From: "Bang Tran bangtran5
VẾT THƯƠNG QUÁ KHỨ BỊ ĐÀO SÂU HƠN
Võ Phương
Ngày 30-4-1975 Cộng đảng Hanoi cưỡng chiếm
Sàigòn đã để lại vết thương tinh thần lâu dài cho tất cả các chiến sĩ Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. Vì tự nhận thấy mình không bảo vệ được Tự Do cho đồng bào
miền Nam, cho nên những chiến binh năm xưa vẫn ôm một nỗi buồn muôn thuở.
Đến
nay đã 39 năm, vết thương ấy chưa lành, thì mới đây, ngày 3-5-2014 khi nghe tin
giặc Tàu ngang ngược đặt dàn khoan HD981 bất chính vào vùng hải phận của Tổ
Quốc Việt Nam để khai thác tài nguyên, lại dấy lên một niềm uất hận! Vết thương
quá khứ bỗng dưng bị khoét sâu hơn!
Ai cũng hiểu, mặc dù người lính Việt Nam Cộng
Hòa đã “gãy súng” không còn khả năng chiến đấu, không còn trách nhiệm vì họ đã
bị nhiều thế lực, cả bạn lẫn thù kết hợp với nhau, loại họ ra khỏi vòng chiến
từ khi hiệp định Paris được ký kết năm 1973.
Nhưng dòng máu nóng yêu nước vẫn
chưa nguội. Với danh hiệu “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” của năm xưa đến nay
vẫn còn nguyên vẹn đã là nguyên nhân gây trăn trở khi nghe tin giặc Tàu ngang
tàng, xấc xược tiến sâu vào vùng lãnh hải thiêng liêng của Tổ Quốc để thực hiện
ý đồ xâm lăng mà chúng đã nuôi dưỡng từ lâu.
Giặc Tàu (chúng tôi nói đến Giặc
Tàu chứ không đả động đến nhân dân Trung Hoa) đã sử dụng lực lượng hải quân
hùng mạnh tiến vào vùng biển của Việt Nam nhằm hỗ trợ cho dàn khoan, nơi dự đoán
có chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên, bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư
luận thế giới và coi thường Cộng đảng tay sai của họ ở Hanoi.
Có thể chúng sẽ chiếm
cứ vùng lãnh hải này lâu dài, tương tự như bán đảo Cremia của Ukraina bị Nga
chiếm đóng hồi đầu tháng 3, vì cả Tàu lẫn Nga biết chắc là 2 khổ-chủ, không ai
có khả năng đòi lại.
Khổ chủ Việt Nam nói ở đây là toàn Dân Việt Nam trong và
ngoài nước, chứ không phải Cộng đảng Hanoi, vì theo chứng cớ lịch sử, Cộng đảng
Hanoi đã dâng đất và biển của Tổ Quốc Việt Nam cho giặc Tàu từ lâu rồi, rõ ràng
nhất là công hàm bán nước do Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt cộng ký ngày
14-9-1958; không còn gì để nói nữa.
Việt cộng và Tàu cộng tuy là hai đơn vị,
nhưng cùng một “tổ quốc cộng sản”, cùng một đường lối độc đoán, độc tài sắt máu
cai trị dân. Họ cần có nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Vì thế, có dự đoán cho
rằng, “sự kiện Biển Đông” chỉ là một trò hề, đánh lừa thế giới.
Mà cho dù có thật đi nữa thì cũng không ai ngạc
nhiên về hành động ngang ngược của Bắc Kinh, vốn đã là truyền thống lâu đời của
giặc Đại Hán (người Hán khác với giặc Đại Hán).
Đặc biệt là nhân dân miền Nam,
ngay từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1954-1963), đã được ông Ngô Đình Nhu cảnh báo: “…Nếu miền Nam rơi vào tay Cộng Sản miền Bắc thì
nước Việt Nam sẽ rơi vào tay Trung Cộng…”(1) Bây giờ thì hiển nhiên như đã thấy.
Do đó, nếu
có ngạc nhiên chăng thì chỉ ngạc nhiên về phương cách hành động của giặc mà
thôi. Và cũng do đó mà dân Việt Nam đã 39 năm nay, gọi ngày 30 tháng 4
là ngày mất nước hay ngày Quốc Hận, hoặc cứ đến mỗi tháng Tư hàng
năm, thì danh từ “tháng Tư đen” lại xuất hiện trên các hệ thống truyền
thanh, truyền hình, báo chí, trong lòng mỗi người tỵ nạn cộng sản,… mặc cho các
thế lực tay sai của Hanoi ở hải ngoại cố tình biến đổi ngày này thành “ngày tự
do”.
Nhưng 39 năm đã qua, chưa bao giờ thế lực tay sai thành công và sẽ chẳng
bao giờ thành công. Ngày “Quốc Hận” sẽ là quốc hận muôn đời. Thế nhưng ít ai
quan tâm đến nguyên nhân sâu xa gây nên ngày Quốc Hận và đại thảm họa mất nước
đã manh nha từ đâu, từ bao giờ?
Đại họa mất nước đã manh nha từ khi đảng Cộng
Sản Đông Dương được thành lập ngày 3-2-1930 ở bán đảo Cửu Long, Hồng Kông,
Trung Quốc, theo chỉ thị của “Cộng Sản Quốc Tế 3” do Nga và sau này có thêm Tàu
chỉ đạo, mà người chấp hành chỉ thị này, không ai khác hơn là Hồ Chí Minh.
Thế
nhưng, cho mãi đến năm 1979, sau khi giặc Tàu “dạy cho Việt Nam một bài học”
ở biên giới phía Bắc Việt Nam thì Cộng đảng Hanoi mới tức giận tiết lộ: “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc”.
Sự thật đó là: Mao Trạch Đông đã khẳng định
trong cuộc họp Bộ Chính Trị ban chấp hành trung ương đảng CS Tàu tháng 8-1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao
gồm cả nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như
Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém
cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng
cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh
đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”(1).
Khi đọc lời khẳng định này của Mao thì phải thấy
ngay 2 mưu đồ lớn: -Thứ nhất là Mao muốn thực hiện giấc mộng bành trướng
bá quyền to lớn, nên đã hướng mũi dùi tấn công về toàn cõi phương Nam.
Đồng
thời phải ngầm hiểu rằng, miền Bắc Việt Nam đã nằm gọn trong tay giặc Tàu ngay
từ trước 1975, tức là trước năm Cộng đảng Hanoi chiếm được Saigon. -Thứ hai là
Mao đã quyết định xóa bỏ “tinh thần Quốc Tế vô sản” giữa họ và khối Liên
Xô-Đông Âu. Mao và những người kế vị ông ta chỉ nhắm đến quyền lợi riêng tư của
đảng CS Tàu, chứ không quan tâm đến “đảng CS anh-em” nào khác ngay từ
thời “chủ nghĩa xét lại” tái xuất hiện ở nước Nga vào thời của Khrushchev. Vào
thời kỳ này (khoảng 1966,1967) một số đảng viên cs ở Hanoi bị bắt giam như:
Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Thư Hiên và một số người khác bị cáo buộc
là đi theo đường lối của “chủ nghĩa xét lại”.
Và như thế thì đã từ lâu, cả Nga lẫn Tàu đều
nghĩ đến quyền lợi riêng tư của họ, chỉ có Cộng đảng Hanoi là ngu ngơ, đần độn,
không biết gì đến thủ đoạn ma mãnh, đểu cáng của hai “đại ca”.
Cho nên, trong
lúc cả Nga và Tàu dùng chiêu bài “tinh thần Quốc Tế vô sản” để mưu cầu
lợi ích riêng tư và lừa bịp các nước CS đàn em hy sinh cho họ, thì Hồ Chí Minh
vẫn cứ dạy giỗ cán bộ: “Đệ
Tam Quốc Tế là một đảng Cộng sản thế giới, các đảng ở các nước như là chi
bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế
hoạch của Đệ Tam Quốc Tế, thì các đảng không được làm.” (2)
Cùng một phường với Hồ Chí Minh, vào thời kỳ
chiến tranh xâm lăng miền Nam do Cộng đảng Hanoi phát động vào cuối năm 1960,
Lê Duẩn, tổng bí thư đảng cũng hô hào một cách ngu xuẩn: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên-Xô và Trung Quốc”. Tại sao lại phải đánh cho Liên-Xô và Trung
Quốc? Vì đần độn, chẳng hiểu thời thế ra sao, cho nên Cộng đảng Hanoi đã một
thời cúc cung tận tụy làm tay sai cho cả 2 đế quốc đỏ Nga và Tàu, điên cuồng xâm
lăng Việt Nam Cộng Hòa. Họ dùng xương máu con dân miền Bắc “đi xẻ dọc Trường
Sơn” để vào “giải phóng miền Nam khỏi sự kềm kẹp của Mỹ, Ngụy” !?
Thật đáng buồn cười…ra nước mắt (!) miền Nam không cần những kẻ giải phóng đần
độn. Mà hậu quả là hàng triệu sinh linh con em đồng bào ta bị hy sinh một cách
vô ích trong cuộc chiến kéo dài suốt 20 năm, với núi xương sông máu trên toàn
cõi quê hương. Hệ lụy là ngày nay dưới sự cai tri của Cộng đảng Hanoi, dân tộc
Việt Nam đang sống trong vòng nô lệ giặc Tàu.
Sau cuộc chiến tang thương ấy, Cộng đảng Hanoi
đã gánh một món nợ tinh thần với giặc Tàu kèm theo món nợ chiến phí khổng lồ từ
Bắc Kinh đã cung ứng để xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ 1954 đến 1975, không trả
được. Năm 1979, Lê Duẩn ngả theo Nga, phản bội Tàu cho nên Tàu nổi giận, đã nện
cho Cộng đảng Hanoi một bài học ở biên giới phía Bắc.
Hậu quả tai hại là một
lần nữa, đồng bào miền Bắc lại lâm thảm cảnh núi xương sông máu, mất người, mất
của, mất đất vào tay giặc Tàu, không lấy lại được. Thời gian ấy, bị Nga bỏ rơi,
không còn ai nương nhờ được nữa, cho nên Cộng đảng Hanoi lại phải chịu nhục nhã,
vuốt mặt, cử Võ Nguyên Giáp đi Bắc Kinh cầu hòa. Dĩ nhiên, đi cầu hòa như thế
thì phải chịu lép vế, phải dâng đất, dâng biển cho quan thầy để chuộc lỗi và để
trả bớt món nợ năm xưa.
Thế là từ đó, dân tộc ta lại một lần nữa rơi vào vòng
nô lệ giặc Tàu. Rồi đây, nếu không có sự thay đổi to lớn, thì đại thảm họa diệt
vong sẽ đến với dân tộc Việt Nam là điều khó tránh. Theo đúng kế hoạch trường kỳ
và nham hiểm đưọc soạn thảo từ Bắc Kinh, chúng đã và đang thực hiện.
Trong một bài viết được phổ biến trên internet
ngày 22-9-2010, tác giả Nguyễn Trọng Vĩnh, một cán bộ ngoại giao lão thành của
Cộng đảng Hanoi, đã 13 năm nhận lãnh trách niệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền ở
Bắc Kinh, cho biết (xin trích đoạn nguyên văn): “Thực tế thì hiện tại “độc lập không hoàn toàn”,
vì trong đất nước ta hiện có không ít tô giới của nước ngoài: Trên rừng thì có
những nơi bị bán (cho thuê dài hạn), vị trí chiến lược thì bị chiếm đóng, ở
đồng bằng thì có những công viên vui chơi giải trí do nước ngoài làm chủ, ở
biển thì có khu ăn chơi, đánh bạc và những dải trồng đất cây sinh thái… Những
tô giới đó người dân Việt Nam tuy là chủ đất nước nhưng không được tự do đặt
chân đến. Trên biển thì quần đảo bị chiếm đoạt, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh
tế bị xâm phạm, ngư dân Việt Nam không được tự do đánh bắt hải sản.”
Danh từ “tô giới nước ngoài” trong bài viết này
phải hiểu là tô giới của giặc Tàu, nhưng tác giả đã tránh né, không dám “vuốt
râu hùm”, tương tự như danh từ “tàu lạ” trên Biển Đông được báo chí đề cập đến
trước đây, chính là tàu (ship) của giặc Tàu trên Biển Đông, nhưng “đảng ta” sợ
“phạm húy” không dám động đến, phải nói là “tàu lạ”. “Đảng ta” hèn, nên bắt
ngành báo chí của đảng và dân chúng cũng phải hèn theo.
Bài viết trên đây của ông Vĩnh được phổ biến từ
năm 2010, đến nay là năm 2014; chỉ cần ước đoán trong vòng 4 năm gần đây, mức
độ xâm nhập bí mật của giặc Tầu vào Việt Nam nhằm thâu tóm từng ngõ ngách, khai
thác tài nguyên bừa bãi, vô tội vạ, có thể nói: quê hương ta chẳng khác nào như
một vùng đất hoang vu không có chủ!
Nếu đề cập đến số người Tàu xâm nhập vào
Việt Nam và số của cải mang về Tàu, thì có thể ước đoán là con số rất lớn.
Tuy
không một người Việt Nam nào biết rõ là bao nhiêu vì không ai được phép nhòm
ngó, và cũng không ai được phép chống giặc Tàu; nhưng chắc chắn lòng tham vô
đáy của giặc kết hợp với lòng tham danh lợi của các quan thái thú Hanoi sẽ
chẳng bao giờ ngừng lại, cho phép chúng ta dự đoán là số lượng ấy rất lớn. Quê
hương bị đục khoét liên tục cho đến khi “Việt Nam sẽ không còn là Việt Nam” là
điều khó tránh!
Trước hoàn cảnh đó, giả sử, ngày nay nếu có tổ
chức kháng chiến nào của người Việt Nam yêu nước, bắt chước tiền nhân xưa kia,
đi tìm một mật khu bí mật, ẩn náu tạm để chiêu binh mộ lính, chờ thời cơ thuận
tiện, xuất quân lấy lại giang sơn gấm vóc, thì cũng rất khó khăn vì mọi ngõ
ngách, từ rừng đến núi, từ thành thị đến đồng bằng, không một nơi nào mà không
có bóng dáng giặc Tàu và tai mắt của bọn công an nhân dân Việt cộng.
Trở lại hiện tình Biển Đông, chúng ta hãy đọc
lại chính sách “ba không” của Hanoi: -Không tham gia các liên minh quân sự. -Không là đồng minh quân sự
của bất kỳ nước nào. -Không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam
và không dựa vào nước này để chống nước kia; đã được Thứ trưởng Bộ
quốc phòng Việt cộng Nguyễn Chí Vịnh nhắc lại trong chuyến viếng thăm Tàu cộng
ngày 22-8-2010.
Như vậy, Tàu cộng quá yên tâm khi khai thác tài nguyên thiên
nhiên trong vùng “lưỡi bò”, không sợ bị ai phiền hà quấy nhiễu về mặt quân sự.
Những sự kiện tàu hải giám của Việt cộng cố tiến sát vào dàn khoan, trong lúc
tàu hải giám của Tàu cộng phun nước, hay cố tình đâm thẳng vào tàu đối phương…
diễn ra trong mấy ngày qua chỉ là những màn kịch trong “vở kịch quốc phòng”,
chẳng đi đến đâu.
Cũng căn cứ vào chính sách “ba không” nêu trên,
tuy Việt cộng tự ràng buộc vào những điều kiện có lợi cho Tàu cộng, nhưng vẫn
chưa đủ làm giặc Tàu tin tưởng và hài lòng, cho nên dàn khoan HD981 mới được
cắm xuống thềm lục địa Việt Nam để thử nghiệm lòng trung thành của tay sai
Hanoi đối với chủ Bắc Kinh.
Kèm theo là những nghi vấn về “hội nghị Thành
Đô” năm 1990, tuy không được phổ biến nhưng được dư luận bàn tán nhiều về
nội dung của hội nghị này là sẽ biến Việt Nam thành một phần đất của nước
Tàu, trong một tương lai rất gần!
Từ những sự kiện đó, có thể giải đoán:
tại sao chính quyền Việt cộng không dám hành động như chính quyền Philippines
là đưa vấn đề Biển Đông ra trước Tòa Án Quốc Tế. Chỉ vì chính phủ Phi có đồng
minh quân sự rõ ràng.
Còn Việt cộng thì không có ai ngoai trừ giặc Tàu.
Đã thế,
Cộng đảng Hanoi lại nhu nhược, đần độn, thái độ thì nửa nạc nửa mỡ, không dứt
khoát lập trường, chập chờn như ma trơi, mà còn bị ràng buộc vào những thỏa
thuận bán nước…ngầm như đã nêu trên, cho nên không dám hành động, sợ bị giặc
Tàu “dạy cho bài học thứ hai”.
Tâm lý các quan thái thú ở Hanoi rất sợ bị giặc
Tàu thanh trừng.
Nhìn tổng quát vào những cuộc bìểu tình chống
giặc ngoại xâm do quần chúng phát khởi vào sáng ngày 13-5 vừa qua, thì thấy còn
rời rạc, chưa xác định rõ mục tiêu, chưa đủ lực để làm thay đổi hiện tình đất
nước.
Nó cần phải được thực hiện liên tục, đông đảo, trật tự và đồng bộ trên
quy mô toàn quốc. Đặc biệt là ở thủ đô Hanoi và Saigon, trước hết, phải nhắm
vào mục tiêu rõ ràng là lật đổ bạo quyền Hanoi vì chính các thủ lãnh Việt cộng
ở đây là nguyên nhân làm suy yếu đất nước.
Mục tiêu thứ hai mới là Tàu cộng.
Cần hiểu rằng, những tên đầu sỏ Việt Cộng đã sử dụng bạo lực để nắm quyền cai
trị dân, thì chỉ có bạo lực của toàn dân mới đem họ xuống được mà thôi.
Những
thế lực khác từ bên ngoài, nếu có, chỉ là lực phụ. Những cuộc biểu tình vừa
qua, tuy chưa mang lại dấu hiệu phấn khởi nhưng dù sao cũng phải coi đây là ánh
lửa cần thiết soi rọi vào truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc
ta mà bóng tối Mac-Lê-Mao-Hồ đã bao phủ từ 70 năm qua.
Hiện tình đang là cơ hội
tốt, nếu không lật đổ được bạo quyền Hanoi, thì không thể giải quyết được vấn
đề Biển Đông, Việt Nam sẽ bị giặc Tàu cai trị vĩnh viễn.
(1) Chính Đề Việt Nam của
Ngô Đình Nhu
(2) Nhà xuất bản Sự thật, Hanoi 10/1979
(3) Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, tập 4
Võ Phương
17-5-2014
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết