On Tuesday, 8 April 2014 6:53 AM, Yen_vlink <y> wrote:
VÌ
ĐÂU NÊN NỖI?
Mặc Giao
Lý do mất miền Nam vào tay cộng sản đến bây giờ vẫn còn được tranh cãi,
dù ai cũng thấy nguyên nhân chính là việc Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VN. "Tiền
đồn chống cộng" này không còn cần thiết nữa, sau khi Mỹ biết Trung Cộng
vào thời gian đó không có ý định và chưa đủ khả năng nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.
Những sửa soạn cho việc Mỹ rút khỏi VN đã được thực hiện với chương tình Việt
Nam Hóa chiến tranh. Đến năm 1972, sau khi Cố vấn An ninh Kissinger và TT Nixon
sang Tàu nói chuyện với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thì ván bài đã được lật
ngửa. Không đầy một năm sau, ngày 27-1-1973, Hiệp Định Paris chấm dứt chiến
tranh VN được ký kết, với phần thua thiệt về phiá Nam VN, phần thắng lợi bất
ngờ về phiá Bắc Việt, và Hoa Kỳ được "rút lui trong danh dự".
(xem hình trong attachment)
Cầm bản dự thảo Hiệp Định đã được Mỹ và Bắc Việt phó thự (initial), Cố vấn
Kissinger đi Sài Gòn bắt TT Nguyễn Văn Thiệu ký. Nếu TT Thiệu ký ngay thì chẳng
khác gì ký vào tờ khai tử của chính ông và của cả miền Nam. Bản dự thảo coi như
chung quyết (final draft) này dự trù TT Thiệu phải từ chức liền, trao chính
quyền cho Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc gồm 3 thành phần (Quốc, Cộng và
thành phần thứ ba ở giữa). Hội đồng sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu
lên một chính quyền mới cai trị miền Nam. Một điều khoản khác vô cùng tai hại
là trong khi các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ và của các nước đồng minh (Đại
Hàn, Úc, Thái, Phi Luật Tân) phải rút đi thì những đơn vị quân đội chính qui
của Bắc Việt vẫn được quyền ở lại miền Nam.
Dĩ nhiên TT Thiệu, Quốc Hội
và chính phủ VNCH phản đối. Kissinger không thành công trong việc thuyết phục
TT Thiệu. Ông ta giận dữ ra về và thề không trở lại Sài Gòn nữa. TT Nixon phải
cử tướng Alexander Haig, Tổng Quản Trị (Chief of staff) Phủ Tổng Thống, qua Sài
Gòn điều đình và làm áp lực tiếp. Cuối cùng Mỹ cũng phải thỏa hiệp không đòi TT
Thiệu từ chức, không thay thế chính quyền miền Nam bằng Hội Đồng Hòa Giải Hòa
Hợp Dân Tộc, nhưng giữ nguyên điều khoản không buộc quân
đội Bắc Việt rút khỏi miền Nam, vì sợ cộng sản sẽ không nhượng bộ điều này. Kissinger
phải đi điều đình lại với Lê Đức Thọ. Phiá cộng sản không chịu sửa đổi bản thảo
Hiệp định, Mỹ phải dội bom Hà Nội và phong tỏa hải cảng Hải Phòng vào những
ngày cuối năm 1972 để làm áp lực. Cuối cùng Hà Nội cũng phải nhượng bộ nhưng
vẫn còn lời chán vì họ được giữ quân tại miền Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh
xâm chiếm. Thế là Hiệp định Paric được ký vào ngày 27-1-1973.
Để buộc TT Thiệu phải làm theo ý Hoa Kỳ, TT Nixon dùng chiến thuật vừa dỗ vừa
dọa. Một mặt ông viết thư cho TT Thiệu hứa hẹn tiếp tục gúp đỡ VNCH, trừng phạt
cộng sản nếu vi phạm Hiệp định, một mặt ông chính thức hăm dọa "không muốn trường hợp
TT Ngô Đình Diệm tái diễn" (Xem Palace Files và Khi Đồng Minh Tháo
Chạy của Nguyễn Tiến Hưng). Những tài liệu liên quan tới những lời TT Nixon nói
về TT Thiệu đã được giải mật và lưu trữ tại Thư viện Nixon ở Yorba Linda,
California, cho thấy Nixon rất giận dữ trước việc ông Thiệu
chống đối những điều khoản căn bản của bản dự thảo Hiệp định. Cuốn băng ghi âm từ 1973 dài 150 giờ và
viết lại thành 30,000 trang đã được giải mật và đã được ông Hughes, nhà chuyên
môn nghiên cứu các băng ghi âm của các tổng thống Mỹ, tiết lộ Nixon đã từng nói
trong một phiên họp tại Bạch Ốc về ông Thiệu: "Tôi không rõ đe dọa đó
có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của hắn
nếu cần thiết" (cut off his head if necessary - Nguồn: BBCvietnam.com
June 24, 2009). Dĩ nhiên, Nixon nói điều này trong lúc nóng giận nhưng cũng
phản ảnh một phần sự thật.
Chính tướng Alexander Haig
cũng viết trong hồi ký là vào thời điểm đó, tên ông Thiệu thường được nhắc tới
trong các cuộc thảo luận và có người đưa ý kiến ám sát ông Thiệu. Tướng Alexander
Haig viết thêm: "Nixon
rất mong muốn giải quyết chuyện Việt Nam cho xong và chia sẻ sự bực bội và tức
giận như núi lửa của Kissinger đối với người đồng minh cứng đầu này (ám chỉ ông
Thiệu) đã gây trở ngại lớn nhất cho ông trong việc kết thúc cuộc chiến"
(1).
Dọa nhau như thế, nhưng Mỹ đã không dám làm, vì không dại gì gây chuyện rắc rối
mới khi sắp đến cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 của TT Nixon. Vì vậy thầy trò Nixon phải
thuyết phục VNCH bằng những hứa hẹn trừng phạt những vi phạm Hiệp định và tiếp
tục viện trợ cho Nam VN. Khi tiếp ông Nguyễn Phú Đức, Phụ Tá Ngoại Giao của TT
Thiệu tại tòa Bạch Ốc, TT Nixon đã hứa sống hứa chết (he repeated his bedrock
assurance) là sẽ bỏ bom Bắc Việt một cách nặng nề nếu Bắc Việt vi phạm hỏa ước
(2). Về phần Ngoại Trưởng Henry Kissinger (nhận chức Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày
22-9-1973) cũng viết trong hồi ký rằng chính TT Nixon, Bộ trưởng Quốc Phòng và
các giới chức cao cấp của Mỹ đều xác nhận nhiều lần với ông Thiệu là chính phủ
Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt phải tôn trong Hiệp định (3). Hứa như vậy chỉ là để ông
Thiệu yên tâm ký một hiệp ước bất lợi.
Thực tế, Mỹ chỉ muốn chấm dứt chiến tranh
"trong danh dự", có nghiã là lấy được tù binh về, rút chân khỏi vũng
lầy VN, mặc cho Nam VN rơi vào
tay cộng sản, trong một "khoảng thời gian coi được" (decent
interval). Vì thế Hành Pháp bầy trò đề nghị Lập Pháp viện trợ cho Nam VN 700
triệu Đô-la. Lập Pháp lờ đi. TT Gerard Ford lại yêu cầu viện trợ khẩn cấp 300
triệu. Quốc Hội lấy cớ nghỉ hè, không thể triệu tập phiên họp cứu xét. Một khi
người ta đã quyết tâm bỏ cho chết luôn, làm sao có thể cho tiền để sống lay lứt
thêm một thời gian nữa?
Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, ông đạo diễn phù thủ Kissinger mới viết
vuốt đuôi "Lúc này tôi nghĩ tới một ông tướng VN nhỏ bé, một người yêu
nước". Ở một đoạn khác, ông viết:"Tôi có rất ít tình bạn
cá nhân với ông Thiệu, nhưng nhìn ông theo đuổi cuộc chiến đấu một cách cô độc
sau khi người Mỹ rút lui, tôi thấy mến phục ông ấy rất nhiều. Ông ít được
thương hại, cũng cũng không được nhiều người hiểu, nhưng những điều đó không
ảnh hưởng gì tới nhân cách của ông" (4).
Đúng là những lời ai điếu để an ủi. Chính Kissinger đã tiên đoán với Nixon là sau 2 năm ký Hiệp định Paris,
miền Nam VN sẽ sụp đổ.
Các chính khách có thói quen chỉ đấm ngực nhận lỗi sau khi rời chức vụ. Về
trường hợp Việt Nam, cựu Tổng Thống Richard Nixon viết cả một cuốn sách rút những
kinh nghiệm sai lầm, No
More Vietnams. Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger viết hồi ký có những đoạn
xoa vuốt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và gần đây đã chính thức xin lỗi về những
sai lầm của mình. Ông còn xác nhận trong khi Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam
thì khối Xô Viết vẫn tiếp tục cung ứng đầy đủ các tiếp liệu cho Bắc Việt. Cựu
Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird nói rằng các khoản viện trợ Mỹ dành cho VNCH
đã bị cắt theo yêu cầu của các thế lực chính trị Mỹ, đưa tới kết qủa chung cuộc
là chế độ miền Nam VN thua trận vào ngày 30-4-1975 (VOA 2-7-2007).
Khi nhìn thấy vấn đề thì đã trễ. Nhưng khi tại chức, họ chỉ nghĩ tới
quyền lợi của nước họ, tới ghế ngồi và danh dự của cá nhân họ. Một tay cầm
súng, một tay cầm túi Đô la, họ cứ bước lên đầu người khác mà đi. Vì vậy, chúng
ta phải nhớ, trong trường chính trị, không có đồng minh
vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù vĩnh viễn. Lý tưởng còn thay đổi huống chi chính sách. Khi nhu
cầu đòi hỏi, họ có thể xoay đổi chính sách 180 độ, bất kể bao nhiêu tiền bạc và
xương máu đã đổ ra. Tiền và mạng người được coi là những chi phí cần thiết cho
một giai đoạn với một chính sách giai đoạn. Lúc phải tiêu là tiêu. Tiêu rồi
không tiếc.
Dù quy trách nhiệm lớn nhất cho Hoa Kỳ trong việc mất miền Nam, chúng ta cũng
phải tự nhận lỗi về những khuyết điểm của mình. Những tính toán sai của các
lãnh đạo quân sự và
dân sự, nạn tham nhũng, lính ma lính kiểng, hối mại quyền thế... đều có xảy ra dù không ở mức
độ trầm trọng như dưới chế độ cộng sản. Không thể chấp nhận những tệ nạn này
nhưng chúng không làm mất nước khi ở một mức độ thấp. Dân miền Nam vẫn sống no
đủ, tự do, xây dựng hiện tại và tương lai với đà tiến triển không ngừng.
Tội nặng nhất phải quy vào
những kẻ chỉ biết vụ lợi, những kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản". Họ là những con buôn bán lén gạo và thuốc
Tây cho cộng sản với giá cao. Họ là những người hướng về rừng với hoài cảm thời
Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Họ là những trí thức viễn mơ đề cao giá trị
dân tộc và chống sự hiện diện của người ngoại quốc trên đất nước. Họ lý luận
rằng cộng sản hay quốc gia đều là người Việt, chắc không xử tệ với nhau như
người ngoại chủng xử với dân mình. Từ đó, họ chống đối chính quyền quốc gia,
gán cho mọi thứ xấu và sẵn sàng nghe theo những lời dụ dỗ của những cán bộ cộng
sản nằm vùng. Họ là những người trẻ bị đàn anh phỉnh gạt bằng những lý luận sai
lầm.
Cuối cùng, họ là những người
lãnh đạo tinh thần của một số tôn giáo đã vô tình hay hữu ý lẫn lộn chuyện đạo
với chuyện đời, không phân biệt đấu tranh cho công lý với đấu tranh chính trị
để lật đổ một chế độ hợp pháp, chưa kể một số tu sĩ là cộng sản nằm vùng khéo
ngụy trang. Để cai trị một xã hội bị lũng đoạn như thế, chính quyền vẫn phải áp
dụng những nguyên tắc dân chủ, hơi mạnh tay là bị kết án đàn áp, sửa đổi luật
lệ cho hữu hiệu thì bị kết án độc tài. Có bàn tay cộng sản nhúng vào mọi chỗ mà nhiều người
không biết, cứ tưởng mình đang tranh đấu cho hòa bình, tự do và quyền lợi của
dân tộc. Chính những người như
vậy đã tiếp tay cho cộng sản mau chiếm miền Nam.
Mất
rồi mới tiếc. Mắt mở ra mới thấy mình lầm. Trong khi dân trong nước đang đấu
tranh gian khổ để đòi lại những quyền công dân và quyền con người đã bị cướp
mất, đang vật vã đòi lại và giữ gìn những phần biển, đảo mà ông cha để lại, chúng ta ở hải ngoại đang làm
gì? Còn bao nhiêu người nghĩ tới quê hương? Có bao nhiêu người dấn thân trong
những hành động tranh đấu đòi công lý và nhân quyền cho anh em ruột thịt trong
nước? Hay đa số chúng ta vẫn thờ ơ, coi đó là việc của người
khác? Có người còn tiếp tay cho những kẻ cầm quyền bán nước và hà hiếp dân dù
chính họ đã từng là nạn nhân.
May mắn thay,
vẫn còn nhiều người âm thầm tranh đấu, hay ít ra cũng âm thầm góp công góp của
để yểm trợ những người tranh đấu. Họ thuộc đa số thầm lặng, chỉ lên tiếng khi
cần. Vì sống trong những xã hội tự do, các đoàn thể của người Việt đua nở như
nấm gặp mưa. Có những đoàn thể tốt nhưng cũng có những đoàn thể hữu danh vô
thực, thùng rỗng kêu to. Có những người tốt nhưng cũng có những người chỉ thích
danh lợi, thích làm lãnh tụ, mới làm chủ tịch một hội nhỏ xíu đã mơ và cư xử
như một thủ tướng, bộ trưởng, dân biểu tương lai. Do đó sự đố kỵ và chia rẽ gia
tăng, cộng thêm những bàn tay bí mật của cộng sản và tay sai nhúng vào quậy phá
các cộng đồng.
Trước những tệ nạn trước mắt,
chúng ta vẫn không thất vọng khi thấy sau
39 năm, cộng sản vẫn chưa chiếm được một cộng đồng người Việt nào ở hải ngoại,
chưa đưa được khối người Việt hải ngoại vào vòng chi phối và thần phục nhà
đương quyền Hà Nội, dù cộng sản đã tốn bao công sức và tiền bạc để thi hành
Nghị Quyết 36.
Kỷ niệm 39 năm miền Nam bị đặt dưới chế độ cộng sản, chúng ta cần thay đổi
phương cách hành động. Chúng ta nên ý thức rằng việc trực diện đấu tranh với
cộng sản phải là việc của người trong nước, người ở ngoài chỉ có thể yểm trợ
tinh thần, ngoại vận và phương tiện. Chúng ta không nên phí tiền bạc vào những
việc phô trương bề ngoài.
Hãy dồn phương tiện giúp anh chị
em trong nước. Khi tranh đấu trong thời đại điện tử và thông tin nhanh chóng như
hiện nay, họ cần phải có máy hình, điện thoại di động, computer... Khi ốm đau hoặc
khi bị bắt vào tù, họ cần được tiếp tế lương thực và thuốc men, chưa kể những hoạt
động khác đòi hỏi nhiều phương tiện hơn. Các đoàn thể ở hải ngoại nên phối hợp trong việc phân
phối sự yểm trợ cho trong nước để tránh tình trạng chỗ ít qúa, chỗ nhiều qúa.
Hãy tạo thêm những đường dây liên lạc mới, tìm kiếm thêm những người dấn thân
mới và giúp đỡ họ. Nếu làm được như thế, đồng bào trong nước sẽ lên tinh thần
và phong trào tranh đấu có cơ lớn mạnh nhanh chóng vì có sự yểm trợ cụ thể và
hữu ích của đồng bào ngoài nước.
Mong rằng ngày 30-4 năm tới,
chúng ta sẽ có một nước Việt Nam đẹp hơn nước Việt Nam hiện nay.
chúng ta sẽ có một nước Việt Nam đẹp hơn nước Việt Nam hiện nay.
_________________________________________________
(1) Alexander M. Haig, Jr., Inner Circle, tr 307,
Warner Books, New York 1992
(2) Alexander Haig, sách đã dẫn, tr 306
(3) Henry Kissinger, Les Années Orageuses,
tr 355, Fayard, France 1982
(4) Henry Kissinger, sách đã dẫn, tr 365
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết