Ngày 19-11-1994 Tại Hà Nội, Đỗ Mười và Lê Đức
Anh tại lễ đón tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước Trung Quốc sang
thăm Việt Nam. Chuyến thăm kéo dài đến 22-11-1994”./ Nguồn: Trung Quốc-Việt Nam
(sách ảnh) Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biên
soạn. China Intercontinental Press, 2003, tr. 26/) (7)
Bức ảnh quy tụ rất nhiều gương bán nước tiêu
biểu trong
cái gọi là “nhà văn hóa và thể thao” của chính
Lê Đức Anh.
Đến đây chúng ta nhận thấy rõ vai trò bán nước
cực kỳ quan trọng của Lê Đức Anh trong móc xích bán nước của cộng sản Việt Nam.
III. Kết luận:
Qua trường hợp của Lê Đức Anh chúng ta thấy đây
là một tên cai phu cao su có nhiều tội ác với những người dân lành. Đây là kẻ
đã từng tiếp tay cho thực dân Pháp đánh đập nhân dân ta. Đó là tội ác không thể
dung tha. Đặc biệt, Lê Đức Anh có vai trò rất quan trọng trong việc bán nước
của đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó chúng ta cần phải thấy rõ được bộ mặt thật
của Lê Đức Anh để nhân dân một ngày gần đây xét xử trước công luận về tội ác
này. Đó chính là lẽ phải và chính nghĩa mà chúng ta phải đấu tranh vì một dân
tộc Việt Nam trường tồn mãi mãi.
22/09/2013
danlambaovn.blogspot.com
___________________________________
Chú thích:
(1) maxreading.com/?chapter=8846
(2) vi.wikipedia.org/wiki/Lê_Đức_Anh
(3) motgoctroi.com/StNguoiNViec/VN_Ngaynay/Bctm_LDAnh.htm
(4) motgoctroi.com/StNguoiNViec/VN_Ngaynay/Bctm_LDAnh.htm
(5) vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=1268.0
(6) Trích báo cáo quan hệ ngoại giao tháng 2/2001 – Bộ chính trị cộng sản Việt Nam.
___________________________________
Chú thích:
(1) maxreading.com/?chapter=8846
(2) vi.wikipedia.org/wiki/Lê_Đức_Anh
(3) motgoctroi.com/StNguoiNViec/VN_Ngaynay/Bctm_LDAnh.htm
(4) motgoctroi.com/StNguoiNViec/VN_Ngaynay/Bctm_LDAnh.htm
(5) vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=1268.0
(6) Trích báo cáo quan hệ ngoại giao tháng 2/2001 – Bộ chính trị cộng sản Việt Nam.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết