Subject: QUỐC HẬN 30-4-1975 ....VIẾT
VỀ NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH
--
Kính Chuyển
MG
QUỐC
HẬN 30-4-1975
VIẾT VỀ NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH
MƯỜNG
GIANG
Hai
mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người gục ngã trước đạn thù và nửa
triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường.
Tuy nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi
người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của
Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch
sử của một quốc gia là những gì trung thực , mà người dân của nước đó đã ghi
chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy
ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại
Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người
Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền
vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế
chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg chỉ kết tội những Ðầu Sỏ trong phe
Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật..
Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử
hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường, để
lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại
VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là
thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản,
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ
thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt
là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn
50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại
công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên
cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh
quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người
lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để
bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt xâm
lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng sản khủng bố cướp bóc
giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có
bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách
trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm
bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán
Bộ Xã Hội.. mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm
giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong
thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới
thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn,
nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “ cảnh ba đồng, ba cộc “ của kiếp
lính Miền Nam.
Nhức nhối và mai mĩa nhất, đó là hiện tượng ‘ thuyền nhân tị nạn ‘
sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số
này không thiếu mặt “ những tên tuổi lớn “ một thời chạy theo VC đâm sau lưng
người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt đời chỉ biết
sống ký sinh vào xã hội.. cũng lợi dụng “ danh nghĩa người lính “ để được tị
nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người
vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ
diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng
hương, qua cái đòn “ nếu theo Ngụy “, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã
thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.
Trong
nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ
được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc
bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc
chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và
lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết
thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp
tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là bọn báo
chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có cơ
hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử,
để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc
đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã
đưa toàn bộ đảng cọng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử
lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu
chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn,vì không
thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đở đạn
cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã
rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngả ba Vườn
Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là
Eddie Asams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận
được giải thưởng quốc tế.
Sau
ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với
giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân
biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo,
đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền
nhưng bị thất bại .
Trước
và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm
xưa Eddic Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận
của mình, trong đó có đoạn “ Ông đã làm công việc cuủ ông, còn tôi làm bổn phận
của tôi “. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm môt bài báo khác đăng
trên tờ Times, đồng thời gới tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một
danh thiếp viết tay “ General, I ‘am so,so,so.. sorry “.Bao nhiêu đó, chắc cũng
đủ làm nhức óc những tên “ sống nhờ người tị nan “ nhưng lúc nào cũng viết
lách, làm báo ca tụng VC.
Ðau
đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SD Dù, TQLC,
Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BDQ có bị tổn thất nặng nề.
Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy
gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại
đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc
hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “ Tử thủ Căn Cứ Hỏa
Lực 30, Hạ Lào “ là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ&Tây
phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và
thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là
QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng
làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự
thật, nên chỉ đành “ chôm chĩa tin từ báo Mỹ “ rồi “ Mao Tôn Cương thành trận
đánh cuối cùng không có đại bàng “ rằng “ VC đâu có quân số đông đảo để đánh
QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo
cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy . Có đọc
những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam
đã đổ suốt cuộc chiến, để bảo vệ cho “ đám này “, thật là uổng phí và tội
nghiệp cho những kẽ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.
Nhưng
người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và
bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một
chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó
cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý
nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm
lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng
bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người
dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo
tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như
thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng
bào mình.
Trong
lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh
niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn,
kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên
đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn
khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để
dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận
mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng
lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn
nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng
còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho
đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói
nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng
đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng
của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật
chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xã
thân bảo vệ mạng sống thừa thải ký sinh của mình.
Ngày
nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng,
phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai
muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với
người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này
hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ
17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo
của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự
vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ
thuyết cọng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó,
lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính
bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH,
để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng
chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh
mạng ký sinh của chúng.
Cuối
cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn
xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác
nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quảng đời lưu
vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu
gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới
tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước
Cộng Sản, trong đó có CSVN.
Ngoại
trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp
Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt
tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “
Trại Cải Tạo “ để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến
tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở
Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm
trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn
vì sự hành hạ của quản giáo và nổi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu
thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp,
còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là
không còn bút mực nào để kể cho hết nổi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế
độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít,
ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào.. kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ
sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẳn bên cạnh :
‘
Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm
ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn
bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng
nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng
chống lại thì xác thân tan nát
thằng
bệnh đau thân xác cũng không còn
đem
xác người đi phá núi dời non
đem
mạng sống để gở mìn tháo đạn
thay
trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay
trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi
sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nữa
đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi
đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi
đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm
điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để
theo đảng biến người thành khỉ vượn .
(thơ
mường giang). ’ ’
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết ,
CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tư Sĩ của
VNCH, lại càng bị đoạ đày thê thảm.Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử
nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một
chứng tích nghìn đời không phai mờ : Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm
đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy
tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng
nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ
Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải
Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát,Trường Ðại Học Quân Sự.. chứ đâu
phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc ?!
Ngày
xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang,
giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
‘..xin
vì chàng, xếp bào cỡi giáp
xin
vì chàng giũ lớp phong sương
vì
chàng tay chuốc chén vàng
vì
chàng điểm phấn đeo hương não nùng.. ’ ’
(
Chinh Phụ Ngâm ố Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày
nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai
mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về
lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử
hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Ngày nay, đã có
không biết bao nhiêu người ,đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại,
mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính.
Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến
trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN ?
Xưa
NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những
người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng
đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG
được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê
người.
‘..tội
nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa
trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn
quân hùng liệt nay về đất
hồn
vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều
chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà
khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ
lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng
hoàng hoa, khép giữa hư vô ‘
(thơ
mường giang)
Xin
nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng
xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và
đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương
phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng
4-2013
MƯỜNG
GIANG
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết