" Khép Cửa Trăm Năm
" đến nay tròn trèm gần 130 năm, ấy vậy mà nội dung
bài tâm luận vẫn mãi mãi vung đầy giá trị ... Nhóm LTLN / Paris hân hạnh kính chuyển đến quý vị bài tâm luận nhân ngày 30.04 : "Khép Cửa Trăm Năm" của Tiên-sinh Hoàng Nguyên Nhuận . |
Khép Cửa Trăm Năm
Hoàng Nguyên Nhuận
1884-1984, khép cửa trăm năm
Tặng bác Mậu
Có mấy câu hỏi đến bây
giờ tôi vẩn chưa trả lời được: hỏi Trịnh-Nguyễn phân tranh có ai phải di cư ra
Bắc, có ai phải di tản vào Nam không? Sông Gianh có như vĩ tuyến thứ 17 từ năm
1954 đến 1975 không? Bờ biển ngày 26 có giống như các “bãi” của những người đi
“chui” sau 1975 đến nay không? Con dân của vua Lê chúa Trịnh có được vào Nam
thăm bà con, con dân của chúa Nguyễn có được về Bắc thăm ông bà cha mẹ không?
Những người từ Bắc trốn
vào Nam, hoặc từ Nam trốn ra Bắc có phải “tốn sáu cây” không? Hồi phân chia
Trịnh - Nguyễn, có ai phải chạy ra nước ngoài, ví dụ Lào, Thái Lan, Cao Miên,
Trung Hoa không? Và sau hết, khi Quang Trung dẹp vua Lê chúa Trịnh, bao nhiêu
người đã chạy ra nước ngoài, rồi bao nhiêu người đã theo quân Thanh trở về đánh
lại Nguyễn Tây Sơn?
Có gì khác nhau giữa
những đại cuộc này và đại cuộc 1954, 1975?
Một trăm lẻ một năm
trước đây, Pháp đã chia Việt Nam làm ba “nước”. Cochinchina nước thuộc địa,
Tonkin nước bảo hộ và Annam nước còn tự chủ trên danh nghĩa và vẫn còn là chư
hầu của Trung Hoa. Cái họa một cổ hai tròng ấy, một năm sau đó, Pháp đã dứt cho
Annam bằng Hiệp Ước Patenôtre 1884. Cái ấn bạc nhà Thanh trao cho Gia Long khi
phong vương đã bị khâm sứ Rheinard chính thức thủ tiêu trước sự chứng kiến của
quan lại nhà Nguyễn. Pháp đã toàn thắng, triều đình nhà Nguyễn Phúc thực tế cáo
chung chứ không phải đợi đến khi Bảo Đại thoái vị sau sáu mươi mốt năm sau đó.
1984 là đúng trăm năm từ
ngày đại cuộc đó xảy ra. Và rồi chuyện gì đã đến với dân tộc Việt Nam suốt trăm
năm đó?
Người Việt ở trong nước
cũng như đang nương thân xứ người thường thích các lễ kỷ niệm. Thế mà hai năm
nay, có những đại cuộc đáng kỷ niệm thì hình như mọi người đều quên. Năm ngoái,
kỷ niệm trăm năm hòa ước Quý Mùi 1883, và hai mươi năm cách mạng 1/11/1963.
Người ta đã quên hòa ước Quý Mùi năm ngoái, và hình như cũng đã quên hòa ước
Giáp Thân 1884 năm nay. Cuộc đô hộ bảy mươi năm của Pháp (1884-1954) và những
hệ lụy hiển nhiên của cuộc đô hộ này suốt trong hai mươi năm sau đó (1954-1975)
chẳng có gì đáng phải suy nghĩ, phải rút kinh nghiệm để làm bài học cho hiện
tại và tương lai?
Nhìn từ căn cơ, lịch sử
chỉ là những đại cuộc tái diễn mà sự khác biệt về thời gian, không gian, màu
sắc chính trị, xét cho cùng chỉ là những biến đổi tuỳ duyên, tùy y báo và cộng
nghiệp của hoàn cảnh, chánh báo và biệt nghiệp của những kẻ hữu trách chủ động.
Vô minh đời đời vẫn chỉ là một, lịch sử chỉ là sự toàn thắng vô minh, và thường
khi, chỉ là sự toàn thắng của vô minh.
Năm 1965, chính quyền
của Tổng Thống Johnson đã theo chân của Đại Úy John Percival, hạm trưởng chiếc
USS. Constitution một trăm hai mươi năm trước đó đổ thủy quân lục chiến xuống
Chu Lai. Chúng tôi được mời tham dự lễ choàng vòng hoa đón tiếp nhưng không đi.
Tướng Nguyễn văn Chuân, Tư Lệnh Khu XI Chiến Thuật hơi buồn chuyện đó nhưng
không nói gì. Chính quyền Mỹ cũng phiền chuyện đó, nhưng đã cố căn vặn. Thành
thật nghĩ sao nói vậy, tôi đã trả lời họ rằng trên đại thể của chiến lược domino,
bận tâm chính của Hoa Kỳ là Trung Hoa, chứ không phải là Việt Nam. Sài Gòn chỉ
là cái cầu cho Hoa Kỳ “đi” Bắc Kinh qua ngã Hà Nội. Nếu Hoa Kỳ muốn đánh Trung Hoa
như ở Cao Ly mười lăm năm trước đó, tôi sẵn sàng theo Thủy Quân Lục Chiến như
một tên lính đánh thuê. Nếu Hoa Kỳ đổ quân mà không làm chuyện đó tôi sẽ chống.
Tại sao?
Năm 1945, người Pháp trở
lại Bắc Việt, đơn phương chống Việt Minh theo quan niệm của họ nên chín năm sau
đó nửa nước lọt vào tay cộng sản. Bây giờ Hoa Kỳ cũng tái diễn hành động của
Pháp, bao lâu thì nửa còn lại sẽ mất? Đổ quân mà không giải quyết vấn đề tận
gốc thì trước sau cũng phải thương thuyết để rút. Pháp đã thương thuyết để rút
với cái giá nửa nước Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ thương thuyết để rút với cái giá của
những gì còn lại?
Sợ mà vẫn không thoát.
Người Mỹ không chiến thắng và người Việt phải di tản. Thời gian cũng khoảng 9
năm: 1963-1972. Phải, cũng xấp xỉ chín năm tròn. Bởi lý, tuy Hiệp Định Paris ký
kết năm 1973, và 1975 thì miền Nam mới sụp đổ, nhưng thực tế mọi chuyện đã được
quyết định, ít ra cũng là trong ngày 21/10/1972, khi Kissinger gặp Thiệu-Nhã ép
buộc cả hai phải chấp nhận những điều khoản của hiệp định Paris, và ngày hôm sau
Nixon dọa cúp viện trợ và sẽ không ủng hộ Thiệu nữa. Chính phủ Hoa Kỳ đã làm
hết cách để Hiệp Định Paris được ký kết, bởi Hoa Kỳ không thua trận Điện Biên
Phủ ở Việt Nam như Pháp chín năm trước, nhưng Nixon thì lại đang bị vây
khổn trong một trận Điện Biên Phủ ngay tại nước Mỹ: “trận” Watergate.
Năm 1954, khoảng một
triệu người phải di tản. Năm 1975 con số cũng tương tự. Hết chạy nạn Sơn Tinh
đến chạy nạn Thủy Tinh, hết ách Thủy Tinh lại đến ách Sơn Tinh. Có những người
chạy vì đã cộng tác với Pháp với Mỹ, tôi thì trong ba chế độ đệ nhất, đệ nhị
Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đều bị nằm nhà mát, tôi cũng phải chạy
luôn. Bởi tôi không thích đế quốc, trắng hay đỏ thì cũng là đế quốc, bởi tôi
chỉ muốn làm người Việt Nam, bởi tôi lo sợ sự đau khổ lo buồn của những người
thân yêu sẽ lớn hơn gấp bội những đau khổ của riêng tôi...
Ngày xưa cha ông chúng
ta đánh nhau với Tàu, với Pháp, với Nhật chỉ vì độc lập tự chủ, chỉ vì nước Nam
phải là của người Việt Nam. Ý niệm yêu nước đó còn mãi ít ra cũng cho đến thời
Văn Thân, Cần Vương. Cái lợi của đường lối yêu nước này là khả dĩ kết hợp mọi
dị biệt cá nhân để lo chống ngoại xâm trước đã, nhưng lại hại ở chỗ chỉ biết
quay về quá khứ, hoặc bám lấy hiện tại. Phan bội Châu bảo hoàng, Phan chu Trinh
quân chủ lập hiến, Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh đề huề hợp tác, Trần trọng Kim
dựa vào Nhật, những người kế nghiệp Nguyễn thái Học trông vào Tưởng giới Thạch,
Lư Hán... Ngày xưa Văn Thân, Cần Vương trông cậy vào ngọn giáo, súng hỏa mai và
lòng dân bất khuất, ngày nay người ta chỉ trông cậy vào ngòi bút và tầng lớp có
đầu óc ở thành thị và nghĩ rằng độc lập tự chủ có thể thâu hồi dần dần bằng
thương thuyết và bằng sự giác ngộ của thực dân.
Gandhi lấy máy kéo sợi
cá nhân làm súng, kinh cầu nguyện bất bạo động làm đạn để võ trang dân Ấn, và
Gandhi thành công. Bởi thực dân Anh ở Ấn Độ không giống như thực dân Pháp ở
Việt Nam, bởi truyền thống và chủ lực đấu tranh của dân Việt không giống dân
Ấn. Rắn phải có đầu, phong trào phải có lãnh đạo. Lãnh đạo các phong trào yêu
nước Việt Nam là kẻ sĩ. Pháp đã lần lượt phá hoại và làm ung thối giới sĩ phu
Việt Nam bằng nhiều biện pháp như dẹp các khoa thi khiến cho kẻ sĩ chỉ còn là
hàn nho thầy đồ, biến quốc ngữ thành văn tự chính thức, nhưng không phát
triển giáo dục căn bản khiến cho đa số dân chúng trở thành thất học mù chữ, bạc
đãi những kẻ sĩ khuất thân cộng tác: lương một viên chức cao cấp người Việt
không bằng lương một tùy phái người Pháp, kềm kẹp và đàn áp khốc liệt những
phong trào yêu nước không cộng sản, khiến cho phe này suy tàn và mở đường cho
sự thắng lợi của cộng sản trong sự tranh giành quyền lành đạo kháng chiến về
sau. Hậu quả là đến khi cần thỏa hiệp với phe không cộng sản thì không còn có
người nữa. Thủ Tướng Nguyễn văn Xuân, vị Thủ Tướng “quốc gia” đầu tiên sau Hiệp
Định Hạ Long 1948, là một dân Tây, đi lính Tây, sống ở Pháp, không nói thạo
tiếng Việt; Trần văn Hữu đại điền chủ dân Tây; Nguyễn văn Tâm, hùm xám Cai Lậy
khát máu, cầm đầu một chính phủ mà lãnh sự Mỹ ở Hà Nội hồi năm 1952 đã báo cáo
là một bọn “cơ hội chủ nghĩa, bất lực, cực kỳ phản động, sát nhân, đánh thuê
chém mướn chính trị và sau hết, một đám đớn hèn...” Và đến lúc cấp bách, người
Pháp đã phải chọn kẻ thù làm đồng minh đó là Ngô đình Diệm, người đã đào huyệt
chôn nền đô hộ của Pháp tại miền Nam.
Sĩ đã vậy,
nông-công-thương cũng chẳng hơn gì. Ruộng đất bị tước đoạt. Các đồn điền hầm mỏ
nhà máy của Pháp được mở ra để sản xuất một lớp nông công ngày càng đông, càng
khốn cùng. Chính sách độc quyền kinh tế, biến nền thương mại bản xứ thành giới
bán hàng rong, bán lẻ. Xã hội Việt Nam không chỉ như rắn không đầu bần hàn
nghèo khổ vì chính sách bóc lột của thực dân mà còn trở thành sa đọa nữa. Nghề
điếm thuốc phiện rượu chè cờ bạc được khuyến khích phát triển mà vềt tích khổng
lồ cuối cùng là Kim Chung - Đại Thế Giới ở Sài Gòn.
Bằng chính sách đô hộ
thực dân đó, người Pháp đã dần dần thay đổi ý nghĩa của mấy chữ kháng chiến,
cách mạng theo ý nghĩa truyền thống. Cách mạng là “dứt mệnh trời”, chấm dứt một
quân quyền, một triều đại không còn thuận lòng dân. Kháng chiến là chống kẻ
ngoại xâm phục hồi tự chủ. Cách mạng là làm cho vua phải ra vua, kháng chiến là
thu hồi cái “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Ý nghĩa truyền thống của cách mạng,
kháng chiến do đó đã hàm ẩn ý nghĩa cái cũ là cái chính đáng cái tốt. Nhưng
trong hoàn cảnh đô hộ của Pháp, cái cũ không còn chính đáng nữa, không còn tốt nữa.
Kháng chiến không còn là để khôi phục vương quyền cho nhà Nguyễn, cách mạng
không còn chỉ là chấm dứt chế độ thực dân. Kháng chiến, cách mạng giờ đây bao
hàm ý nghĩa dứt đi đuổi đi rồi xây dựng lại một xã hội đã bị thực dân làm cho
suy tàn, kết hợp lại một dân tộc đã bị thực dân cắt lìa từng đoạn, xắn ra từng
phần. Chính những ý nghĩa mới này đã mở đường cho những xâm nhập và tranh chấp
ý thức hệ trong hàng ngũ kẻ sĩ Việt Nam, và đồng thời mở đường cho những thao
túng của quyền lực quốc tế mà đế quốc muốn tránh vì đã thấy rõ cái hại trực
tiếp đối đầu nhau qua hai cuộc đại chiến 1914-1918, 1939-1945 và chiến tranh
Cao Ly 1950.
Với người Việt Nam, các
phe nhóm chống nhau vì dị biệt ý thức hệ cũng chẳng khác gì Mỵ Châu ngồi sau
cha mà rắc lông ngỗng cho kẻ thù tìm hại cha. Kháng chiến cách mạng giải phóng
cũng vì ý thức hệ mà biến tướng, đấu tranh yêu nước biến thành chiến tranh ủy
nhiệm. Người Việt Nam đánh nhau không còn như hồi Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn nhưng là
những tên lính tiền phương của thế giới tự do, của khối xã hội chủ nghĩa. Hỏa
lực khác nhau và mãi lực cũng khác nhau. Những đồng rouble, đồng quan
trên tay một người Việt này có khác gì một đồng franc, đồng dollar trên
tay người Việt khác? Khẩu M.16 khác gì khẩu AK.47, chiếc T.54 khác gì chiếc
M.48, MIG khác gì F.5E? Và đã hẳn, những người sản xuất ra các thứ đó chẳng bao
giờ chịu cho không cả, dù đôi khi cho không cũng đã lợi cho họ rồi. Và người
Việt đã phải trả bằng giá nào? 3.500.000 người chết và bị tàn tật. 6.300.000
tấn bom thả xuống trên toàn cõi Việt Nam, tính đổ đồng cứ 1 cây số vuông nhận
được 31.000 tấn bom, và mỗi người nhận được 122 kí. Riêng miền Nam có 826.000
trẻ mồ côi và 103.000 góa phụ và 24.000.000 hố bom, 2.600.000 mẫu tây bị khai
quang, nghĩa là một thời gian dài không còn cày cấy trồng trọt được. Và cũng
riêng tại miền Nam, cứ 3 người thì có 1 người, ít ra cũng một lần, bỏ nhà bỏ
cửa mà tránh bom tránh đạn. Đó là chưa kể số đạn, mìn, hỏa tiễn do Nga, Trung
Hoa và các nước khác trong Khối Xã Hội Chủ Nghĩa đưa cho mà xài.
Người Việt Nam chịu đựng
chiến tranh, người Việt Nam chấp nhận chiến tranh? Nếu cứ tính đổ đồng đời
người là sáu mươi năm thì mỗi người Việt sống còn đến hômnay đã chấp nhận và
chịu đựng chiến tranh hơn nửa đời mình vậy. Để làm gì?
Giới lãnh đạo thuộc khối
này, chủ nghĩa nọ có thể sai lầm, cá nhân mỗi người có thể sai lầm, nhưng cả
dân tộc có thể sai lầm, và sai lầm lâu dài như vậy sao? Người Việt chẳng lẽ đã
sai lầm khi chống Tàu, chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ và chống cộng sản sao?
Hồn thiêng sông núi, anh linh giống nòi phảng phất trong mỗi người chẳng lẽ đã
sai lầm sao?
Trong nhãn quan vô
thường, đời là bể khổ, cội nguồn của khổ là vô minh, là dục. Đã hẳn. Nhưng đời
Việt Nam, nổi khổ Việt Nam, hẳn phải có sắc tướng riêng, và do đó hẳn phải có phương
tiện riêng để làm vơi bớt nổi khổ đó, để hóa giải nổi khổ đó, hầu tạo được
một khung cảnh bình thường cho mỗi người có thể tự lo lấy phần riêng mà đi trọn
đường trần. Phương tiện riêng, phương tiện đặc thù Việt Nam ấy là gì?
Lịch sử Việt Nam từ ngày
lập quốc đến nay, từ trăm năm nay là mỗi chuỗi dài những cố gắng vẫy vùng để
trả lời câu hỏi đó. Dân tộc Việt Nam tồn tại với câu hỏi đó, để trả lời câu hỏi
đó. Các chế độ, các hiện tướng thế trị, các nhà lãnh đạo xét cho cùng cũng chỉ
như những bảng chỉ dẫn lưu thông, như đèn xanh đèn đỏ ở ngã tư đường. Bởi nghĩ
như vậy, nên khi người cộng sản Việt Nam nói “Chủ nghĩa Mác Lê Nin vô địch muôn
năm” hoặc “vô sản chuyên chính” tôi đã buồn tự hỏi có lý do nào bảng hiệu chỉ
dẫn lưu thông lại biến thành người cảnh sát, và người cảnh sát lại kiêm luôn
hành động chuyển dịch của khách qua đường? Và chẳng lẽ “giải phóng dân tộc” rồi
biến cả dân tộc thành nô lệ cho một chế độ độc đảng?
Dân Việt Nam đã làm
những điều xưa nay chưa làm được: đánh thắng Mông Cổ để giữ được Trung Hoa
không xâm phạm bờ cõi, đuổi được người Pháp khỏi cả hai miền Bắc Nam, đương cự
lại Hoa Kỳ. Chẳng lẽ dân tộc Việt Nam lại sẽ làm được những điều chưa ai làm
được và ai cũng ngán sợ: thành tựu cái thế giới “1984”?
Chuyện trăm năm vẫn còn
nhiều điều phải học vậy.
Mùa
xuân Ất Sửu 1985
Hoàng Nguyên Nhuận
Hoàng Nguyên Nhuận
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết