Giáo-sư Sử-học Nguyễn thị Liên-Hằng đã
đoạt giải-thưởng Edward M. Coffman năm 2012
bỡi tác-phẩm "Hanoi's War : An International History of the War for Peace in Việt-nam"
TheKhiemTran.
From: HO Lang
To: "
Subject: Hanoi's War & Nguyễn Thị Liên Hằng
bỡi tác-phẩm "Hanoi's War : An International History of the War for Peace in Việt-nam"
TheKhiemTran.
From: HO Lang
To: "
Subject: Hanoi's War & Nguyễn Thị Liên Hằng
Hanoi's War & Nguyễn
Thị Liên Hằng
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguyễn Mạnh Trinh
Một cuốn sách mới về lịch sử chiến tranh Việt
Nam của một nữ giáo sư sử học Hoa kỳ gốc Việt Nam xuất bản trong năm vừa qua đã
đoạt giải thưởng Edward M. Coffman năm 2012. Tác phẩm ”Hanoi’s War: An
International History of the War for Peace in Việt Nam” và tác giả Nguyễn Thị
Liên Hằng.
Giải Edward M. Coffman là một giải thưởng hàng
năm về sử học của The Society for Military History cho những tác phẩm đầu tay
của những tác gỉa trong nội dung hòa hợp được những vấn đề liên quan với xã
hội, chính trị, kinh tế, và lịch sử ngoại giao. Giải thưởng được lấy tên của
một Professor Emeritus của đại học University of Wisconsin - Madison, Edward M.
Coffman, một quân sử gia nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Cô là giáo sư dạy về lịch sử bang giao quốc tế
của Hoa Kỳ đặc biệt là chú trọng vào vùng Đông nam Á, nhất là thời kỳ chiến
tranh lạnh, tác phẩn Hanoi’s War là tác phẩm đầu tiên.
Tác phẩm thứ hai đang
viết với những khám phá về hệ thống quốc tế của phong trào phản chiến trong
thời kỳ chiến tranh cũng như vai trò và vị trí của những khuôn mặt nổi bật của
một thời ngoại giao với những tài liệu khảo sát từ văn khố Hoa Kỳ và các nước
Âu Châu.
Chiến tranh Việt Nam chiếm một phần quan trọng
trong quân sử Hoa kỳ. Một cuộc chiến với nhiều bí ẩn và từ từ được lộ ra từ
những văn kiện bí mật của văn khố các quốc gia liên quan đến cuộc chiến. Hàng
trăm cuốn sách phân tích về cuôc chiến này với nhiều khuynh hướng đặt trong bối
cảnh của quan điểm chính trị riêng biệt.
Trong khi hầu như là hầu hết các sử
gia nghiên cứu về chiến tranh Việt nam đều chú trọng vào nguyên ủy sự can thiệp
của Hoa Kỳ và Mỹ hóa những xung đột tạo ra, Nguyễn Thị Liên Hằng lại chú ý
trước tiên đến những quan hệ quốc tế mà các nhà lãnh đạo Bắc Việt theo đuổi
cuộc chiến và Hoa kỳ đã can thiệp vào sau đó.
Những chuyện kể đầy tính xác định
đã dẫn dắt độc giả đi từ nơi chốn đầy bùn sình của đồng bằng sông Cửu Long đến
nơi chốn đã bị bom đạn tàn phá của bình nguyên sông Hồng, từ những hành lang
đầy quyền lực ở Hà Nội và từ Sài Gòn đến dinh Bạch ốc của tổng thống Richard
Nixon, và từ nơi hòa hội ở Paris đến những hội nghị cao cấp ở Mạc Tư Khoa và
Bắc Kinh, tất cả những khám phá cho thấy hòa bình không có một chút hy vọng nào
ở Việt Nam.
Trên bình diện quốc tế, những siêu cường đã có ảnh hưởng rất lớn
đến chiên tranh và hòa bình ở Việt Nam.
Dùng những
tài liệu văn khố mà từ trước tới nay chưa được hé lộ của Bộ Ngoại Giao Việt Nam
sau thời kỳ đổi mới và cùng với những tài liệu từ văn khố các quốc gia khác có
liên quan đến chiến tranh Việt Nam trên cả thế giới, tác giả Nguyễn Thị Liên
Hằng đã bộc lộ ra một chính sách chiến tranh của Bắc Việt: gây ra chiến tranh
và tạo dựng hòa bình, không những của nhà cầm quyền Bắc Việt mà còn cả của
chính phủ Nam Việt Nam, Nga Xô Viết, Trung Quốc và Hoa Kỳ để tạo thành một bối
cảnh toàn diện của cuộc chiến ở mức độ thế giới.
Tác giả đã viết Hanoi’s War như một cách thế để
đập tan các huyền thoại về Việt Nam: ”Trong nhiều vấn đề rút ra từ những bài
học ở Việt Nam và áp dụng vào Afganistan, đó là lịch sử của chiến tranh Việt
Nam thường bị hiểu lầm hoàn toàn. Lịch sử của cuộc chiến này liên tục thay đổi
khi có bằng chứng mới xuất hiện, đặc biệt từ phía bên kia.
Do không chú ý nhiều
về việc tìm hiểu động cơ của kẻ thù, các động lực bên trong và các mối quan hệ đối
ngoại, chúng ta luôn có một hình ảnh không đầy đủ và thiếu chính xác về cuộc
chiến tranh đó.
Người ta thường tin rằng miền Bắc Việt quyết
định đi đến chiến tranh trong năm 1959-1960 là để cứu cuộc nổi dậy ở miền Nam
khỏi bị diệt trừ và đảng Cộng sản có được sự ủng hộ không mệt mỏi của người dân
Việt Nam cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975.
Nhưng bằng chứng gần đây
tiết lộ rằng quyết định của đảng đi đến chiến tranh ở miền Nam Việt Nam có một
mối liên hệ mật thiết với các vấn đề ở trong nước.
Chiến tranh cách mạng là một
cách hiệu quả để đánh lạc hướng sự chú ý về các vấn đề trong nước, gồm một
chiến dịch cải cách ruộng đất tàn phá, một phong trào trí thức bất đồng ý kiến
và một kế hoạch của chính phủ không thành công để chuyển đổi nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
Cùng với một nhân vật là cánh tay phải của mình,
ông Lê Đức Thọ được coi như là một nhà ngoại giao cứng rắn bất khuất, người mà
sau này đấu khẩu với Henry A. Kissinger trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris,
ông Duẩn xây dựng một đế chế quân phiệt vững chắc, vẫn còn chi phối Hà Nội đến
ngày nay.
Các chính sách hiếu chiến của họ đã dẫn dắt Bắc Việt vào cuộc chiến
chống lại chế độ Sài Gòn và sau đó là Washing ton D. C. , với bảo đảm rằng một
nền hòa bình được thỏa thuận sẽ không bao giờ thay thế thắng lợi hoàn toàn. Ông
Duẩn thống trị đảng với một bàn tay sắt và xem ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, người nổi tiếng với việc đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ, là mối đe
dọa lớn nhất đối với quyền hành của ông ta. Ông ta loại bỏ ông Hồ, tướng Giáp
và những người ủng hộ họ khi quyết định gần như hầu hết các quyết định quan
trọng…”
Trong phần đầu, tác giả kể lại cuộc chia tay
giữa hai nhân vật trọng yếu của cuộc chiến Việt Nam là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
vào năm 1955 bên dòng sông Ông Đốc ở Cà Mau. Lê Duẩn thì ở lại miền Nam và Lê
Đức Thọ xuống tàu Liên Xô tập kết ra Bắc nhưng để rồi trong ít năm sau kéo dài
đến tàn cuộc, hai người đã cùng nhau lãnh đạo cuộc chiến và là một chìa khóa
chính yếu để giải quyết chiến tranh. Thời điểm năm 1955 vẫn còn trong hạn định
mà hòa ước Genève cho phép tự do lựa chọn nơi cư trú của cư dân hai miền.
Trong
lúc ở lại miền Nam, Lê Duẩn lập ra Trung Ương Cục miền Nam với những người đứng
đầu như Phạm Hùng, Nguyễn văn Linh, Võ Văn Kiệt sẽ lãnh đạo cuộc chiến trong
tương lai. Trở lại Hà Nội, Lê Duẩn quyết định phải thống nhất đất nước bằng võ
lực và tiến hành những nỗ lực sửa soạn cho chiến tranh. Nghị quyết 15 của đảng
Lao Đông Việt nam ( tức đảng Công sản VN) đã xác định rõ mục tiêu này.
Chiêu bài
“chống Mỹ cứu nước” được xử dụng và tất cả những người bất đồng ý kiến với chủ
trương trên bị thanh trừng triệt hạ. Hàng chục ngàn người kể cả những người có
công trạng hoặc nổi tiếng bị bắt giam, tra tấn do một chế độ công an trị thi
hành.
Những tướng tá và nhân vật thân cận với tướng Võ Nguyên Giáp bị giam cầm,
bị khai trừ khỏi đảng và nhiều khi bị thanh toán với những cái chết đầy bí ẩn.
Do đó, luận cứ cho rằng tất cả đảng Cộng sản một lòng đoàn kết trong chiến
tranh là một luận cứ không tưởng chẳng có một chút nào trong sự thực. Sự đoàn
kết chỉ có trong tuyên truyền và chế độ Cộng sản do Lê Duẫn lãnh đạo đã dùng sự
khủng bố để đàn áp và bắt buộc mọi người phải tuân theo bằng bạo lực.
Tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng viết “Hanoi’s War:
An International History of the War for Peace in Việt nam” (Chiến tranh của Hà
Nội: lịch sử quốc tế của cuộc chiến cho hòa bình ở Việt Nam) với chủ đích từ
những tài liệu văn kiện mới để có nhận định làm sáng tỏ hơn lịch sử của cuộc
chiến đã có quá nhiều hỏa mù che phủ từ những nhận định đầy tính chủ quan của
những người phân tích. Những tài liệu văn kiện mới mà tác giả đã xử dụng được
trong tác phẩm là tài liệu văn khố của bộ Ngoại Giao của chế độ Việt Nam Cộng
sản ở Hà Nội. Trả lời tại sao lại có được may mắn xử dụng những tài liệu trên,
tác giả trong cuộc phỏng vấn nói:
“Tôi có mặt đúng chỗ đúng lúc. Khi tôi bắt đầu
cuộc nghiên cứu trong những năm cuối của thập niên 1990 về cơ bản lúc đó cả văn
khố chủ yếu của Việt Nam là văn khố của đảng Cộng sản, văn khố của quân đội của
bộ Quốc Phòng, văn khố của bộ Ngoại Giao đều cấm không cho các học giả được
tham khảo, dù là người Việt Nam hay ngoại quốc.
Chỉ có các giới chức làm việc
trong các bộ liên hệ mới được tham khảo tài liệu. Nhưng tới những năm 2000 thì
đã có một số thay đổi về chính sách đối với người Việt ở hải ngoại. Việt Nam mở
cửa rộng hơn để đón các học gỉa từ các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Họ
muốn thu hút Việt kiều và tôi đã nắm ngay lấy cơ hội”.
Có nhiều người rất ngạc nhiên vì xử dụng được
những tài liệu trong văn khố thuộc hàng tối mật không phải là chuyện dễ dàng mà
bất cứ ai cũng có thể thực hiện được. Tác giả đã giải thích là có sự thuận lợi
bởi vì giới hữu trách Việt Nam coi thường công trình và khả năng của một sử gia
trẻ tuổi người Việt Nam lớn lên và sinh sống ở hải ngoại. Họ nghĩ, với một đề
tài có nhiều chất thách đố như chiến tranh Việt Nam có lẽ không thích hợp với
một người thuộc nữ giới…
Sử gia George C. Herring, tác giả của America’s
Longest War, The United States in Việt nam” đã nhận xét: ”Xử dụng những tài
liệu mới mẻ và quan trọng của những văn khố từ khắp thế giới, mà phần đông là
từ Việt Nam, Nguyễn Liên Hằng đã viết và tạo dựng được những điểm son đầu tiên
và xác thực của cuộc hòa đàm đã dẫn dắt đến Nghị Hội Paris. Tác phẩm Hanoi’s War
là một công trình đặc sắc, là những viên gạch xây dựng không thể bỏ qua cho sự
thay đổi tức thì của lịch sử của những xung đột ở Việt Nam”.
Tác gỉa đã phỏng vấn nhiều nhân vật Việt Nam ở
cả hai phe như Bùi Diễm, Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Hữu Ngọc, Lưu Doan Huỳnh,
Lưu Văn Lợi, Nguyễn Đình Ước, Nguyễn Khắc Huỳnh, Nguyễn Ngọc Dung, Trần Thị
Liên… để có thể xác định rõ ràng hơn tính chính xác của các tài liệu văn bản đã
xử dụng trong văn khố.
Căn bản của cuốn sách là những tìm kiếm sưu khảo từ hàng
ngàn tài liệu, công điện, sách báo và những phần thu thanh ghi lại những cuộc
phỏng vấn hàng trăm người có liên hệ đến cuộc chiến, phải nói là một dẫn chứng
đồ sộ có nhiều tính thuyết phục.
”Hanoi’s War” gồm 4 phần chia ra làm 8 chương
với nội dung:
Phần 1 là Con đường của cuộc chiến tranh cách mạng: Lê Duẩn nắm
quyền lực và chỉ đạo cuộc chiến cũng như hoạch định chính sách ngoại giao trong
thời gian chiến tranh;
Phần 2: phá vỡ những huyền thoại cũ và nêu lên cuộc
chiến tại Hà Nội tranh dành quyền lực mà rõ rệt nhất là trong thời kỳ Tổng Công
Kích tết Mậu Thân và thời kỳ của Hội nghị hòa bình Paris và cả thời gian sau
đó;
phần 3: Theo đuổi bản hòa âm chiến thắng với những hoạt cảnh từ chiến
trường đến bàn hội nghị cũng như cách thế vừa đánh vừa đàm của chế độ Hà Nội;
phần 4 : tạo thành một nền hòa bình què quặt với những nỗ lực chống lại khuynh
hướng chủ hòa trong nội bộ cũng như việc thúc đẩy cường độ chiến tranh để mưu tìm
một hòa bình của kẻ chiến thắng.
Nhân vật chính của “Hanoi’s War” và là nhân vật
chủ chốt là Lê Duẩn. Ông ta đã áp lực để làm cho Hồ Chí Minh phải ngưng lại ý
kiến không muốn thực hiện leo thang chiến tranh vào những năm 1963-1964 để tìm
một chiến thắng nhanh chóng trước khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp bằng quân sự
vào Việt Nam.
Năm 1967- 1968 ở Bắc Việt đã có một cuộc thanh trừng với quy mô
lớn nhằm vào những người phản đối chính sách của Lê Duẩn nhắm vào ông Hồ, tướng
Giáp và những người thân cận chống lại kế hoạch Tổng công Kích tết Mậu Thân.
Mặc dù cuộc chiến ở miền Nam lúc đầu đã tập họp được nhiều người miền Bắc để hỗ
trợ Đảng nhưng nó nhanh chóng trở thành một vũng lầy.
Ông Duẩn và ông Thọ phản
ứng bằng cách gán cho những người phản đối phương cách điều hành chiến tranh
tội phản quốc. Bằng cách tăng quyền hạn của lưc lượng an ninh nội bộ và an ninh
tư tưởng, và Hà Nội chinh phục cuộc chiến ở miền Nam với chiêu bài yêu nước, Lê
Duẩn đã có thể tiến hành một cuộc chiến tổng lực theo như đã hoạch định cho đến
năm chấm dứt chiến tranh năm 1975.
Hai nước lớn trong phe Cộng sản là Trung Quốc và
Liên Xô có những bất đồng sâu sắc cũng gây ra nhiều ảnh hưởng trong cuộc điều
hành chiến tranh của Lê Duẩn. Chính sách đu dây lúc đầu ngả theo Trung Quốc để
tiến tới một cuộc chiến tranh tổng lực và toàn diện nhưng lúc về sau khi quân
đội Mỹ tham chiến trực tiếp thì viện trợ của Liên Xô đổ vào Bắc Việt. Năm 1968,
sự tranh dành ảnh hưởng giữa hai nước này đã ở mức căng thẳng tột độ. Lê Duẩn
tung ra hai chiến dịch:
Tổng Công Kích tết Mậu Thân và chiến dịch Xuân
Hè năm 1972 mà cả hai Trung Quốc và Liên Xô không chấp thuận. Năm 1972, tổng
thống Richard Nixon đi thăm Trung Quốc và Liên Xô nên cả hai nước gây áp lực để
làm giảm bớt cường độ của trận chiến và kết thúc dựa trên các điều khoản của
Nixon khi họ tranh dành nhau những ân huệ của Washington. Lê Duẩn phát động hai
chiến dịch đẫm máu kể trên như một đòn tấn công chí mạng vào việc giảm bớt căng
thẳng giữa Hoa Kỳ và hai ngước Cộng sản đàn anh này.
Tác giả ”Hanoi’s War” cũng cho rằng chính Hoa Kỳ
tự đánh bại mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một huyền thoại. Bắc Việt
đã chủ ý gây chiến tranh và định hình được các hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam
cũng như trật tự cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới. Chính Lê Duẩn đã dồn hết
toàn lực cho chiến thắng trong năm 1964 khiến Hoa kỳ bị thúc đẩy can thiệp trực
tiếp vào chiến tranh. Không phải Bắc Việt là một đối thủ thụ động mà chính họ
đã gây ra cuộc chiến với sự chấp nhân hy sinh mọi thứ để đạt được chiến thắng.
Vai trò của Hoa Kỳ và đồng minh là Nam Việt Nam
đôi khi lỏng lẻo và mỗi phe vì lợi ích riêng của mình nên có những hành động
trái ngược nhau và bất lợi cho liên minh Washington DC – Sài Gòn. Làm chậm việc
rút quân Mỹ trong năm 1969 và phá tan các cuộc đàm phán hòa bình giữa ngoại
trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger và Lê Đức Thọ năm 1972-1973, các nhà lãnh đạo
miền Nam Việt Nam đã làm cho việc Mỹ rút khỏi Đông Nam Á phức tạp hơn nhiều.
Mặc dù Washington DC có những lý do riêng về địa điểm chiến lược và nội bộ để
can thiệp và ở lại Việt nam nhưng các nhà lãnh đạo hai phe Bắc và Nam Việt Nam
đã chi phối tính chất và tốc độ can thiệp của Hoa Kỳ.
Hanoi’s War là một cách nhìn lịch sử mới dựa
trên những tài liệu thu thập được từ văn khố của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng
sản. Trách nhiệm của cuộc chiến tổn hại trên 2 triệu sinh mạng người Việt là
trách nhiệm của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ với chủ trương hiếu chiến không chấp nhận
sống chung hòa bình với những người quốc gia. Giải pháp hòa bình bằng thương
thuyết cũng bị gạt bỏ và chủ trương trung lập chế cũng bị phê phán.
Chủ trương
duy ý chí này của Lê Duẩn cũng đã gây ra hai cuộc chiến tiếp theo sau năm 1975
với Trung Quốc năm 1979 và với Khờ me Đỏ năm 1980. Và cũng với đường lối ngoại
giao cứng rắn nên Việt Nam bị cả thế giới cô lập tạo nên một thời kỳ tệ mạt
nhất trong cả lịch sử dân tộc.
Nguyễn Mạnh Trinh
Mh
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết