AuZenithNew8
Vài ý nghĩ về “Đỉnh cao chói lọi” và “Món Ăn Chân lý” của Dương Thu Hương
Bài 8 (tiếp theo)
GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Để tiếp nối, tôi xin được nhắc lại đoạn văn chị Dương thu Hương đã viết:
Hồ Chí Minh
cũng giống như những người anh hùng khởi sự Đinh, Lý, Trần, Lê… chỉ có thể
thành công nếu được sự ủng hộ của dân chúng. Tinh thần đoàn kết để đánh đuổi
ngoại xâm là thứ được coi như AND Việt Nam. Thứ AND này mang đến cho ông ta một
vinh quang đáng kể và cũng mở cánh cửa một hoả ngục bỏng rát để ông ta phải chịu
cực hình vì Hồ không may mắn như các vị vua thời trước, áo vải cờ đào, từ rừng
thẳm núi cao nhảy lên lưng voi lưng ngựa để bước vào cuộc chiến. Nói cách khác,
các anh hùng cứu nước lý lịch trong sạch vì chẳng mảy may liên quan đến kẻ ngoại
xâm.
Hồ mở một
cánh cửa hoả ngục bỏng rát...ý chị muốn nói Hồ chịu thứ khổ hình gì? Suốt đời, Hồ chỉ mở cửa
cho những đứa con gái chanh cốm, cháu ngoan quàng khăn đỏ 13, 14, 15…vào phòng
ngủ của Hồ để y ban cho hạt giống Đỏ, chắc nằm trên giường cưỡng dâm những cháu
bé tội nghiệp ấy (như Huỳnh thị Thanh Xuân, Nông thị Xuân...) là bị bỏng rát! Bỏng
rát vì toàn con gái 13, 15… còn trinh, thực ra thanh niên 20, 30 phá trinh cũng
mệt nhoài chứ nói gì Hồ lúc đó đã sáu mấy, bảy mươi, bảy mấy! Cô Huỳnh thị
Thanh Xuân quê Quảng-Đà, năm 1964 tuổi 15, thành tích hoạt động nội thành giỏi
nên được vinh dự ra kính thăm “bác” Hồ, cô kể lại cô bị mất trinh với Hồ ngay đêm
ấy sau khi gặp Hồ lúc ban ngày. Mấy người bạn gái đi cùng cô cũng bị y như thế,
chỉ khác là mỗi đêm một cô! (Mời đọc tự truyện của cô Huỳnh thị Thanh Xuân, cuối
bài).
Ngoài những “cực
hình chịu bỏng rát” quá cỡ vì hiếp dâm gái trinh nhỏ tí còn ấp vú mẹ, chưa hề
biết đời là gì, bỏng rát là phải ngay thanh niên chứ nói gì ông già 70 hơn 70
tuổi như Hồ. Ngoài cái bỏng rát cưỡng dâm phá trinh con nít đó, Hồ không chịu bất
cứ thứ khổ hình nào mà chị gọi là bỏng rát. Cách viết như chị nay người ta
không muốn đọc vì nó dấm dớ, ngẩn ngơ gì đâu! Văn biền ngẫu của các cụ ta ngày
xưa cũng không ngẩn ngơ, vớ vẩn như thế! Chị hỏi người thân của chị hoặc đọc lại
thấy ngay!
Câu cuối trong
đoạn này: “Các anh hùng cứu nước lý lịch trong sạch vì chẳng mảy may liên quan
đến kẻ ngoại xâm!”
Tôi thực không
hiểu câu này chị định diễn tả cái gì? Chắc chị muốn nói rằng Hồ không có ý định
bán nước cho Pháp, Hồ cho treo cờ đỏ sao vàng ngập đường ngập xá ngày 19-5-1946
để đón tướng Pháp d’Argenlieu vào Hà Nội hay Hồ đang đêm đánh thức Bộ trưởng
Pháp Moutet dậy, năn nỉ Moutet ký Hiệp ước Fontainebleau cũng không phải là Hồ
mời Pháp trở lại Việt Nam đâu!
Dù chị nói gì
thì nói, những cái gian ác của Hồ lúc đó đã lộ rõ và dân chúng xầm xì nên Hồ mới
phải thề trước quốc dân tại Ba đình:
”Hồ này không
bán nước, không phản dân!”
nhưng thực sự
Hồ biết rất rõ ông ta sẽ bán nước, sẽ phản dân. Bố tôi và một số lãnh đạo các đảng
phái khác cũng biết rất rõ điều đó.
Xin thêm vào một
chút. Có lẽ chị Thu Hương và bạn đọc muốn biết ông Hồ đuổi tướng Lư Hán và
120,000 quân Tàu (phù, chân bị phù thũng và sâu Quảng, hấu hết) về nước bằng
cách nào? Như đã nói, Đồng Minh chống Phe Trục là Mỹ, Nga, Anh, Trung hoa (Tưởng
giới Thạch) và Pháp đề cử Trung hoa sang Đông Dương giải giới quân đội Nhật. Vì
vậy mà Lư Hán dẫn quân sang. Hồ bèn dùng hết số vàng quyên được từ tuần lễ Vàng
và gái đẹp hối lộ cho Lư Hán và thủ hạ, bảo hãy rút về đồng thời cùng Pháp yêu
cầu Đồng Minh cho Pháp thay thế quân đội của tướng Lư Hán (tước khí giới quân đội
Nhật). Mấy tấn vàng do mồ hôi nước mắt của quốc dân VN cúng cho Tổ quốc bị Hồ
đem dâng cho Lư Hán ráo cả để đổi lại cho Pháp vào thay thế. Lúc đó, các nhân
sĩ, các đảng phái QG đều lên tiếng phản đối Hồ nhưng Hồ lờ đi: “Cứu cánh biện
minh phương tiện”.
Xưa nay Hồ không từ một việc gì dù độc ác mấy, dù phải bán
nước cho ngoại bang mà thực hiện được như ý Hồ thì cách gì Hồ cũng làm.
Các đảng phái e rằng, Pháp đã rút lui, nay lại mời Pháp trở lại, có thể
Pháp ở lì không bao giờ rút đi nữa. Điều ấy xẩy ra y chang nhưng Hồ cần
gì, Hồ chỉ cần giai đoạn. Giai đoạn sau cần kháng Pháp thì Hồ lại hô hào thanh
niên xung phong đánh Pháp chết cho Tổ quốc. Và hàng triệu người đã chết thật,
vô ích và vô nghĩa vì cuộc chiến Hồ gây ra với Pháp không cần thiết (như trên
đã lý giải).
.. Ông ta
biết nói thứ tiếng của kẻ thù, uống rượu vang trong khi người Việt bản xứ chỉ uống
rượu gạo, ông ta biết uống sữa bò cả sống lẫn chín trong khi dạ dày Việt Nam
đích thực chỉ quen khoai sắn và bánh đúc mắm tôm. Tệ hơn nữa, ông ta lại hút
thuốc lá Mỹ trong khi các đồng chí rít thuốc lào bằng điếu cày rồi bắn bã đôm đốp…
Thử hình dung xem, trong tình thế ấy, làm sao ông Hồ có thể tồn tại nếu không
chấp nhận thỏa hiệp.
Hồ biết nói thứ
tiếng của kẻ thù....Chị có biết thời tụi tôi bao nhiêu tuổi thì đậu Primaire (Certificat
d’Etude Primaire Complémentaire Indochinois thường gọi là bằng CEPCI) không? Giỏi
thì 12, hoặc bết hơn thì 13, 14, 15 tuổi. Để đậu được Primaire rồi sau đó lên
Trung học (collège), chúng tôi phải nói tiếng Pháp lưu loát. Năm lên 9 tuổi, đi
thi Sơ học Yếu lược (d’Etude primaire Élémentaire), chúng tôi đã phải thi phần
Pháp văn gồm có Luận văn, Chính tả, phiên dịch (traduction) và phản dịch
(Thème).
Một thanh niên
học rất nhanh và rất giỏi ở Hà Nội trước thời tôi là Luật sư Nguyễn mạnh Tường,
22 tuổi đã lấy 2 bằng Tiến sĩ, Luật và Văn chuơng tại Pháp trong khi Hồ xuống tầu
Pháp xin làm bồi tầu lúc 21 tuổi (1911) nhưng chưa có Primaire, chưa học xong
Tiểu học. Hồ dốt như thế (dù là con quan huyện) nên Hồ cai trị tầm ruồng. Người
ta nói Hồ đi dự Hội Nghị Cộng sản quốc tế, hội nghị nói tiếng Pháp nhưng Hồ
không hiểu là bao vì sức học của Hồ còn quá non nớt.
Vĩ nhân “đỉnh
cao chói lọi”của chị đó!
Hồ biết uống
thứ rượu vang (cũng của kẻ thù, tức là Pháp thực dân) trong khi đa số dân Việt
chỉ biết uống rượu gạo! Hồ biết uống sữa bò, có nước sôi cũng như không có nước
sôi...còn dạ dày dân Việt Nam đích thực chỉ bánh đúc mắm tôm!
Chị Thu Hương,
chị tự hào là Nhà Văn mà sao chị dốt quá thế? Hay chị cứ nhắm mắt khen bừa! Như
tôi đã nói, cái kiểu viết vớ vẩn, ấm ớ như nhiều anh chị khác ở miền Bắc (miền
Nam cũng có) và như chị viết trong Thiên đường mù và mấy cuốn khác đã quá lỗi
thời! Người đọc ở thế kỷ này họ tẩy chay những kiểu viết “lăng nhăng” đó!
Tôi hỏi chị, một
nông dân chưa từng uống rượu vang bao giờ, nay đưa rượu vang cho anh ta uống, bảo
đảm là anh ta uống được, khen là khác nhưng còn thích như rượu đế không thì mỗi
người mỗi ý.
Hồ uống rượu vang mà không uống rượu đế là vì sao chị biết không? Vì
vang làm bằng nho, một chai vang giá bằng 20, 30 chai rượu đế. Nông dân nghèo
tiền đâu mà dám thưởng thức vang, nho; rượu đế rẻ mà nhiều lúc không tiền phải
nhịn đấy chị! Ai sung sướng như Hồ? Theo chị đó có lẽ là cái cửa hoả ngục bỏng
rát ông Hồ phải chịu?
Còn bảo dân Việt
Nam chỉ bánh đúc mắm tôm trong khi Hồ uống được sữa bò cả sống lẫn chín. Cái
này phải hỏi thực, chị có làm con sen (một vinh dự của chị!) trong Bắc bộ phủ không,
hầu hạ bữa sáng bữa tối cho chủ tịch Hồ không mà sao chị rành sáu câu vọng cổ
quá thế? Hồ lúc nào uống sữa sống, lúc nào sữa chín tức là lúc nào không cần nuớc
sôi (sống) và lúc nào phải có nước sôi (chín)? Tôi bái phục chị vì những kiến
thức “cao cấp” của chị đối với bậc vĩ nhân vô cùng kính yêu của chị! Chị đi vào
chi tiết đời tư của Chủ tịch nước muôn vàn kính yêu chu đáo hơn chính Trần dân
Tiên hay T.Lan viết về “bác” . Có lẽ những chuyện tắm rửa, tiêu hóa, ngủ nghỉ,
ăn nằm với gái của “bác” chị cũng rành nốt!
Khi tôi mới
sinh, mẹ và bố tôi kể lại vậy, mẹ tôi sinh tôi là đứa con thứ 11, đứa út, mẹ
kém sữa, bố tôi phải mua sữa đặc Nestlé gọi là sữa Con chim vì nhãn có vẽ cái tổ
chim, con chim mẹ và vài con chim con. Mẹ cho tôi uống thêm sữa này pha nước
sôi để phụ với sữa mẹ không có đủ. Dạ dày tôi từ bố mẹ tôi (chắc chắn chỉ bánh
đúc mắm tôm như chị viết) mà lạ thay, mẹ tôi nói lại vậy, tôi cứ nún chai sữa
bò ừng ực, chẳng thấy lạ lẫm gì. Ngày nào sữa mẹ có đủ thì thôi, ngày nào không
đủ tôi khóc oe oe cho đến khi mẹ phải đút cái vú cao su ở đầu chai sữa vào miệng,
tôi mới im.
Nhưng nếu đã
ăn quen sữa như thế, ngày nào hết sữa chưa kịp mua hoặc hàng tạp hoá hết sữa,
chị tôi nấu cháo bột bỏ đường đút cho tôi, tôi lè ra ngay. Vì sao? Vì sữa bò vẫn
ngon hơn bột nấu cháo rất nhiều.
Ông Hồ của chị
là thứ khôn ăn, suốt đời ông khôn ăn, sành ăn như thế (coi lại bữa tiệc có LS
Trần văn Tuyên, Võ nguyên Giáp…), chị còn lạ gì, nên rượu đế vài xu một lít thì
để nông dân, công nhân, giai cấp tiền phong, lá cờ đầu của cách mạng. Rượu vang
hiếm quí 5$-7$ Đông Dương một lít thì ông Chủ tịch Hồ xung phong xin uống, cháo
bột hay cơm mớm, bú rình ông đã chê chán từ hồi mẹ chết, chị mớm cho, nay là Chủ
tịch một nước, dù một nước nghèo khổ luôn luôn nhỡ tầu như chị viết, tội vạ gì không
uống sữa bò, da dẻ vừa hồng hào, sức khoẻ tăng tiến lại tốt trong phòng the cho
các cháu Huỳnh thị Thanh Xuân, Nông thị Xuân ngay cả Nông thị Ngát, Nguyễn thị
Minh Khai, Nguyễn thị Định, Đỗ thị Lạc ... đang nằm đọc “Bóng Đè” đợi sẵn.
Lý do dùng
vang và sữa bò của “bác” chỉ giản dị có thế và chính là lý do đó. Thuốc lá Mỹ
Philip Morris thì tôi đã nói rồi, xin miễn nói lại nhưng nó cũng không qua cái
chính sách của “bác” chỉ hưởng thụ tối đa, hưởng cho đã, ra sao thì ra! Sau
ngày 19-8-1945, báo Sao Trắng của Việt Nam Quốc Dân Đảng thành bộ Hải Phòng mà
bố tôi cầm về mỗi tuần, báo đã nói thuốc lá Chủ tịch Hồ để hai túi dưới (áo 4
túi). Một bên là Cẩm Lệ để hút lúc có người xung quanh, nhất là phóng viên báo
chí, để họ đưa tin. Túi kia để Philip Morris, khi nào không có ai thì Chủ tịch
hút.
Ngay đến con
gái, “bác” cũng phải lựa con gái còn trinh, chanh cốm, chị thấy không? “Bác”
khôn thấy mẹ! Cái kiểu khôn ăn láu cá này thằng bé lên ba nó cũng làm được!
Từ vang, sữa
bò, thuốc lá Mỹ và nhiều thứ khác nữa... Hồ đang hưởng thụ mà chị lấy lý do rằng
một người hưởng thụ (như Hồ) thì sao ông Hồ có thể tồn tại nếu không chấp nhận
thoả hiệp (với Pháp).
Câu lý luận của
chị vừa ngớ ngẩn, vừa đần, vừa ngây ngô như đứa con nít mới tập nói, lý luận cà
chớn như vậy mà chị dám viết 800 trang trong “Đỉnh cao chó lợn” nhờ nhà văn Pháp
dịch, in ra gửi đi khắp thế giới? Chị tưởng là văn chương của chị cao cấp, người
đọc đều ngu si hết chẳng biết gì! Chị bênh vực ông Hồ, thực ra chị chửi cha ông
Hồ đó. Vì uống rượu tây, sữa bò, thuốc lá Mỹ, những thứ xa xỉ, quen hưởng thụ rồi
không nhịn được nữa, nên phải thoả hiệp với Tây mà sống còn (để hưởng thụ tiếp).
Chưa có con người nào hèn hạ, điếm nhục hơn! Vậy mà lại lên ngôi lãnh tụ, chủ tịch
cả nước; rêu rao cách mạng tối ngày, đúng là chó nhảy bàn độc.
Chị không tin
tôi cứ đem câu văn này đi hỏi khắp lượt xem, tôi nghĩ tôi không hiểu sai và lý
giải sai đâu. Đọc câu này, tôi chợt nghĩ chắc chị có thù hận gì thâm độc với
già Hồ khi xưa (hi vọng không giống như hai chị Nông thị Xuân và Huỳnh thị
Thanh Xuân) nên chị mới bổ cho Hồ một phát tá hoả tam tinh như thế chứ. Đúng là
“Chó già phải dùi đục nặng”. Chúng tôi phải cám ơn chị đã viết câu văn để đời
này! Thực lòng tôi, và toàn dân Việt, chúng tôi không còn mong gì hơn nữa!
Một thằng ham
ăn ham uống, nghiện ngập đủ thứ thì dễ bị sai khiến hơn là một người không nghiện
cái gì. Tạ thu Thâu thì tôi không rành nhưng còn Ngô đình Diệm, tư cách của ông
ta 100 lần thì Hồ chưa có 1. Hiện nay còn một số người (đa số là thù cá nhân) không
ưa ông Diệm nhưng không thể moi móc bất cứ cái gì về ăn uống, trai gái, rượu
chè v.v...của ông ta ra để nói xấu được. Ông Ngô đình Diệm có một cái dại: ông
ta quá cương với người Mỹ; không đủ sức chống lại cả một Khối CS quốc tế dồn mọi
sức mạnh yểm trợ tối đa cho VGCS nhưng ông Diệm không liếm trôn Mỹ để có viện
trợ mà trái lại, thẳng thắn từ chối Mỹ muốn đổ quân vào miền Nam. Ông Diệm cũng
quá lành, không có những lưu manh, điếm thối, sát nhân tập thể như Hồ, nên thua
Hồ!
Với lòng thành
thực và khách quan, khi còn ở Sàigòn (trước 30-4-1975), tôi đã làm một cuộc khảo
sát. Tôi đi hỏi hơn vài trăm người (khoảng 250)già có trẻ có (21 tuổi trở lên)
, đủ mọi thành phần, thuần Nam, Bắc hay Trung di cư vào Nam, rằng họ có ý nghĩ
gì về 9 năm lãnh đạo của Tổng Thống Ngô đình Diệm. Gần 95% trả lời họ chưa thấy
chế độ nào có tự do dân chủ và mang lại cơm no áo ấm, an bình thịnh vượng cho
toàn miền Nam như chế độ ông Ngô đình Diệm. Tiếc rằng những tư liệu tôi đã dùng
cho cuộc Khảo sát ấy, khi tôi thoát ra khỏi Sàigòn vào giờ thứ 25 ngày
30-4-1975 (sau khi Dương văn Minh đầu hàng VGCS) nhà tôi và các con tôi đã đốt
ra than cùng với hàng trăm cuốn sách trong tủ sách của tôi, sách các tác giả
khác cũng như sách do tôi trứ tác và xuất bản.
Thời gian đó
người Sàigòn và cả Miền Nam chỉ sợ không tuân lệnh “Ủy Ban Quân Quản thành phố Sàigòn”
tàng trữ sách báo “Ngụy” sẽ bị tội, bị tù mút mùa không biết bao giờ về. Vì vậy,
ở số 4 đường Duy Tân, trụ sở Sinh Viên Sàigòn, đống than đốt sách cao như đống
rạ, cháy âm ỉ suốt ngày đêm (sau này gặp lại, các con tôi báo cáo với tôi như
thế) . Hàng nhiều tấn sách quý, có nhiều quyển là công lao tim óc một đời người
của một hay nhiều tác giả miền Nam và cổ đại, đã vì chính sách “phần thư khanh
nho” của Tần thủy Hoàng tân thời một phút ra tro bụi cả. Ngày nay có tiền tỉ
cũng không mua lại được những cuốn sách quý ấy. Chị Dương thu Hương, đây cũng
là một hòn ngọc lưu li đính trên ve áo Hồ chủ tịch của chị và tay sai, chị chớ
nên quên trong Bản Phụ Đính nếu chưa nói đến trong “Đỉnh Cao Chó Lợn” của chị.
Nhắc lại, chị
bảo Hồ đã thề tại Ba đình, trước quốc dân: “Hồ này không bán nước, phản
dân...”Hồ thề như cá trê chui ống. Hồ biết chắc là y sẽ không bán nước cho Pháp
nhưng bán nước cho Nga-Tàu. Nay Nga không còn mộng xâm lăng bá chủ của thời
Liên Xô nữa thì Hồ bán cho Tàu, một thực dân mới. Tôi có thể đoán tâm tư Hồ lúc
đó như thế. Dù Hồ thề, nhưng những người Quốc gia, nói chung là những người yêu
nước, khắc khoải với sự tồn vong của Dân tộc, đâu có tin Hồ.
Chị binh vực Hồ
là Hồ hiểu tính thích đáng của hành động và hiệu quả của ngôn từ.
Thích đáng lắm,
chủ trương của Hồ là phải mời Pháp trở lại VN (Hội nghị Fontainebleau) và Hồ
còn làm hơn thế nhiều! Hồ không coi Pháp là kẻ thù khi Hồ mời Pháp trở lại VN
ngày 19-5-1946.
Đài phát thanh Hà Nội ông ổng rao lên là ngày 19-5 là ngày sinh
nhật chủ tịch Hồ (lươn lẹo có nòi). Hồ có sinh nhật giả hiệu từ ngày đó. Miệng
hô hào chống Pháp nhưng Hồ rất muốn Pháp trở lại để thay thế quân của tướng Lư
Hán sang tước khí giới quân đội Nhật. Hồ chỉ sợ Lư Hán giúp cho VN Quốc Dân Đảng
làm Hồ hổng giò hổng cẳng. Mặt khác, Hồ nhờ tay Pháp diệt dùm VNQDĐ và nhiều đảng
phái Quốc gia (Pháp vốn truy lùng họ vì những đảng phái này chống Pháp). Nhất cử
lưỡng tiện vậy!
Còn nữa, sau
Hiệp định Genève 20-7-1954, Hồ không còn coi Pháp là kẻ thù mà lòn trôn Pháp, nịnh
bợ Pháp hơn ai hết. Vì sao? Vì Hồ quá đói, quá nghèo, chỉ muốn xin xỏ, nhờ vả. Chín
năm kháng chiến, Hồ ra lệnh tiêu thổ, đồng không nhà trống, ruộng đất bỏ hoang,
dân chúng đói rách xơ xác cơ cực không biết kiếm đâu ra bữa cơm khoai sắn.
Lính
Nguỵ của Hồ thì nhờ có viện trợ của các nước CS anh em, cũng còn bữa no bữa đói
nhưng dân chúng thực là tuyệt vọng. Hồ ngửa tay xin khắp mọi nơi; kẻ thù khi
xưa bây giờ cũng là bạn thiết để xin bột mì, xin gạo, lại xin cả đạn và súng để
vào Nam đánh tiếp. Miền Nam với TT Ngô đình Diệm chỉ nghỉ ngơi được vài năm, Hồ
cho quân du kích quấy phá từ 1956 vì thế mới phải sinh ra quốc sách Ấp chiến lược.
Hồ đi ăn mày,
chẳng những Pháp mà bất cứ nước nào có vẻ xin được. Cái gene ấy, kiểu ngửa tay ấy
còn áp dụng dài dài, sau 30-4-1975 đi xin khắp lượt. Có những nước người ta thấy
chướng quá, họ bảo đám ăn mày Hà Nội, sao lúc nào các anh cũng ngửa tay vậy, làm
mà ăn chứ, ai có mà cho hoài? Nhưng cái mặt đã trơ, cái trán đã bóng, từ Hồ trở
xuống chẳng biết quốc sỉ là gì, cứ lết mòn gối.
Xin về rồi
sao? Chia chác từ trên xuống dưới, những khoản viện trợ (ODA) lẽ ra làm cống
rãnh, cầu đường, làm nước sạch cho dân chúng đỡ khổ thì bọn đầu nậu này bỏ túi
cả.
Ngày nay, Hà Nội
và Sàigòn là hai cái đống rác khổng lồ, đường xá hư hỏng, không khí ô nhiễm,
sông rạch như nước cống, dây điện dây cáp cả núi, to như cái đống rạ lủng lẳng
trên mọi con phố. Có đánh thắng 10 đế quốc mà dân sinh tồi tệ như thế thì cũng
chẳng nên hồn một quốc gia có bộ mặt “sạch nước cản”. Chẳng biết nhục khi nhìn
thấy Singapore hay Đài Loan hay nhiều nước khác. Giáo dục, Y tế cũng là những đống
rác, chỉ chết người dân. Theo chị những cái tồi tệ đó chắc không phải do Hồ?
(còntiếp)
GS Bút Xuân Trần
Đình Ngọc
--------------------------------------------------
Bài Đọc
Thêm: Hồ chí Minh
Huyễn Thoại hay Huyền
Thoại :
(Hội Văn Hóa Việt phỏng vấn Gs Lê Hữu Mục về HCM) Bài của Tinh Vệ (Diệu Tần) 22 Jun 2003 - Ghi chú thêm 10 Jan 2007 Nhân chuyến Hoa Kỳ Du, học giả Lê Hữu Mục có dành cho chương trình phát thanh của Hội Văn Hóa Việt một cuộc phỏng vấn tại San Jose, California. Bài phỏng vấn này do Gs Trần Công Thiện, đồng nghiệp của Gs Lê Hữu Mục tại Ðại học Sư phạm Sài Gòn, và Ls Ðỗ Doãn Quế thực hiện ngày 8.6.2003, phát thanh sáng và chiều chủ nhật, đồng thời đưa lên Internet, website của Ðài Quê Hương. Chúng tôi dựa theo những câu trả lời của GS Mục, sắp xếp lại, bàn thêm, viết thành bài này. "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký" (1989-90) gây nhức nhối cho Cộng sản Việt Nam (CSVN). Cuốn sách này ông ra sức tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại HCM, "Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh. Ðây là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn là mới cần nhắc lại để dẹp cái phao xẹp "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn Dân hại Nước. Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng : HCM là kẻ đạo văn (đạo : ăn cắp, ăn cắp văn người khác). Chúng ta đã biết người CS dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu Dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm Anh hùng Văn hóa Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học Hà Nội dựa trên sự mạo nhận của HCM, ăn cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn. Mở đầu cuộc phỏng vấn ông Mục cho biết sau ngày 30.4.1975 ông tìm đường đào thoát mấy lần nhưng đều thất bại. Trong những Gs ÐH Sư Phạm bị kẹt lại có ông Khoa trưởng Trần Văn Tấn, Gs Trần Kim Nơ. Những người chủ mới của Trường Sư Phạm miền Nam, ngoài miệng thì nói những câu : đoàn kết, xóa bỏ hận thù, hòa giải Bắc Nam, nhưng trên thực tế chỉ là những lời giả dối, xảo trá. Họ hứa hẹn nhiều, nhưng chẳng thực hiện được gì. Họ ở trong tư thế chờ đợi chỉ thị của Bộ Chính Trị. Họ xa cách, lạnh lùng với các GS còn kẹt lại.
Các Gs
ngơ ngác, đúng cảnh "hàng thần lơ láo" của Nguyễn Du, tuy bị bắt buộc
phải thua cuộc. Vẫn vỏ ngoài, qua những cuộc tiếp xúc, họ giả vờ tìm cách ve
vãn, mời mọc, nhưng "nói zậy nhưng không phải zậy". Các GS miền Nam
đúng ngồi không yên, không biết phải làm gì, không biết đi đâu, hoang mang,
chán nản. Ðiều xúc phạm đầu tiên là cách xưng hô "anh chị" kỳ cục.
Trước kia có tôn ti trật tự, là thầy, là Gs, là ông, bà. Giờ đây là anh chị
cá mè một lứa. Thậm chí ông Mục còn khôi hài nói "trường sở vốn là của
mình, nơi mình làm việc dạy học bao nhiêu năm, bây giờ không biết là sẽ đi tiểu
ở đâu ?" Ngục Trung Nhật Ký trước cử tọa cũng coi như các
học viên, là các Gs đại học, trong đó có các Gs Phạm Xuân Quảng, Lý Công Cần...
Sau bài thuyết trình, họ buộc các Gs phải thảo luận về nội dung cuốn sách. Mọi
người ngỡ ngàng, vì chưa ai đọc cuốn nhật ký xa lạ này cả, làm sao có đủ dữ
kiện để thảo luận, thu hoạch? Các Gs bán cái, đùn đẩy cho ông Mục "vì
ông rành chữ Hán" lên tiếng. Ông Mục tuy chỉ là lần đầu tiên nghe nói về Ngục
Trung Nhật Ký, nhưng với phản ứng mau lẹ và với kinh nghiệm giảng dạy văn
chương lâu năm, ông bắt ngay được những khuyết điểm của cuốn sách. Ông cho biết
cuốn thơ đó có bốn khuyết điểm (Vì không đủ thì giờ phát thanh, ông Mục chỉ
nêu lên hai khuyết điểm). số kiếp văn nô miền Bắc đồng
thời hiểu được tương lai của mình.
· Câu hỏi và là thắc mắc thứ hai: Trong bài thơ Thụy Bất Trước(Không Ngủ Được) có câu: "Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh" phải dịch là Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh, tại sao lại dịch là : Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ? Kể ra ông Mục đã uống thuốc liều, đã dám mó vào dái ngựa, dám đụng đến lá đảng kỳ của họ. Tất nhiên là Hòang Xuân Nhị phải vội vàng tránh né ngay, nói như vẹt là "sẽ trả lời sau khi thỉnh thị ý kiến ở trên”. Ðám văn nô, văn thi sĩ cung đình biết là dịch gượng, sai và ẩu, nhưng cố nhét sao vàng vào đó để ca tụng là Bác tuy bị tù nhưng lúc nào cũng nghĩ đến Non sông Đất nước. Ðó là do câu thành ngữ Trung Quốc "ngũ tinh liên châu" hàm ý diễn tả chuyện lành báo trước, chuyện sum họp vui vẻ giữa vợ chồng. Ðáp câu hỏi, giới văn học giáo dục miền Nam có thường gặp giới giáo dục, văn học miền Bắc không, GS Mục cho biết phần nhiều là "họ đến gặp tôi, tôi ít khi tìm gặp họ". Trong số đó có nói chuyện với ông Hồ Lê, Nguyễn Ðổng Chi, Trần Văn Giàu. Riêng ông Nguyễn Công Bình nhiều lần mời cộng tác, nhưng tôi tìm mọi cách để từ chối. Cuộc tiếp xúc với Gs Nguyễn Ðổng Chi, bạn với tôi hồi còn ở Hà Nội trước 1945 là đáng ghi nhớ nhất. Gs Nguyễn Ðổng Chi là một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn "Cổ Văn Học sử", đã từng là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội. Ông Chi mời ông Mục đến nói chuyện ở Trung tâm Ngôn ngữ, trong một phòng dành riêng cho Gs. Sau nửa giờ nói chuyện, ôn chuyện cũ, bàn chuyện ngày nay, ông Mục hơi ngạc nhiên thấy ông Chi khóc, nước mắt tràn xuống hai gò má. Ông Chi vừa khóc vừa bảo bạn : Trong bao nhiêu năm nay, tôi đã phải đóng kịch với họ mãi rồi ! Còn gì đau khổ cho bằng một trí thức, một kẻ sĩ không dám sống thật với mình, với người, luôn luôn phải giả dối để sinh tồn. Ông Chi đã chí tình khuyên ông Mục, vì tay ông đã bị nhúng chàm, ông đã lỡ, phải theo lao luôn. Ông Mục cũng gặp nhà thơ Xuân Diệu, ông Mục hỏi ông Xuân Diệu : - Sao anh không còn sáng tác như xưa nữa ? - Tôi vẫn sáng tác như ngày xưa. - Chúng tôi không được đọc bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa! - Tôi có viết cho tôi nữa đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ. Họ có trình độ thấp, ít học, do đó tôi không thể viết ra những gì gọi là tinh hoa của tôi được. - Vây anh có tin những gì anh viết cho họ không ? Xuân Diệu vẫn lừng khừng nói : - Việc gì phải tin. Cần gì phải tin !!! Qua cách trả lời của Xuân Diệu, chúng ta thấy ông ta vẫn còn tự kiêu, vẫn nuối tiếc thủơ xa xưa, đồng thời cũng vẫn sợ mất lập trường, tiêu thẻ đảng. Một nhà thơ công thần của chế độ phát biểu là không tin những tín điều mình truyền bá ra cho quần chúng, sẽ được đảng đối xử ra sao? Ông Mục cũng tiếp Trần Văn Giàu khi tay lý thuyết gia cổ thụ này mò đến dụ dổ. Sau cơn địa chấn 30-4, ông Mục cũng như các Gs đại học khác bị cướp mất nhà dành riêng cho các Gs đường Duy Tân, ông phải thuê một căn phòng ọp ẹp ở khu lao động. Không hiểu lấy đâu ra tin tức, ông Giàu lò mò kiếm được nhà. Ông vừa đến trước cửa nhà thì bị vấp ngã xuống, ông Mục chạy ra nâng ông ta dậy. Năm đó ông Mục ngòai 60, còn ông Giàu cỡ ngoài 70, tóc bạc phơ, vừa vào đến nhà, ông Giàu nóingay: : - Ông nên ở lại Việt Nam làm việc cho Đất nước với chúngtôi. - Tại sao cụ lại để ý đến tôi thế ? Tôi cũng chỉ là một người dạy học bình thường như mọi người khác thôi. đã phải nói, phải viết những gì về Tôn giáo, văn học và ngôn ngữ học mà chế độ muốn ông viết". Nghe nói sau này khi tỉnh ngộ, ông tỏ ý chống đối và bị họ (dùng ngay người thân) đánh thuốc độc chết. Ðể trả lời Gs Trần Công Thiện hỏi là do động cơ nào thúc đẩy mà Gs Lê Hữu Mục đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký", tácgiảchobiết: : "Chính là do bài thuyết trình của ông Hoàng Xuân Nhị, sơ khởi đã khiến tôi chú ý đến cuốn thơ nhật ký đó. Không phải là do văn chương trác tuyệt và tư tưởng cao siêu gì mà là tôi đặt nhiều nghi vấn. Những cán bộ thơ văn, phê bình, khảo cứu gì đó của Viện Văn Học đã dùng cái chổi phù thủy thổi phồng lên, lừa dối chính họ, lừa dối dân chúng và nịnh bợ lãnh tụ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Ðúng như nhà thơ, nhà văn Vi Khuê ở Washington DC đã nhận xét: " Chẳng có giá trị gì để chúng ta phải chú ý tới nó". "Sau nữa là khi tôi bị tù về tội vượt biên, trong trại tù lập một tủ sách, có cuốn nhật ký đó, tôi mượn về đọc vì có in chữ Hán trong đó. Những bạn tù người Hoa (Trung Quốc) đọc xong và họ ngạc nhiên lắm. Họ nói giọng văn thơ này là của người Tàu, không phải lối viết, lối nói của người Việt, chúng tôi thấy quen thuộc lắm. Họ nói đúng ý tôi làm tôi càng chú tâm phải đọc kỹ. Rõ ràng trong sách có tên ông già Lý người Tàu, ai cũng để ý đến ông già này. Phải chăng chính ông già không rõ lý lịch này mới là tác giả đích thực của tập thơ ? "Kịp đến khi tôi sang đến Canada, gặp lúc Văn Bút Việt Nam đang thời kỳ tái lập ở Hải ngoạị Anh em Văn Bút lúc đó hoạt động hăng lắm. Anh em giục giã tôi viết để nói lên sự thật. Viết lên không phải để chê về mặt văn chương và tư tưởng, phải lên tiếng vì sự mập mờ đánh lận con đen, chuyện nhận vơ, chuyện Hồ Chí Minh đạo văn. Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái huyền thoại Hồ Chí Minh, chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là nhà văn hóa lớn quốc tế do UNESCO công nhận. Dạo đó có phong trào "No HO" nổi lên đòi hủy bỏ vụ tuyên dương vô lý này. Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một tháng là xong. Tôi gửi loạt bài này đăng trên tạp chí Làng Văn của nhà báo, nhà thơ Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và nhà báo Nguyên Hương. "Tôi viết chưa xong thì ông Gs tiến sĩ Nguyễn Văn Trần bên Paris biết được, ông bay qua Montréal gặp tôi ngay. Tuy viết chưa xong ông cũng lấy một phần rồi cùng với bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, nhà hoạt động tôn giáo xã hội Võ Văn Ái dịch sang Pháp văn. Các ông ấy họat động tích cực lắm. Vì trụ sở UNESCO ở Âu Châu nên tranh đấu rất thuận tiện. Thấy có tài liệu chứng minh phủ nhận sự nghiệp văn hóa ma, UNESCO sáng suốt và mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh. Vì HCM không biết làm thơ, cũng chẳng phải là nhà văn học, văn hóa gì cả. Ông tachỉ là kẻ ăn cắp thơ. "Cũng chuyện ma giáo, lừa bịp tương tự thời còn ở Pháp. Theo Ls Phan Văn Trường thì Hồ Chí Minh mánh khóe, khôn vặt lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó những nhà cách mạng miền Nam giỏi Pháp văn khi viết báo chống thực dân Pháp, ngay trên đất Pháp, đều ký bút hiệu là Nguyễn Ái Quấc, đánh vần theo miền Nam. Ðó là một bút hiệu chung của nhiều tác giảcác bài báo. Họ Hồ lấy tên như vậy, nếu nội dung bài báo có giá trị thì người ta tưởng lầm với bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. Còn bài dở thì ông ta sẽ cãi là tôi ký tên là Quốc chứ có lấy bút hiệu Quấc của các ông đâu! "Khi cuốn sách của tôi ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại dương cũng đọc. Họ bồn chồn, nhức nhốiphải tìm cách đối phó lại sự thật qua những lụận lý vững chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn sách của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau gì cũng giấu đầu hởđuôi. "Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí "Làng Văn" từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989 ! "Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký". Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã "cường điệu", mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính). chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. HCM úp mở nhận là thơ của mình. Ðám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là ngoài bìa sách ghi năm tác giả bị tù là 29-8-1932 đến 10-9-1933. Trong khi HCM đã bị Quốc Dân Ðảng bắt và cầm tù ở bên Tầu sau gần 10 năm, vào năm 1942 - 1943 thôi. Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu,khuấttất.(1) "Ngay Gs Ðặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về soạn niên cuốn nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi thẳng với Hồ Chí Minh là ai dám đề năm tháng kỳ quặc là năm 1932 - 1933, đây lại là tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước ? HCM không trả lời. Sau này bí thế quá, ViệnVăn Học trả lời vắn tắt rằng: Ðề năm 1932 - 33 là sai, phải là năm 1942 - 43 mới đúng. Rằng HCM ghi như thế để đánh lừa quân cai ngục của Tàu. Cách trả lời rất vắn tắt, gượng ép, không có lời giải thích minh bạch, thỏa đáng. (1) "Nói chung tập "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký" có đến sáu phần mười đồng ý với tôi, phần còn lại họ chưa đồng ý. Cuốn sách không dám phản bác lại từng điểm, chỉ có ý xác nhận là bác có biết làm thơ chữ Hán, lờ chuyện đạo văn đi. Ở Việt Nam không ai dám nói tới cuốn sách vạch mặt của tôi nữa. Tuy nhiên các thày cô giáo rất khó trả lời trong giờ ngữ văn, nếu có học sinh hỏi : Sao nghe nói thơ đó không phải là thơ của bác ? (1) "Cũng nhờ vậy, sau vụ tôn vinh hụt, Hà Nội đã chùn lại, không dám tâng bốc quá đáng thơ thẩn của HCM nữa" (Ban Biên tập : Vụ tôn vinh hụt nầy đến năm 2005 thì hoàn toàn bị lật tẩy với các chứng cứ hoàn toàn xác thực. Hiện nay Hà Nội rất lúng túng chuyện trơ trẽn nầy, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục lừa gạt sinh viên, nhất là học sinh nhỏ tuổi. Xem “Lật Tẩy mạo danh UNESCO lừa gạt 84 triệu Dân VN & Quốc tế” ở Tư liệu Phụ lục 5, 2005) Họ ở thế bị động, phải đấu dịu với Gs Lê Hữu Mục. Ông nói: "Tôi thuộc lòng câu kết tập sách dày cộm của họ : Người ta nói : Bỏ gươm xuống thì thành Phật. Thánh Phaolô khi cầm gươm là kẻ thù của Thiên Chúa giáo. Bỏ gươm xuống là bạn của Thiên Chúa giáo. Tác phẩm của ông Lê Hữu Mục, thực chất là hành động giơ dao lên. Chúng tôi không biết ông sẽ làm gì với con dao đó. Chúng tôi đề nghị ông nên hạ dao xuống thì hơn". Gs Mục cũng không hiểu họ muốn nói điều gì. Giáo sư kết thúc bằng một câu đủ gói ghém câu chuyện khi được hỏi là : Ông nghĩ gì về cái gọi là Tư tưởng HCM, họ thường rêu rao ? - "Tôi không thể nào cho rằng HCM có một tư tưởng. Một tư tưởng lớn đáng bàn đến phải có một hệ thống triết lý, hơn nữa phải có một chương trình hành động sát lý thuyết, sát triết thuyết đó. HCM không có cả hai điều kiện ấy, không thể gọi là tư tưởng được. Chính HCM không nhận mình là một nhà tư tưởng, một nhà thơ. Ông ta thú thực với một nhà báo Pháp là ông ta chỉ là một ký giả thôi. Họ gán cho tôi là tác giả các bài thơ, tôi có làm được nhiều thơthếđâu!" Thực đúng như nhiều người đã khẳng định: HCM không có tư tưởng, chỉ có khẩu hiệu thôi. Mấy khẩu hiệu đó ai cũng có thể nói được, chế ra được : Ðoàn kết là sống, chia rẽ là chết; Không có gì quý hơn độc lập tự do; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua thì đứa con nít lên 5 tuổi cũng nói được. HCM còn "đỡ nhẹ" câu "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" của Tầu ngày xưa. Như thế hiển nhiên là không thể khoác cho HCM chiếc áo huyền thoại được, chỉ đáng gọi là Huyễn Thoại HCM thôi. @ Tinh Vệ (Diệu Tần) Tất cả các cuốn Tiểu sử của HCM do CSVN xuất bản đều ghi tương tự rằng:“HCM bị Chính quyền Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch (TGT) bắt giam 14 tháng khoảng từ 28.8.1942 đến cuối tháng 10.1943, tại 18 nhà lao thuộc 13 huyện, thị trấn, thuộc vùng Quế Lâm, Liễu Châu, Trung Quốc, với những điều kiện giam nhốt cực kỳ khắc nghiệt thối tha, sức khỏe rất yếu, lại phải mang vác đồ đạc để chuyển trại giam liên miên đến 17 lần, tổng cộng phải đi bộ đến hàng ngàn cây số”.
Thế mà HCM quá “siêu giỏi” làm được
đến 134 bài thơ tuyệt tác bằng chữ Hán, mỗi tháng hơn 10 bài, rồi giả ghi
ngoài bìa là từ 29.8.1931 – 10.9.1933 để qua mặt bọn TGT ! Một điều rất quái
dị là tất cả quan quân TGT hoặc “quá văn minh lịch sự và quá khờ khạo chưa hề
có trên thế giới”, hoặc HCM có phép thần thông “thôi miên mà (che hoặc làm
hoa mắt) mắt” bọn quan quân cai ngục TGT cho chúng như mù hết, nên cả một
tập thơ khá dày chửi rủa chế độ nhà tù TGT đến như thế, dễ thấy đến như thế
mà bọn họ cũng đành bất lực để yên cho “bác” mang vào ra nhà tù như vào ra
thư viện đến những 18 lần xuất nhập 18 trại giam! Thật y như Tề Thiên Đại
Thánh ! Người mạn phép tác giả viết thêm chú thích nầy đã kinh qua các nhà tù
04 lần (08 trại giam) 01 lần thời Đệ nhị Cộng hòa, 03 lần dưới chế độ Cộng sản
sau 1975, thấy rõ : cho dù các CA CSVN hiện nay đã “văn minh độ lượng” đến thế,
thì một cái kim, một tờ giấy các tù nhân cũng không sao mang lén vào phòng
giam lọt (trừ ra khi được cố ý lờ đi), thì làm sao vào thời TGT rất “gian ác
tàn bạo” mà “bác vĩ đại của Dân tộc VN” lại có thể đủ giấy bút mực kim chỉ để
làm đến 134 bài thơ, đóng gọn thành một tập khá đẹp, chưa kể hoặc không cần
nháp, ngoài bìa còn vẽ hình minh họa hẵn hoi ! Nguyên một chi tiết “khó tin
còn hơn chạy bộ lên trời” như thế mà bao nhiêu năm, bao thế hệ “trí thức” miền
Bắc (và cả một số học giả ngoại quốc nữa) vẫn cứ “bị bịt mắt” lại mà nghiền
ngẫm và ca tụng những “vần thơ trác tuyệt” của “nhà văn hóa kiệt xuất của
nhân loại" đại bịp HCM ! Ngục Trung Nhật Ký mà Hồ Chí
Minh hí hửng giao cho thuộc hạ dịch ra thơ nôm, cho in cả 2 triệu cuốn, phổ
biến cho Nhân dân “học tập thơ Bác” có lộ ra bài “Thế Lộ Nan III :
Trung thành, ngã bản vô tâm cứu Khước bị hiềm nghi tố Hán gian Xử thế nguyên lai phi dị dị Nhi kim xử thế cánh nan nan ! Giáo sư Lê Hữu Mục dịch: : Trung thành, ta vốn lòng không thẹn Lại bị hiềm nghi làm Hán gian Vốn biết là đời không dễ xử Ðến nay càng khó xử muôn vàn ! Bài thơ này là chứng cớ Hồ Chí Minh ăn cắp thơ của một người Hán, vì Hồ Chí Minh là người Việt – nên chỉ làm được Việt gian, làm sao có thể làm được Hán gian !” Thật quá tội nghiệp cho biết bao học sinh và sinh viên VN “thời đại HCM” này đã bị buộc phải nhai nhét bao vần thơ đạo chích ấy!!! Nếu HCM không ăn cắp tập thơ nầy của người khác, thì cũng là ngụy tạo, chắc chắn rõ ràng không thể khác được; cũng chỉ là tuồng một duộc như “Đại tác phẩm dỏm” tự tạo nên hình ảnh “Cha già Dân tộc rất mực thánh thiện”, tự ca tụng mình trong “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”do Trần Zân Tiên là “soạn giả” nhưng đích thị chính HCM đại bợm mới là “soạn thật”, đã là “sách gối đầu giường” của bao thế hệ “đoàn thanh niên CS–HCM” và “trí thức” của cả một chế độ CSVN “cực kỳ tối tăm và quá buồn cười” đến độ nhiều học giả gọi là “đống phân tư tưởng HCM...” như Giác Thư của Trần Nhu gửi các Tướng lãnh & Binh sĩ QĐNDVN ngày 01-01-2006... |
AuZenith9
Hỡi ơi! “Đỉnh Cao Chói Lọi” và “Món Ăn
Chân Lý” của Dương thu Hương !
Bài 9 (tiếp theo) *GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc Chị Dương Thu Hương,
Tôi thiển nghĩ trong cuộc sống
tinh thần của con người, phần tư tưởng là quan trọng nhất bởi tư tưởng nảy ra
hành động. Tư tưởng đúng, tức suy nghĩ đúng thì hành động đúng, làm đúng. Trái
lại, tư tưởng sai tức suy nghĩ sai thì hành động sai, làm sai. Tư tưởng là cái
nhân (noyau) hành động là cái quả (résultat) vậy.
Marx và Engels đã quá sai lầm
khi đẻ ra cái chủ nghĩa hoang tưởng Cộng sản. Từ những lý thuyết sai lầm đó, một
phần ba nhân loại ngu ngơ, tưởng bở, áp dụng lý thuyết này cho đời sống, trong
đó có Hồ, tạo ra một biển máu, núi xương (hàng trăm triệu nạn nhân đã chết vì bị
Cộng sản giết), tạo ra những xã hội đồi truỵ, con người tha hoá, mất hết nhân
tính, vô cảm, tham tàn độc ác, (giết cả cha mẹ, ông bà, anh chị em...) ảnh hưởng
tai hại không biết thế nào mà kể và nó lưu truyền những tai hại đó không biết
là bao nhiêu thế hệ sau này. Một cán bộ cao cấp CS trong bộ máy cầm quyền Hà Nội
đã nói: “Tiền và tài sản, có mất lấy lại được nhưng xã hội mất đạo đức thì
không còn gì tệ hại bằng.”
Nhìn vào xã hội VN ngày nay,
mới đây, một thiếu niên 17 tuổi, gia đình đủ ăn, đang đêm đột nhập vào nhà vợ
chồng chủ tiệm vàng, thản nhiên và máu lạnh (cold blood) dùng dao đâm chết tươi
hai ông bà này và đứa con nhỏ, sau đó cướp dăm lạng vàng đưa về cho bố nó. Công
an bắt bỏ tù để điều tra, mặt nó vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xẩy ra,
cũng chẳng tỏ vẻ hối hận đã giết 3 mạng người vô tội! Xã hội ta nay không thiếu
những kẻ như thằng ăn cướp trẻ này! Đó là cái mối lo gan ruột của chính chúng
ta vì xã hội đã chuồi xuống đáy địa ngục, y như lời cán bộ kia đã nói. Ngày hôm
nay vợ chồng chủ tiệm vàng và đứa con nhỏ là nạn nhân thì ngày mai, một hay nhiều
người khác sẽ là nạn nhân, khó tránh được.
Chị Dương Thu Hương lại viết:
Bởi vì, đó là người Việt
Nam vĩ đại nhất thế kỷ 20, vĩ đại như một con người với tất cả chiều kích nông
sâu, nhầmnhỡvàlầmlạc.
Bởi vì, chính ông ta là nhân vật đầu tiên thấu hiểu giá trị của nền dân chủ và tìm mọi cách du nhập vào Việt Nam. Người Việt Nam sẽ không thể duy trì được quốc gia nếu chỉ biết khấn vái vị thánh Hồ Chí Minh, nhưng họ có thể làm được điều đó nếu biết nhìn nhận lại và suy ngẫm một cách thấu đáo, khúc chiết vềnhânvậtnàydướiánhsángcủalýtrí.
Chị Thu Huơng, tôi nghĩ chị
đang làm thơ chứ không phải viết bình luận. “Vĩ đại như một con người với tất cả
chiều kích nông sâu, nhầm nhỡ và lầm lạc” nghĩa là cái gì? Đã nhầm nhỡ và lầm lạc
thì không thể vĩ đại được. Làm chính trị mà nhầm nhỡ và lầm lạc thì đưa cả quốc
gia xuống hố. Một lực sĩ Thế vận, trong một cuộc đua tài, không thể nào nhầm nhỡ
và lầm lạc mà lấy được huy chương Vàng. Một sinh viên đi thi nếu làm bài nhầm
nhỡ và lầm lạc thì không thể nào Ban Giám Khảo chấm đậu. Một cháu nhỏ 5 tuổi
trình diễn múa, hát v.v…cũng không thể nhầm nhỡ và lầm lạc vì sẽ ăn con zéro của
Giám Khảo.
Ông Hồ đã làm nhiều điều nhầm
nhỡ và lầm lạc: như trong Cải Cách Ruộng Đất, giết hơn 2 triệu nông dân Bắc Việt
vô tội; tấn công Tết Mậu Thân giết hơn 12,000 dân miền Nam trong đó chôn sống
hơn 7,000 dân Huế vô tội và hàng nghìn cuộc diệt chủng lớn nhỏ khác, diệt chủng
ngay chính quân đội nhân dân của ông. Chẳng những ông Hồ mà tay sai của ông,
các tướng tá, úy, đảng viên, cán bộ, vì được ông huấn luyện thuần thành, cũng
hành động nhầm nhỡ và lầm lạc (thí dụ pháo vào trường tiểu học Cai lậy giết chết
cả trăm học sinh nhỏ, thí dụ đưa hàng vạn thanh niên Bắc vào con đường Trường
sơn để B52 Mỹ làm thịt, hoặc chết vì đói, vì bệnh, lam sơn chướng khí, có khi
chết cả tiểu đoàn không kịp chôn…)
Nhưng Hồ vẫn là Chủ tịch vĩ
đại với chị và một số nhỏ đảng viên cuồng tín của ông ta, những đứa đang làm
chuyến tầu vét, chứ với dân tộc, với người Quốc gia chúng tôi, với đa số đảng
viên đã phản tỉnh thì Hồ là kẻ đã mang cái đại hoạ cho Việt Nam, một kẻ
tội đồ, một tên diệt chủng (genocide) không những ghê tởm nhất thế kỷ 20 mà còn
suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt cũng như thế giới!
Chị lại nói sai: Hồ không phải
là người đầu tiên thấu hiểu giá trị của nền Dân chủ. Trước Hồ, các cụ Phan Bội
Châu, Phan chu Trinh, Phan văn Trường và hàng trăm vị khác đã thấu hiểu giá trị
cao quý của Dân chủ và cổ vũ cho Dân chủ bởi chỉ có Dân chủ con người mới sống
xứng đáng là con người được. Cuộc Cách mạng hùng tráng của Pháp 1789 đã mở ra một
chân trời Dân chủ làm đảo lộn hệ thống chính trị Âu châu và cả thế giới trong
khi mãi đến 1911, tức 122 năm sau đó, Hồ mới xuống tầu xin làm lao công hay bồi
tầu sang Pháp năm 1911 sau khi bị từ khước nhập học trường thuộc địa. Cách Mạng
Tân Hợi (1911) do nhà cách mạng Trung Hoa Tôn Dật Tiên thay đổi cả hệ thống
chính trị và tư duy người Trung Hoa, có nghĩa người ta đã nghĩ ra và mơ ước Dân
chủ trước khi Hồ chào đời chứ không phải Hồ là người đầu tiên như chị viết. Mạnh
tử từ trước công nguyên có nói: “Dân vi quý, xã tằc thứ chi, quân vi khinh”
cũng là đã đề cao Dân chủ.
Có thể Hồ biết ít nhiều về
Dân chủ từ những năm cộng tác với các cụ Phan châu Trinh, Phan văn Trường (ba
người lấy chung tên Nguyễn ái Quốc, viết tờ Le Paria, Người cùng khổ, sau Hồ
chôm nó cho mình) nhưng Hồ không thích và không du nhập Dân chủ vào Việt Nam mà
chỉ cưỡng bức dân Việt đi theo chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Tam Vô: Vô Tổ quốc,
vô gia đình, vô tôn giáo. Cái tên đúng của nó (mà khi xưa Hồ giấu diếm) là Cộng
sản. Tên đảng của Hồ (đảng Cộng sản Đông Dương, rồi sau mới đổi là đảng Lao động
để lừa gạt nguời ngoại quốc và người trong nước), mọi thứ của Hồ (thờ Stalin,
Lenin, Marx, Mao; cờ búa liềm trong những cuộc họp lớn) đã nói lên điều đó: Cộng
sản chứ không phải Dân chủ, tôi nhắc lại, chắc chị điên loạn thế nào chứ sao chị
nhìn một đường, viết một ngả như thế được? Một lá thư Hồ viết cho Stalin để xin
viện trợ vài Trung đoàn Pháo (binh), ở cuối thư cũng có hàng chữ: Thân chào Cộng
sản!
Có chế độ Dân chủ nào mà người
đứng đầu nước không bao giờ được bầu, chỉ tự đặt mình vào vị trí đó như Hồ, suốt
từ 1946 (khi y dẹp chính phủ Liên Hiệp) cho đến khi y chết, 2-9-1969, tổng cộng
là 23 năm?
Có chế độ Dân chủ nào mà Chủ
tịch Quốc Hội làm 27 năm liền như Trường Chinh Đặng xuân Khu ?
(Nên nhớ Trường Chinh năm
1956 làm Tổng Bí Thư đảng VGCS, y ra lệnh bỏ chữ Quốc ngữ với mẫu tự abc, y cho
là của thực dân Pháp, để học chữ Hán, bỏ thuốc tây để chỉ uống thuốc Tàu. VGCS
đã ló mòi bán nước cho Tàu từ ngày đó, và năm 1958, Phạm văn Đồng, vâng lệnh Hồ
chí Minh, viết Công hàm Ngoại giao gửi Chu ân Lai công nhận các đảo Hoàng, Trường
Sa là của Tầu. (Trước năm 2000, tôi đã viết bài trên báo cảnh báo rằng thế nào
VN cũng bị Hán hóa y như Tây tạng, Nội Mông v.v…)
Có chế độ Dân chủ nào mà
thành viên Quốc Hội toàn do đảng CS chọn (đảng viên trung thành), người dân bỏ
phiếu lấy lệ để che mắt thế giới?
Có chế độ Dân chủ nào mà Nhà
báo, Nhà Văn, Nhà thơ, các Đài truyền thanh, truyền hình, những người làm truyền
thông (nghĩa là đệ tứ quyền) phải đi bên lề phải, thông tin theo đơn đặt hàng của
đảng, 700 báo đài chỉ có một Tổng biên tập và người dân trong nước ngu si trong
sáu, bảy mươi năm, không còn biết cái gì?
Có chế độ Dân chủ nào người
dân phải câm miệng suốt trong hơn 60 năm dù trong lòng căm hận, đau đớn, nhục
nhã vì bị tước đoạt hết mọi quyền làm người?
Có chế độ Dân chủ nào bịt miệng
Linh Mục Nguyễn văn Lý, LS Nguyễn văn Đài, anh Điếu Cày, LS Cù huy Hà Vũ và cầm
tù hàng trăm Nhà đấu tranh cho Dân chủ khác khi họ nói lên quyền làm người, quyền
tự do thông tin, tự do tôn giáo, và tự do đi lại đã được minh định trong cái gọi
là Hiến pháp 1992 của chính vgcs soạn ra?
Có chế độ Dân chủ nào công
an muốn bắt người lúc nào cũng được, bắt ai cũng được, mang về đồn đánh gẫy
răng, dập ngực, có khi giết oan người ta rồi treo lên cửa sổ bảo rằng anh ta tự
sát. Bọn đầu sỏ công an thường tạo ra những cái cớ dể giết dễ dàng như anh ta
chạy, cưỡng lại người thi hành công vụ v.v…để chạy tội cho bọn cấp dưới hung
hãn làm càn?
Có chế độ Dân chủ nào bọn
quan toà bênh vực đảng viên, bênh vực bọn bị can đút lót xử ức những nguyên đơn
không phải là đảng viên hay không có tiền hối lộ cho quan toà và bọn lau nhau tại
toà?
Có chế độ Dân chủ nào đi từ
đầu phố ra cuối phố phải báo cáo tạm trú tạm vắng, 5 người trở lên hội họp ăn uống,
cầu nguyện, chuyện vãn cũng phải xin phép?
Xin chị Dương Thu Hương vui
lòng trả lời!
Nếu chị không trả lời được,
ấy là cuốn sách “Đỉnh Cao Chó Lợn” với bao công sức, tiền bạc của chị bị quốc
dân vứt vào đống phế liệu, ngoài ra còn coi nó như một thứ bệnh dịch, siđà.
Với nhân dân cả nước, chỉ có
chế độ “Dân chủ” của Hồ dâm tặc là có những đặc điểm ấy. Y biết lòng dân oán
thán, căm hờn y nên y cố chiều chuộng bọn thủ hạ, cho quyền rất lớn nghĩa là ăn
cướp của người dân nào, nhà thờ nào, chùa chiền nào cũng được; bắt giam ai, trù
dập, đánh giết ai cũng được, hủ hoá chiếm vợ con và tài sản người ta sao cũng
được. Hồ thì gái cả đàn như thế ai cũng biết, còn Võ nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường
Chinh, Lê đức Thọ, Mai chí Thọ, Đinh đức Thiện v.v...không thằng nào không hai,
ba, bốn vợ. Con vợ thằng Lê Duẩn vì ghen mà giết vợ chồng đào Thanh Nga-Đổng
Lân ở Sàigòn chỉ vì Lê Duẩn mê Thanh Nga (sau 30-4-1975) triệu cô này vào Phủ
làm ẩu. Hồi vào bưng, cục R, y cưỡng bức người con gái tên Thuý Nga, con đại điền
chủ, lúc ấy thị đang là Chủ tịch hội Phụ nữ cứu quốc Nam bộ. Chị Thuý Nga này
không ưng vì Duẩn đã 42, gấp đôi tuổi của Thuý Nga và Thúy Nga khinh tư cách đê
tiện của y, nhưng Duẩn vờ mời họp rồi một đêm mưa gió, y cưỡng dâm người con
gái khốn nạn. Chuyện đã rồi, Thuý Nga phải lấy y làm vợ bé thứ hai thứ ba gì
đó! Chủ tớ chói lọi quá!
Cái chế độ Dân chủ của Hồ tặc
của chị nó thối tha như cái xác ướp còn đang giữ trong lăng Ba Đình. Chị qua
Tây đã lâu cũng nên bay về VN một chuyến, nhang đèn ra đó mà vái lậy!
Cái chế độ ngược ngạo, phi
dân chủ ấy mà chị gọi là ông Hồ mang dân chủ vào Việt Nam, người đọc muốn ói, lấy
làm lạ cho cái kiến thức đặc sệt bã đậu của chị (tự hào là trí thức), chị đã
làm nhục cho những người mang danh trí thức! Nếu không phải vậy thì chắc chị đã
mù vì mù nên mới nói xằng, nói bậy như thế chứ người sáng, một học sinh Trung học
ở Sàigòn lớp 12 tôi dạy khi xưa để đi thi Tú Tài II, khi nêu những câu hỏi
trên, các em cũng trả lời ngay boong là không có một chế độ Dân chủ nào “ruồi
bu, kiến đậu” tầm bậy tầm bạ như thế!
Nói về Dân chủ, chị có hiểu
thế nào là Tam quyền phân lập? Nếu không biết thì chị có thể hỏi ông TS Hà sĩ
Phu, BS Phạm hồng Sơn, BS Nguyễn đan Quế, TS Nguyễn thanh Giang, LS Cù huy Hà
Vũ v.v...Đám sĩ phu Bắc Hà, nhiều anh nhiều chị hiện giờ còn thở nhưng thực sự
đã chết lâu rồi, luôn luôn câm như hến để kiếm vài lạng thịt lợn, y như bọn Quốc
hại “đảng cử, dân bầu”. Tầu bắn giết ngư dân VN, bắt thuyền bè đòi chuộc hàng
trăm triệu, cấm cản ngư dân Việt ra đánh cá kiếm sống ở Hoàng Sa, nơi cả ngàn
năm dân Việt kiếm sống ở đó, bọn Quốc hại này vẫn câm như hến. Nhục để đâu hết?
Mới ngày 1 tháng 4-2012, đội
tuần duyên đảo quốc nhỏ xíu Palau đã bắn tầu đánh cá của Trung cộng xâm nhập
đánh cá trái phép làm một thuyền viên Trung cộng chết, bắt sống 25 người, Palau
lên tiếng phản đối Trung cộng.
Palau lớn nhỏ? Nó chỉ có
21,000 dân so với 90 triệu của VN, 1 tỉ 3 của Trung cộng và đảo quốc này nhỏ
xíu nằm phía đông Phi luật Tân, diện tích là 459km2, chỉ bằng 1/722 nước Việt
Nam. Thế mà người ta anh hùng, dám lấy trứng chọi với đá là anh khổng lồ Trung
cộng trong khi VGCS bắt dân luôn mồm rêu rao là chiến thắng 4-5 đế quốc, đế quốc
nào cũng đánh thắng, ra ngõ gặp anh hùng nhưng rốt cuộc hèn như chưa ai hèn thế!
Giới “netters” trên các Diễn Đàn phải kêu lên rằng “cha mẹ ơi còn gì nhục hơn nữa
đây?” (Xin xem bản tin cuối bài)
Lại nói bọn sống bằng ngòi
bút ở VN, bọn gọi là trí “ngủ”, văn thơ, báo chí nói chung, tất cả, đúng ra, chỉ
là những cái xác còn biết đi, ấy là chưa nói những bọn bồi bút khác, hải ngoại
cũng như quốc nội, giờ này, khi giặc Tàu vào đô hộ rồi, vẫn lai rai dăm ba bài
liếm trôn cái xác thối của thằng già Hồ đê tiện để kiếm cơm thừa canh cặn. Nhìn
xung quanh chị là thấy ngay! Nhan nhản ra!
Chúng tôi không khấn vái ông
“thánh Hồ” như chị nghĩ sai lầm. Y chỉ là thánh với chị! Trái lại, với chúng
tôi, y là tội đồ diệt chủng phải ra toà án quốc tế Nuremberg về tội diệt chủng
y như Phát xít Nhật, Đức Ý và Polpot, Ieng Sari, Duch v.v…!
Chỉ có bọn ngu đần và bọn
bán nước mới mang tượng Hồ vào chùa Bình Dương để vái lậy thôi. Chúng đặt tuợng
quốc tặc Hồ trước tượng Phật Thích Ca nữa. Mai mốt, chúng sẽ đập bỏ hết tượng
Phật, tượng Chúa để chỉ còn tượng thằng giặc buôn dân bán nuớc này cho dân
chúng lậy! Người Việt Nam không có ngu như chị tưởng đâu nhưng ai ai cũng muốn
an thân làm ăn nuôi con, không ai muốn dây với hủi mà hủi nghĩ là họ tâm thành
vái lậy hoặc sợ chúng!
Thành phần ngày nay còn vái
lậy Hồ tặc không nhiều. Đó là bọn bồi bút, văn nô, thi nô, báo nô, trí nô, bọn
theo đóm ăn tàn trong nước và một bọn đĩ điếm, bồi bút, gia nô, ma cô, ca sĩ,
MC ở hải ngoại lì mặt, vừa nhận tiền của CP Mỹ, CP Pháp kiểu tiền già, tiền bệnh,
vừa lĩnh lương của bọn Bắc bộ phủ nên viết bài vái lậy Hồ. Chúng trương ra Tiến
sĩ này, thạc sĩ kia để loè thiên hạ nhưng nhân cách của chúng chỉ là một đống
phân dòi. Mới đây, 36 con dế chũi (không từ phân thằng hủi) đã viết Kiến nghị
dâng lên Ba đình biểu tỏ lòng thần phục để kiếm thêm chút xương xẩu. Mà nào
chúng có trẻ người non dạ cho cam. Chúng 60, 70, 80, 90 rồi nhưng đầu óc đặc sệt,
ăn tiền già rảnh rỗi ở Hoa Kỳ, Pháp, Bỉ v.v…nên giở giói tưởng để mua danh và
may ra bọn cướp có thí cho cái gì đó hay là về VN du hí du dâm thì được dễ
dàng. Nhưng chúng chỉ bị đồng bào hải ngoại khinh như những “con dế chũi đầu
toàn phân hủi” mà thôi. Bọn Bắc bộ phủ cũng khinh chúng chứ không sài chúng.
BBP vẫn gọi chúng là Việt gian phản động đâu có cần chúng làm chi!
Ngoài bọn này, trong nước
còn một bọn tỉ phú, bọn đảng viên làm giầu nhờ cái xác thối ở Ba đình. Nước Việt
Nam bị ngoại quốc khinh rẻ cũng vì tất cả những bọn này. Chúng bắt chước cái
lươn lẹo, gian dối, bất lương, xảo trá, lưu manh của Hồ y khuôn đúc!
Cái xác thối tởm lợm của quốc
tặc Hồ từ ngày 2-9-1969 tới nay đã tốn hàng nghìn tỉ tiền thuế của nhân dân để
ướp và bảo quản. Mỗi năm phải đưa sang Nga cho chuyên viên tái bảo quản tốn phí
kinh khủng. Một sư đoàn dưới quyền chỉ huy “Bộ tư lệnh bảo vệ Lăng Bác” ngày
đêm canh giữ xác thối, tiền nuôi chúng một năm cùng với mọi chi phí có thể nuôi
vài ba chục ngàn gia đình nông dân dư thừa.
Vậy mà chúng vẫn ngoan cố
duy trì và vẫn leo lẻo mồm rằng phải cần kiệm liêm chính như lời “bác” dạy! Vài
năm nay vua nước Saudi Arabia qua đời, nhà vua dặn chôn cất ông trong nghĩa địa
của công chúng, nằm như mọi người dân khác, một thảm cỏ hình chữ nhật bằng cái
chiếu, một tấm bia đề tên, ngày sinh, ngày mất. Người ta giầu nứt đố đổ vách,
bán dầu cho thế giới thu vào hàng trăm tỉ đôla mỗi năm nhưng người ta xử thế
như thế! Sao bọn Hồ và Bắc bộ phủ chẳng biết noi gương?!
Chị có biết chôn ở đâu vững
chãi nhất không? Chôn trong lòng nhân dân! Nhà tư tưởng, triết gia, nhà văn,
nhà thơ, nhà báo, họa sĩ, điêu khắc gia… thì chôn trong lòng người đọc, người
thưởng lãm. Không cần phải xây lăng tẩm mà muôn đời không phai nhoà. Học giả Phạm
Quỳnh khi Trần huy Liệu giết năm 1945, ông còn rất trẻ; nhưng những gì ông trứ
tác ngày nay vẫn còn lấy ra làm khuôn mẫu. Cụ Phan Khôi, các nhà thơ Trần Dần,
Phùng Quán, Phùng Cung, nhà văn Khái Hưng, nhà văn Nguyễn mạnh Côn trong Nam
v.v...đều là những người bị Hồ giết hoặc trù dập, văn, thi nghiệp của họ chưa nhiều
gì, thế mà ngày nay các nhà văn nhà thơ, nhà báo vẫn nhắc đến tên họ với niềm cảm
mến, ngưỡng mộ những con người kiêu hùng, dám nói lên Sự Thật và Công Lý trong
khi bọn bồi bút Lưu trọng Lư, Chế lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tố Hữu, Bùi ngọc
Tấn… bị đạp xuống đất đen. Những đứa khác bán linh hồn cho yêu tinh Hồ cũng
cùng chung số phận bởi cái bản chất của chúng là lòn trôn, núp váy không sao cải
đổi được!
Chị không phải dạy, chúng
tôi đã suy ngẫm một cách thấu đáo, rút kinh nghiệm xương máu nhiều triệu đồng
bào bị chết vì Hồ tặc và thủ hạ của Hồ, chúng tôi có người thân chết vì Hồ tặc
hiếu sát, có bạn bè chết vì trốn Hồ lênh đênh trên biển hay chết rục xương
trong những rừng già biên giới Việt-Miên-Lào-Thái vì phải liều chết ra đi trốn
khỏi bàn tay độc ác dã man của Hồ dù biết 99 chết chỉ có 1 sống!
Chúng tôi biết rõ hơn chị rất
nhiều khi chị chỉ nghe nói lại chứ chưa từng chịu cảnh đói khát trên biển hay
trong rừng già, chưa từng bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp và giết hết những người
đàn ông, còn con nít thì chúng vứt xuống biển. Con số nạn nhân chung là 800,000
chứ không phải ít. Nhưng hầu hết những người thân còn sống hài lòng. Họ bảo với
mọi người, chẳng thà chết vậy mà nhẹ nhàng, đỡ đau khổ hơn là còn sống mà chịu
bọn VGCS đọa đày!
Chị ở Paris ăn bơ thừa sữa cặn
của thực dân Pháp, hưởng đầy đủ mọi tự do sung sướng nên chị nói bá láp mà
không có cơ sở gì, chị cũng mù không nhìn vào những thành quả ghê tởm Hồ mang lại
trong hơn 60 năm Hồ cai trị đất nước, người dân đói khổ lầm than, nên chị mới
cho Hồ là con người vĩ đại nhất thế kỷ 20! Chị đã làm ô danh những người cầm
bút có lương tâm và chà đạp lên danh dự những người Việt Nam yêu nước chân
chính. Chị đã làm cho người ngoại quốc nghi ngờ rằng không lẽ những người cầm
bút của nước Việt Nam, cả trong nước và hải ngoại, lại chỉ là những con người tồi
tệ, mù loà, sai trái, kênh kiệu, lươn lẹo, gian manh thế này sao???
Bởi chị đã bóp méo lịch sử!
Nếu Hồ vĩ đại như chị viết,
vĩ đại tức được dân yêu mến vì đã mang lại cho họ đời sống yên vui, cơm no áo ấm,
tự do hạnh phúc như Hồ hằng nhắc đi nhắc lại hàng ngày thì tại sao sau ngày
20-7-1954, sau 9 năm y cai trị, sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước, người Bắc
và Bắc Trung Việt bỏ hết mọi thứ, từ ông bà, cha mẹ, ngay cả vợ con, chồng con,
anh chị em, chú bác cô dì và cả phần mộ tổ tiên, cả ruộng vườn, nhà cửa, trâu
bò, lợn gà, thuyền bè, tất tật mọi thứ ra đi tay không vào Nam tìm tự do?
Số người vào Nam khoảng hơn
một triệu, tuy nhiên vì Hồ ra lệnh cho cán bộ, công an, du kích, mọi thành phần
thuộc guồng máy cai trị của Hồ phải hết sức ngăn chặn, làm khó, cản trở, dụ dỗ,
đe doạ nghĩa là bằng đủ mọi cách để gây khó khăn, nản chí cho những người xuống
Hải Phòng xuống tầu vào Nam.
Mẹ, các anh chị, các cháu
tôi là những nhân chứng sống đã trải qua những giờ phút nghẹt thở trốn bọn chó
sói ra đi tay không nhưng đi đến nửa đường từ quê ở Nam định lên Hà Nội, đã bị
bắt lại và cả gia đình phải ở lại với bọn chúng trong nỗi cay đắng mất mát khôn
nguôi. Cả gia đình hơn bốn chục người chỉ có mình tôi (đang ở Hà Nội lúc đó) là
thoát móng vuốt của Hồ mà thôi. Chị tính nhẩm là biết ngay số người đi được:1/40
đó là gia đình tôi.
Vậy nếu lấy con số đã đi được,
cho là 1 triệu thì số người muốn đi vào Nam (tính phác) phải là 40 triệu, cả Bắc
Việt.
Nhà văn Nguyễn Tuân nói:
“Cái cột đèn đi được, nó
cũng đi!”
Điều đó nói lên cái chi? Chị
là Nhà Văn chắc khỏi cần tôi giải thích nhưng chị phải “honnête” công nhận một
sự thực và chớ lươn lẹo! Nếu hỏi đứa con nít mươi lăm tuổi nó cũng biết trả lời
vì người ta đã quá sợ “cái vĩ đại” của ông Hồ của chị! Người ta thà bỏ hết để
giữ được mạng sống còn hơn là ở với bọn cướp ngày mà chủ tướng không ai khác là
vĩ nhân Hồ của chị (tôi phải thêm từ “của chị” vì hiện nay Hồ không còn là của
ai ngoài chị và bọn vgcs đang bán nước cho Tàu ở Tây Nguyên. Hồ từ lâu rồi
(3-2-1930) là người của đảng y, của Nga-Tàu chứ không liên quan gì đến dân tộc
VN mặc dù y cai trị. Y chủ trương vô tổ quốc, chị không biết sao? Tôi thì biết
điều này nhờ bố tôi và sách vở, từ khi chị chưa sinh ra làm người lận!)
Chỉ 21 năm sau, ngày
30-4-1975, người dân Việt lại một lần nữa bỏ hết mọi thứ để ra đi trốn khỏi
nanh vuốt Hồ và bọn thủ hạ tàn ác dã man. Lần này không dễ dàng như năm 1954 vì
phải chuẩn bị tầu bè, lương thực, dầu nhớt cho máy tầu, cả mua bến bãi đút lót
cho công an đầu gấu và xếp của chúng. Hàng trăm nghìn cây vàng, hàng trăm triệu
đô-la từ người dân miền Nam bay vào túi bọn lang sói vì như tôi đã nói, có bỏ hết,
ngay cả mạng sống, để trốn khỏi nanh vuốt Hồ tặc thì nhiều triệu người cả miền
Nam và miền Bắc cũng vui lòng không cần suy nghĩ. Muời sáu (16) tấn vàng ròng của
VNCH dùng để tiêu khi cần kíp, không một cấp lớn nào của VNCH tơ hào nên để lại
trong Tổng Ngân Khố đường Nguyễn Huệ sau ngày 30-4-1975. Chị có biềt 16 tấn
vàng này sau đó vào tay ai không? Chị hỏi Bắc bộ phủ là có câu trả lời. Chúng
chia chác nhau đến chỉ cuối cùng. Chính quyền miền Nam trong 21 năm, qua hai TT
Ngô đình Diệm và TT Nguyễn văn Thiệu, 16 tấn còn y nguyên 16 tấn. Chị có thấy mắc
cở vì đánh giá sai và viết sai không? Thần kinh xấu hổ của chị chắc lặn mất
tiêu rồi nên chị mới ăn nói ba trợn như thế chứ!
Chính vì nóng lòng ra đi dù
sống dù chết, 800,000 người Việt đã làm mồi cho cá biển Đông hoặc thú rừng trong
các cánh rừng già biên giới Việt Nam với các nước Đông dương và Thái Lan. Chị
chớ quên hai cuộc di cư vĩ đại trong “Đỉnh cao chói lọi”!
Vì sao dân chúng quá sợ hãi
con yêu tinh Hồ tặc và tay sai như vậy? Vì một triệu lý do tôi đã giải thích ở
những bài trên, xin vui lòng đọc lại.
Một nhà cai trị mà dân sợ
hơn hùm beo chó sói, dân khinh dân ghét như đứa vô lại, du đãng, ăn cướp, giết
người, bỏ hết cũng được để đổi lấy tự do và ra khỏi sự áp chế, trù dập của y và
bộ hạ, vậy mà chị lại suy tôn y lên làm bậc vĩ nhân của thế kỷ! Mắt chị vẫn mở
trao tráo nhưng bảo đảm là không còn nhìn thấy gì!
Bởi suy nghĩ sai nên chị mới
viết “Đỉnh cao chói lọi” Au Zénith. Chị nghĩ rằng Hồ xứng đáng được chị thanh
minh thanh nga cho và chị tin vào cây bút của chị có thể thuyết phục mọi người,
cả Việt lẫn ngoại quốc, sẽ nhìn ông Hồ với cái nhìn khác, những gì xưa kia ông
ta bị quy cho là sai lầm thì được ngòi bút “trạng sư” (avocat) của chị phản biện
và mọi người phải trả lại cho ông Hồ những gì ông ta đáng có vì những công việc
tốt ông ta đã làm cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam!
Nhân tiện đây, chị hãy nêu
ra cho mọi người coi chính sách nào là chính sách tốt, ích quốc lợi dân của ông
Hồ? Nếu toàn dân công nhận thì không lý gì những người Quốc gia chúng tôi không
công nhận!
Sau Hiệp định Geneva năm
1954, chúng tôi ở trong Nam cũng mong cho ông Hồ thành công ở ngoài Bắc Việt là
mang lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc, tự do, nhân quyền cho mọi người dân Bắc Việt
vì cái nghĩa đồng bào là trước hết ”Một con ngựa đau cả tầu không ăn cỏ”. Hơn nữa
gia đình nào cũng còn người thân ở lại sau cuộc di cư vĩ đại 1954, họ sống dưới
sự cai trị của ông Hồ; nếu chế độ của ông Hồ lo được nhiều cho dân, làm đất nước
tiến bộ thì chúng tôi ở trong Nam cũng vui mừng vì biết rằng người thân của
mình có một cuộc sống tương đối yên vui, mình cũng bớt lo cho họ, trong khi mọi
liên lạc bị cắt đứt bởi nhà cầm quyền CS Bắc Việt.
Nhưng điều sơ đẳng đó đã
không xẩy ra. Suốt 21 năm khi đồng bào miền Nam được hưởng một cuộc sống yên
vui, no ấm, nhiều gia đình nhờ buôn bán, kinh doanh, khuếch trương nông nghiệp
trồng trà, cà-phê, cao su ở cao nguyên, cấy lúa dưới Hậu giang v.v...họ đã trở
nên khá giả, giầu có, người kém nhất cũng đủ ăn, mát mặt. Không hề nhìn thấy một
người hành khất trong đệ nhất và đệ nhị Cộng hoà miền Nam, khác xa xã hội chủ
nghĩa VN do ông Hồ cai trị hành khất lổn ngổn đầy Sàigòn.
Hai mươi mốt năm ở miền Nam
như thế trong khi miền Bắc vẫn nghèo đói, lam lũ, cực nhọc mà không đủ miếng
ăn, trẻ con thất học hầu như 70-80% (tôi cứ nhìn đàn cháu của tôi, con các ông
anh bà chị (chưa xong tiểu học) là thấy ngay).
Nhắc lại ngày 30-4-1975 khi
chị vào Sàigòn nhìn những toà nhà cao năm, bảy tầng, phố xá đẹp đẽ, sạch sẽ, nhà
cửa khang trang, người người mạnh khoẻ, ai cũng có dư tiền dư gạo, nghèo nhất
cũng đủ ngày hai bữa, hầu hết những nhà ở thành phố đều có TV, tủ lạnh, bếp
gas, nhiều nhà có máy giặt, bàn ủi điện còn radio là thứ quá thường, mỗi nhà ít
nhất cũng có một cái để nghe tin tức.
Chị nhìn vào đó chị khóc cho
cái “văn minh thua cái mọi rợ” thế sao nay, qua 34 năm, chị lại quay 180 độ với
lập trường ngày 30-4-75 là tại sao?
Nhìn xã hội, người ta biết
cách cai trị của người lãnh đạo, đó là nhìn quả biết cây, đâu cần phải suy nghĩ
xa xôi?
Nhưng cái tư tưởng thù hận Mỹ
và người miền Nam đã in sâu trong đầu óc chị rồi, không cách gì tẩy rửa được nữa
nên nói đến Mỹ, đến QLVNCH là chị nổi đoá.
Thái độ đó không phải là
thái độ của chính nhân quân tử, của một người tôn trọng Sự Thật và Lẽ phải,
không phải của một người “honnête” mà chỉ hành động với cảm tính hay sự lươn lẹo,
giả trá mà thôi.
Văn hào Alexander
Solzhenitsyn bị nhà cầm quyền Liên Xô trù dập, đày đoạ hết mức vì ông đứng vào
với Tây phương, với Dân chủ Tự do, ông đả phá chủ nghĩa lừa dối gian trá Cộng sản.
Ông được tặng giải Nobel văn chương do Hàn lâm viện Na Uy tặng với một số tiền,
họ cũng không cho ông đi lãnh. Ông bị làm khó đủ điều vì ông không chịu bẻ cong
ngòi bút viết theo đơn đặt hàng của họ. Trước sau ông vẫn tôn thờ một lý tưởng
là nói lên Sự Thật và Lẽ Phải, Tự do và Dân chủ, Đa nguyên và Pháp trị. Ông mới
mất nhưng cái tinh thần chính trực, thẳng thắn (đây mới là honnête thực sự)
lương thiện của ông lan toả ra khắp thế giới, danh thơm ông lưu lại muôn đời!
Solzhenitsyn chỉ là một Nhà
văn nghèo, bị trù dập suốt đời. Ông không có một chút quyền uy bằng 1 phần triệu
ông Hồ của chị nhưng ông đã biết sống, biết đi theo lý tưởng cao cả dù bị đày
đoạ trù dập và có khi nguy đến tính mạng.
Uy quyền như ông Hồ của chị,
muốn gì được nấy, rượu gái thả dàn, nhưng nay ông được cái gì nếu không là những
lời nguyền rủa, thoá mạ nặng lời của nhân dân? Hai cách sống đó, của Văn hào
nghèo mạt rệp Solzhenitsyn và của ông Hồ chí Minh quyền uy một cõi, chị thấy
cách nào hay, cách nào dở? Dở đến nỗi phải viết cuốn sách 800 trang để biện hộ
nhưng những dòng máu còn đỏ thắm của hơn 10 triệu nạn nhân vô tội của Hồ vẫn
loang qua 800 trang đó khiến không ai dám đọc vì nó quá tanh tưởi, quá thối tha
đầy mùi tử khí!
Văn hào Solzhenitsyn có viết
một câu để đời:
“Khi anh/chị nghe thấy thằng
Cộng sản nói láo, lập tức đứng lên phản bác, bảo nó rằng nó nói láo. Nếu không
phản bác nó được thì đi ra không nghe nó nữa.”
(còn tiếp)
GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Vì bài dài, những bài đọc
thêm chưa thể post. Xin cáo lỗi cùng bạn đọc. Đây là bản tin trên Net:
“Pacific Daily News cho hay một ngư dân
Trung Quốc thiệt mạng và 25 người khác bị bắt trong mộ́t cuộc đụng
độ với lực lượng tuần duyên của đảo quốc Palau.
Sự cố xảy ra hôm Chủ nhật 1/4, khi các thuyền cá của những người này bị phát hiện đang hoạt động trái phép trong vùng biển của Palau, thuộc Thái Bình Dương. Khi một thuyền nhỏ của Trung Quốc lao vào tàu của tuần duyên Palau, cảnh sát biển Palau đã nổ súng cảnh báo. Một ngư dân được tin đã trúng đạn và bị thương, sau đó chảy máu đến chết. Những người còn lại trên cùng thuyền và một chiếc khác lớn hơn đã bị bắt và đã bị Palau truy tố tội đánh bắt trộm và một số tội danh khác. Pacific Daily News dẫn lời phát ngôn viên cho Tổng thống Palau, ông Fermin Meriang, thuật lại rằng khi thuyền cá của người Trung Quốc lao tới, cảnh sát biển Palau buộc phải nổ súng cảnh báo vào máy tàu chứ không nhằm vào ai cả. Tuy nhiên "một viên đạn chắc đã văng ra và găm trúng vào đùi một thuyền viên Trung Quốc" khiến ông này chảy máu đến chết trước khi được đưa vào bệnh viện.” (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/04/120404_chinese_fisherman_palau.shtml) Vì chưa từng nghe tới tên Palau, tôi tìm hiểu thì thấy như sau: Palau là một quốc gia bé tí xíu nằm ở phiá Đông Nam của nước Phi Luật Tân, diện tích chỉ có 459km2 (Việt Nam lớn hơn Palau 722 lần, và Trung Quốc lớn hơn Palau 20.908 lần), dân số là chỉ có 21.000 người (vâng, chỉ 21 ngàn người. Việt Nam đông dân hơn Palau 4.358 lần, và Trung Quốc đông dân hơn Palau 63.964 lần, mỗi năm dân số Trung Quốc tăng khoảng 6 triệu rưỡi người, bằng 307 lần dân số Palau). Tôi muốn té xỉu vì ngạc nhiên và vì … nhục! Một cái nước bé “bằng cái lỗ mũi” ấy đã không ngần ngại, đã dám bắn chết kẻ xâm phạm vào lãnh thổ của họ trong khi nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghiã của ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, lớn hơn Palau 722 lần và đông hơn Palau 4 ngàn 358 lần lại chẳng dám hó hé khi họ vào tận biển của mình bắn giết ngư dân mình! Tổ tiên ơi, tội lỗi gì mà sản sinh ra những đứa con làm nhục tổ tông như thế này!?
Kính chuyển đọc bài viết của GS Trần Đình Ngọc
phản bác Dương Thu Hương về rất nhiều sai nhầm của DTH viết trong cuốn Đỉnh
Cao Chói Lọi và Món Ăn Chân Lý khi bênh vực tên Việt gian, bán nước Hồ
Chí Minh.
Bài viết có lập luận vững chắc, dẫn chứng khả tín, rất
Nên, Cần đọc và Chuyển Tiếp trên khắp thế gới, vào cả trong nước.
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết