KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)
MUON CHONG TAU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)
MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)
Tấc
Đất Tấc Vàng
GS
Trần Lam Giang
Bóng đen bi
đát đè nặng lên cuộc sống của dân tộc ta từ hơn một thế kỷ nay. Đôi lần cũng
chập chờn le lói ánh độc lập tự do giả định qua những giấc nằm mơ ngắn ngủi.
Từ sau 30
tháng tư năm 1975, dân quyền mất hết, không còn mảy may. 90 triệu đồng bào sống
đời chông chênh bất an trên chính quê hương mình. Chông chênh chẳng phải vì
nghèo, cũng chẳng phải vì thiên tai. Chỉ vì ách nước : quốc dân bị quản trị bởi
chính sách ngược nhân tính, phản nhân tình.
Hiện nay,
dân tộc ta lâm vào hoàn cảnh kinh tế nghèo nàn, khoa học lạc hậu. Nhược điểm này
dễ bị nước giầu mạnh đem đồng tiền nổi lung lạc, áp chế. Vị trí nước ta thuận tiện
cho việc lưu thông quốc tế, tài nguyên thiên nhiên nước ta phong phú trinh nguyên,
công nhân nước ta đông đảo, thông minh và cần mẫn. Phong cảnh nước ta đẹp vượt
bực. Những ưu điểm này kích thích lòng tham chiếm đoạt của các cường quốc. Sự
hiện diện với cách thế thăm dò, dòm ngó đã không che dấu được ỳ đồ trục lợi bất
chính của ngoại nhân.
Trang sử
vong quốc hé mở thêm một lần, nếu người Việt không kịp thời phản tỉnh nhận lãnh
trách nhiệm và thi hành bổn phận giữ gìn non nước.
Cộng sản
Việt Nam tự biết thân phận không thể tồn tại lâu dài đã đối ngoại một cách đê
hèn và khiếp nhược : cắt đất dâng cho cộng sản Tầu để tìm nơi nương tựa.
Nhìn vào
lịch sử, không phải chỉ để ngậm ngùi tưởng tiếc.
“Anh em ta thử nghĩ : trên dưới
bốn ngàn năm, trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao dây máu hột mủ, tuôn đổ ra
cung cấp cho nước đó, có một giọt nào không phải của dân ta đâu ? Biết bao lũ
trước đàn sau, dắt dìu nhau mà kinh dinh cho nước đó, có một người nào mà không
phải dân ta đâu ?” (Phan Bội Châu – Cao Đẳng Quốc Dân).
Vậy nên
người Việt Nam ta yêu quý non nước, yêu hơn mạng sống của chính mình. Đất đai
quê hương đối với dân tộc Việt, không phải chỉ để trục lợi mưu sinh, mà là nơi
cư ngụ thiết tha gắn bó, nối kết nghĩa tình với quá khứ và tương lai. Với cha
ông tiên tổ tự ngàn xưa, với cháu con dòng giống mãi mãi ngàn sau – Đất nước ta
là của ta, tuyệt đối của dân ta. Xương máu ông cha ta đã làm nên đất ấy, không
thể nhường cho bất cứ ngoại nhân nào được hết. Mạng sống có thể nhường, đất nước
tuyệt đối không. Quyền lợi có thể nhường, đất nước tuyệg đối không.
“Nước là mẹ
ta, ta là con nước,
Thân con có
phước, nhờ mẹ lâu dài
Mẹ mất con
coi, còn gì thân thế !...”
(Phan Bội
Châu – Định nghĩa Ái Quốc)
Còn gì ngược
nhân tính cho bằng hành vi đem mẹ mình mà cho người khác như Cộng sản Việt Nam
đã cắt một phần đất địa đầu xung yếu ở tỉnh Lạng Sơn cho Cộng sản Tầu. Với
những luận cứ viển vông, những chứng cớ vu vơ, với tình hữu nghị cùng con chó
dại, bọn chúng chối tội một cách vô liêm sỷ.
Dưới đây
chúng tôi đóng góp một số tài liệu lịch sử về tỉnh Lạng Sơn, phần đất tổ, hiển
nhiên trong lịch sử, trong văn học thành văn cũng như trong văn học dân gian
truyền khẩu. Đồng thời cũng đưa ra những điều viết về Lạng Sơn nơi sách sử Tầu,
để thấy rõ dã tâm xâm lược của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt.
Lạng Sơn trong sử sách nước
ta
Dư Địa chí, sách do
Nguyễn Trãi tham khảo và biên soạn, được các triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn coi
là quốc thư bảo huấn đại toàn, có ghi :
“Sông Khưu Lư, tức Kỳ Lừa, ở phía
bắc Quế Thành, xưa là Ôn Khưu Thông Lĩnh Giang. Vọng Phu là tên núi ở phía tây thành
Lạng. Trên núi đứng sừng sững một tảng đá, xa trông như hình người, lưng tựa
phía nam, mặt hướng phía bắc. Tục truyền, xưa có truyền lại rằng: người đất Nam
Sách tên là Đậu Thao, một vị tướng quân của Tiền Ngô Vương, dẫn quân chống giữ
mặt bắc. Vợ họ Tô tên là Huệ, thủ tiết 10 năm, dệt gấm hồi văn gửi cho chồng. Sau,
cùng người nhà lên núi Lạng Sơn ngóng trông chồng không thấy. Chết, thân xác
hóa đá, nhân đó đặt tên núi là Vọng Phu.”
“Lạng Sơn xưa là bộ Lục Hải, tây nam
giáp Thái Nguyên, đông bắc giáp Lưỡng Quảng. Lộ này có một phủ, gồm 7 châu, 227
xã – Lộ Lạng Sơn là phên giậu thứ ba ở phía bắc nước ta”
Nguyễn Thiên Tích, bậc
đại-khoa danh nho đồng thời Nguyễn Trãi, kính cẩn xét :
“Phủ Trường Khánh có 7 châu, 193 xã.
Châu Lộc Bình có 39 xã, 21 thôn, tiếp giáp với huyện Tư Minh, tỉnh Quảng Tây.
Châu Thoát Lãng, xưa chính là Thoát Lạc, có 20 xã. An Châu có 30 xã, 100 trại,
10 bãi sông. Châu Văn Uyên (xưa tên là Văn Châu) có 41 xã. Châu An Lan có 31 xã, 1
thôn, 1 trang. Chấu Thất Nguyên (nhà Mạc đổi thành Thất Tuyên) có 34 xã.
Châu An Bác có 38 xã”.
Phụ lục :
“Họ Hồ cướp ngôi nhà Trần. Người nhà
Minh nhân cơ hội tràn đến châu Lộc Bình đạo Lạng Sơn. Triều đình nhà Hồ sai Hoàng
Hối Khanh làm Cát địa sứ (sứ thần cắt đất) lấy Lộc Bình, Cổ Lâu, gồm 38 xã 59
thôn cho giặc Minh. Đất bị mất rộng đến 5 ngày đường.”
“Lạng Sơn đất đen, ruộng rất xấu. An
Bác sản xuất gấm đẹp, lụa là, vải lĩnh và các hương vị. An Châu sản xuất sơn dược
(củ mài ?). Thất Nguyên có vàng và chì. Văn Uyển có đồng và bạc. Tư Minh thường
đem gấm tây-cẩm cùng trầm hương sang cống hiến ta.
“Tư Minh là tên một huyện thuộc tỉnh
Quảng Tây thời Minh, ở sát liền nước ta. Thổ quan Tư Minh thường cùng người bản
xứ sang nước ta cống hiến”.
Đại Việt Sử Lược cũng gọi là
Việt Sử Lược, do một sử gia ẩn danh đời Trần biên soạn hoàn tất dưới triều vua
Trần Phế Đế, niên hiệu Xương Phú thứ I (1377), có ghi :
“Quan Thái-thường bác-sĩ nhà Tống là
Hầu Nhân Bảo xin đem quân xâm chiếm nước ta. Tống đế phong Hầu Nhân Bảo làm Giao
Châu lộ chuyển vận sứ, tiến binh vào nước ta. Bấy giờ ở Lạng Châu (tức Lạng
Sơn) nghe tin quân Tống s ắp đến, làm tấu trạng tâu lên triều đình”
“Trận này, vua Lê Đại Hành chém Hầu Nhân
Bảo ở Chi Lăng, thuộc Lạng Sơn”
(Việt Sử Lược, quyển nhất, Lê Kỷ)
Đoạn sử trên
là chứng tích cho thấy Lạng Sơn từ xưa đã là trấn địa trọng yếu của nước ta.
Các bộ chính
sử nước ta như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới
triều vua Lê Thánh Tông, hoàn tất năm Hồng Đức thứ 10 (1479), Đại Việt Sử Ký
Tiến Biên do sử gia danh nho Ngô Thời Sĩ biên soạn, con là Ngô Thời Nhậm bổ
túc, được in dưới triếu vua Quang Toản, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục do Phan Thanh Giản làm Tổng Tài cùng 45 sử thân biên soạn dưới triều
Nguyễn, ghi lại rất nhiều sử kiện, sử tích cho thấy một cách minh bạch rằng Lạng
Sơn là phần đất của Tổ Quốc ta. Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn một
vài đoạn :
Ø
Năm Canh Tý (Tây lịch năm 40), Trưng Nữ Vương đau lòng trước việc Tô
Định dùng bạo chính trói buộc quốc dân, lại thù Tô Định giết chồng, bèn dấy
nghĩa ở huyện Mê Linh, châu Phong đánh đuổi Tô Định. Định thua chạy theo ngả
Lạng Châu (Lạng Sơn) về Tầu.
Ø
Năm Tân Tỵ, mùa xuân tháng 3 (981) nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân
sang đánh nước ta. Vua Đại Hành đánh tan quân giặc ở Chi Lăng (thuộc Lạng
Sơn), quân giặc sống sót, chạy qua châu Văn Uyên (thuộc Lạng Sơn) mà
về nước,
Ø
Năm Canh Tý, Lý Thánh Tông niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 2 (1060).
Châu Mục Lạng Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiện Thái tiến quân qua đất Tống
bắt sống Chỉ huy sứ nhà Tống là Dương Bảo Tài, đem về nước.
Mùa thu tháng 7 năm ấy, nhà Tống cất
quân xâm chiếm, bị chận đánh ở Lạng Châu (Lạng Sơn), quân Tống phải lui.
Ø
Năm Giáp Thân, mùa đông tháng Chạp (1284), Thoát Hoan kéo quân qua Pha
Lũy Quan (tức Nam Quan, Đồng Đăng, Lạng Sơn) tiến vào thôn Ma Lục bị hai
thổ hào là Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh chận đánh.
Ø
Năm Ất Dậu, mùa hạ tháng 6 (1285) Trấn Nam Vương Thoát Hoan (Thái tử nhà
Nguyên) phải chui vào ống đồng, cho quân khiêng chạy thoát qua Pha Lũy Quan
(Nam Quan, Lạng Sơn) mà chạy về nước.
Ø
Năm Đnh Mùi, mùa thu tháng 9 (1427) Liễu Thăng kéo quân vào nước ta.
Bình Định Vương sai các tướng Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Hiệp, Đinh Liệt, Lê Thụ
mai phục ở Chi Lăng (thuộc Lạng Sơn) đón đánh. Tướng Trần Lựu dẫn quân
đến Pha Lũy Quan (Nam Quan – Đồng Đăng - Lạng Sơn) dụ địch. Trần Lựu giả
thua, Liễu Thăng đuổi theo, đến Chi Lăng, bị phục binh vây đánh, quân Minh đè
lên nhau mà chết. Liễu Thăng bị chém ở Đảo Mã Pha, ven núi Mã Yên.
Cũng năm ấy (Đinh Mùi – 1427) bọn
Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng quẫn, kéo quân chạy về nước, đến Mã Yên, Chi Lăng,
Pha Lũy Quan (Nam Quan, Lạng Sơn) bị các tướng Lê Vấn, Lê Khôi bắt sống
cùng hàng vạn tù binh.
Ø
Năm Mậu Thân, mùa đông tháng 10 (1788) Tôn Sĩ Nghị Tổng Đốc Lưỡng Quảng
nhà Thanh và Đề Đốc Hứa Thế Hanh theo ngả Nam Quan (Lạng Sơn) tiến quân
vào nước ta.
Năm Kỷ Dậu, mùa xuân tháng Giêng
(1789) Hoàng Đế Quang Trung trong 10 ngày quét sạch quân Thanh ra khỏi cõi bờ.
Phương Đình Dư Địa Chí do Nguyễn
Văn Siêu biên soạn. Ông là bậc danh nho thời Nguyễn triều, bạn thân của Cao Bá
Quát. Vua Tự Đức đã ngợi khen tài văn học của ông qua câu “Văn như Siêu,
Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường.” Dân gian cũng thường
nhắc nhở câu “Thần Siêu, Thánh Quát”. Như vậy, sách Dư Địa Chí của ông
hẳn phải có giá trị đáng tin cậy.
Nơi sách này, lịch sử tỉnh Lạng Sơn
của nước ta được trình bày trang trọng. Ông Phương Đình Nguyễn Văn Siêu ghi
rằng :
Ø
“Lạng Sơn xưa là bộ Lục Hải (thấy trong Ức Trai Địa Chí). Thời Hán
thuộc là Giao Chỉ. Thời Đường thuộc là Giao Châu. Nhà Đinh chia làm đạo, nhà
Lê, nhà Lý là lộ, đầu nhà Trần là Lạng Giang trấn. Năm thứ 9 niên hiệu Quang
Thái (niên hiệu vua Trần Thuận Tông) nhà Minh sang sứ sang bàn về cương
giới châu Tư Minh, mãi không xong, việc dần thôi.”
Ø
“Năm đầu niên hiệu Thuận Thiên nhà Lê (Thuận Thiên là niên hiệu của Lê
Thái Tổ - Lê Lợi) Lạng Sơn thuộc vào Bắc Đạo. Năm thứ 10 niên hiệu
Quang Thuận đạt Lạng Sơn thừa tuyên gồm 1 phủ và 7 châu”.
Ø
Khoảng niên hiệu Gia Long gọi là Lạng Sơn trấn gồm một phủ, bảy châu.
Ø
Năm thứ 12 niên hiệu Minh Mạng gọi là Lạng Sơn tỉnh.
Ø
Năm thứ 14 niên hiệu Minh Mạng, thổ phỉ Bế Văn cận vây bức thành Lạng.
Quan Án Sát Trần Huy Phác đem quân dân trong thành chống giữ hơn một tháng, có
đại quân tiếp viện, đảng giặc tan vỡ, vây mới giải. Năm thứ 15 đổi ba châu
An Bác, Văn Quan, Thất Tuyên làm huyện. Năm thứ 16 đặt thêm phủ Tràng
Định. Năm thứ 17 đắp thêm thành Thổ Sơn.
Ø
Thành Lạng Sơn xưa gọi là Đoàn Thành. Năm thứ 24 niên hiệu Hồng Đức nhà Lê
xây đắp lại. Năm Mậu Dần niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê, quan Đốc trấn Lạng là
Hương Lĩnh Hầu Mai thế Truẩn lại đắp thêm, chu vị rộng 577 trượng, có văn bia
nay còn ở cửa Bắc thành. Góc tây nam thành có một núi đất gọi là Thổ Sơn đồn,
một tên nữa gọi là Lộc Mã doanh. Năm Minh Mạng thứ 17 lại xây đắp vệ
thành, chu vi 129 trượng 9 tấc.
Năm Tự Đức thứ 14 sát nhập huyện Yên
Bác vào châu Thoát Lãng.
Núi Công Mẫu ở châu Lộc Bình, thế
núi cao ngất, quanh vòng 500 dặm là một danh sơn của tỉnh Lạng.
Sông có sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ
châu Tiên Yên tỉnh Quảng Yên, chảy qua phía tây bắc tỉnh thành (Lạng Sơn), chảy
quanh đến giang phận Long Châu nước Trung Hoa. Ở giang phận biên giới này, ta
có đặt một cửa ải là ải Binh Nhi (đề cao cảnh giác việc binh lửa).
Cửa quan có ải Nam Quan ở địa phận
hai xã Đồng Đăng và Bảo Lâm, thuộc huyên Văn Uyên. Phía bắc giáp biên giới châu
Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung quốc. Hai bên tả hữu của ải có núi đá cao ngất
trời, ở giữa có cửa quan, thường trực khóa kỹ, chỉ mở khi có việc sứ, tên là
Nam Quan, một tên là Đại Nam Quan, một tên là Trấn Di Quan.
Những dữ kiện lịch sử địa lý trích
dẫn từ các sách sử trên đây không ngoài mục đích minh trưng thành Lạng vốn tự
nghìn xưa là của nước ta, đời đời dân ta làm chủ thành này. Qua các thời đại
phế hưng, các triều đại vua ta nắm quyền sửa đổi, tô điểm đắp xây, tổ chức phân
chia phủ huyện châu xã. Nếu không phải đất của ta, sao lại có quyền ấy, sao lại
đổ công ấy ?
Lạng Sơn qua sách sử Tầu
Minh sử ghi : Năm thứ
29 niên hiệu Hồng Võ (Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương), Tổ tư-phủ Tư-Minh là
Hoàng Quảng Thành tâu rẳng : “phủ ấy từ nhà Nguyên đặt lộ Tư Minh, châu,
huyện, động, trại trong hạt, phía đông đến châu Thượng Tư, phía nam đến Đồng
Trụ. Quân nhà Nguyên tiến đánh nước Giao Chỉ, cách Đồng Trụ 100 dặm đặt trại
Vĩnh Bình để đóng quân. Lại bắt người Giao Chỉ phải cung ứng quân lương. Cuối
nhà Nguyên rối loạn, người Giao Chỉ đem quân đánh phá trại Vĩnh Bình, vượt qua
Đồng Trụ hơn 300 dặm, xâm chiếm nhiều đất thuộc lộ Tư Minh, như 5 huyện Khâu
Ôn, Như Ngạo, Khánh Viễn, Uyên Thoát … bắt dân làng theo. Lại nữa, Đồng Đăng
thực là đất của Tư Minh mà người Giao Chỉ nói là Đồng Trụ dựng ở nơi ấy. Xin
ban sắc cho An Nam phải giả lại đất cũ để bờ cõi được đúng.” Vua Minh Thái
Tổ bèn sai chức Hành Nhân là Trần Thành Lã Nhượng sang dụ. Bàn cãi đi lại, mãi
vẫn không quyết, việc dần phải thôi (Ngô Mạnh Nghinh dịch).
Đại Thanh Nhất Thống Chí chép vể bảy
châu của phủ Lạng Sơn là : “Thượng Văn, Hạ Văn, Thất Nguyên, Văn Nhai, Quảng
Nguyên, Thượng Tư và Hạ Tư. 5 huyện là : Khâu Ôn, Trấn Di, Ôn Huyện, Đan Ba,
Thoát Huyện.” (Ngô Mạnh Nghinh dịch)
Sách Việt Thuật nói : “Xưa
có Lộc Châu thuộc phủ Tư Minh, sau mất vào nước Giao Chỉ. Gần đây xét rõ, phục
lại như cũ, nay thưộc huyện Tây Lâm, phủ Tây Long, đó là huyện mới đặt”
(Ngô Mạnh Nghinh dịch)
Đại Minh Nhất Thống Chí chép : “Trong
địa lý chí phủ Tư Minh có nói : ‘Châu Tây Bình nguyên thuộc Tư Minh Lộ. Năm thứ
3 niên hiệu Hồng Võ bỏ. Năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Lạc đặt lại. Lộc Châu của nước
An Nam nguyên thuộc lộ Tư Minh (Tầu). Năm Hồng Võ thứ 3 bỏ, năm Hồng Võ thứ 21
đặt lại. Sau mất vào nước Giao Chỉ.” (Ngô Mạnh Nghinh dịch)
Sách Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư do Cố Viêm
Võ biên soạn. Ông là một học giả hữu danh cuối đời Minh, đầu đời Thanh. Về Lạng
Sơn, đại lược ông có ghi : “ Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lạc mới đặt, đem 4
châu Thất Nguyên, Thượng Văn, Hạ Văn, Văn Nhai, Quảng Nguyên, Thượng Tư, Lãng
thuộc vào phủ Lạng Sơn. Bản phủ lĩnh 7 huyện là : Tân An, Như Ngạo, Đan Ba, Khâu
Ôn. Kê Lăng, Uyên Đồng. Châu Thất Nguyên lĩnh 4 huyện là Thủy Lãng, Cẩm Vũ,
Dung Phi, Bình Lục. Châu Thượng Văn lĩnh 3 huyện là Bôi Lan, Khánh Viễn, Phố
Huyện. Còn Hạ Văn, Văn Nhai 5 châu không có huyện. Tất cả 17 châu 16 huyện. Năm
thứ 7 gồm Phố Huyện vào châu Thượng Văn, Phi Huyện vào châu Thất Nguyên, Dung
Huyện vào Thoát châu, Khánh Viễn vào Bôi Lan, Bình Huyện vào Thủy Lãng”
(Ngô Mạnh Nghinh dịch).
Các sách của Trung Hoa có nhắc đến
Lạng Sơn còn rải rác một vài. Đường Thư Địa Lý Chí viêt “Khoảng những
năm Khai Nguyên, Lạng Châu là một trong những man châu thuộc An Nam”. Sách
Phương Dư Kỷ Yếu, thiên An Nam Bị Lục viết : “Lạng Sơn Phủ ở phía
bắc phủ Giao Châu 530 dặm. Năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Lạc, gồm 7 châu …. Quảng
Nguyên thành ở phía tây bắc phủ Lạng Châu, giáp giới với phủ Long Châu của tỉnh
Quảng Tây. Khâu Ôn thành ở phía bắc phủ 200 dặm, nay là huyện, trước là phủ Tư
Minh thuộc tỉnh Quảng Tây. Năm thứ 29 niên hiệu Hồng Võ, phủ Từ Minh tâu rằng :
“Nước An Nam cướp mất các huyện Khâu Ôn, Như Ngạo, Khánh Viễn, Uyên Thoát.”
Chiếu cho An Nam giả lại đất cho phủ Từ Minh, nước An Nam không tuân mệnh, từ
đấy mất vào đất Giao Chỉ. Đầu niên hiệu Vĩnh Lạc, sai Chinh Nam tướng quân là
Hoàng Trung đưa Trần Thiên Bình về nước. Đến Khâu Ôn bị quân Lê lừa, tiến đến
Cần Trạm, Thiên Bình bị giết tức là nơi này.” (Ngô Mạnh Nghinh dịch)
Khi nói về nước ta, sách sử Trung
Hoa luôn luôn có thái độ trịch thượng xấc xược, cộng thêm lòng tham xâm chiếm
nên không thể tránh khỏi những chủ quan làm sai lệch sự thật.
Ghi chú.
Đại Nam Quan : cửa ải
của nước Đại Nam
Nam Quan : chính là
Đại Nam Quan gọi tắt. Ta thường xưng mình là người nước Nam. Như Lý Thường Kiệt
khi xuất quân xua quân Tống ở sông Như Nguyệt có viết :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Núi sông nước Nam, vua nước Nam ở. Sách
trời đã định cương giới rành rành. Lũ giặc bạo ngược cớ sao dám đến xâm phạm. Chúng
bay hãy giương mắt mà nhận lảnh sự thất bại)
Vì lẽ Nam là
nước Nam, nên gọi cửa quan của nước Nam là Nam Quan, cửa ải của nước Nam là Ải
Nam Quan.
Không phải
chỉ riêng Lý Thường Kiệt gọi nước ta là nước Nam, Nguyễn Trãi trong bài hùng
văn kiệt tác Bình Ngô Đại Cáo cũng xưng nước ta là nước Nam : “Sơn xuyên chi
phong vực kỷ thù; Bắc Nam chi phong tục diệc dị” (Biên giới núi sông đã
khác; phong tục nước Bắc nước Nam lại cũng khác – Nước Bắc là nước Tầu, nước
Nam là nước ta).
Cuốn Đại
Việt Sử Ký viết dưới hình thức Tứ tự (mỗi câu 4 chữ) dưới triều vua Tự Đức,
nhập đề bằng câu :
Ngã bản Nam
nhân
Tu tường Nam
sử
(Ta người
nước Nam, nên biết rõ ràng lịch sử nước Nam)
Như vậy,
trong tiếng nói cũng như văn chương nơi sử sách của ta, chữ Nam được quen dùng
để chỉ tên nước ta.
Trấn Di Quan
Xưa, người
Tầu gọi ta là Nam Man, tức bọn mường mán phương nam ở nước Nam. Đối lại ta gọi
họ là thằng Ngô (ngây ngô như ngố Tầu) hoặc Hoa di tức lũ man di Trung Hoa.
Điều này còn thấy minh bạch nơi Quốc Miếu của người Nùng.
Người Nùng
tụ tập định cư ở đâu, bao giờ cũng dựng quốc miếu, thường gọi là Phú Quốc Miếu
hoặc Chúc Quốc Miếu để cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh. Trong Quốc Miếu
hặc thờ Phật bà Quan Âm vì theo lịch sử họ, có lần Phật bà đã hiển linh dẫn đường
cho họ đánh đuổi quân Tầu; hoặc thờ câu Y Trấn Hoa Di nghĩa là “ở đây để ngăn
ngừa, chận đứng bọn man di Trung Hoa.” Trấn Di Quan của ta, cũng như vậy, có
nghĩa là “cửa ải ngăn ngừa man di phương bắc”.
Lạng Sơn trong văn học truyền
khẩu và thanh văn
Văn học truyền khẩu với thành
Lạng Sơn
Xét trong
lịch sử loài người, khi một dân tộc văn hóa thấp kém tiếp xúc với một dân tộc
có văn hóa cao, thường bị đồng hóa, có khi đến bị diệt chủng. Vậy mà Tầu ỷ vào
bạo lực, sức mạnh người đông, tràn sang chiếm đóng, đô hộ nước ta cả nghìn năm
với nhiều thủ đoạn nhằm đồng hóa dân ta, với những áp lực kinh tế chính trị tàn
khốc nhằm làm kiệt quệ sức đề kháng của dân ta. Chung cục, ta vẫn là ta. Kẻ ngoại
thù ra đi, không đạt được lòng tham, chỉ chuốc lấy tiếng xâm lăng bạo ngược. Tại
sao ? – Tại vì ta đã sẵn có một nền văn hóa cao cả lấy người làm gốc. Nền văn
hóa nhân bản này bền vững cội nguồn từ nhân tính, nở hoa kết trái đẹp đẽ nhân
tình.
Văn hóa
truyền thống Việt Nam không tàng trữ nơi những công trình xây cất vĩ đại tráng
lệ. Các đấng tiên vương tiết kiệm mồ hôi nước mắt đồng bào nên đã cấm chỉ xa
hoa. Văn hóa truyền thống Việt Nam cũng không tàng trữ trong thi thư kinh điển.
Một ngàn năm Bắc thuộc, biết bao cảnh tàn phá văn hóa ta đã diễn ra, nào đập phá
đền đài bi chú, nào đốt sách, tịch thu sách quý đem về Tầu. Đối phó với thảm trạng
ấy, để bảo tồn văn hóa, để ngăn chặn quốc nạn đồng hóa, tổ tiên ta đã tồn trữ
và phát huy văn hóa dân tộc vào văn chương truyền khẩu, tạo thành một dòng văn
hóa luân lưu, thấm nhuần vào tâm hồn mọi tầng lớp dân gian, gắn liền với nếp sống,
với lời ăn tiếng nói hàng ngày, thành một thứ kinh nhật tụng của mọi người,
nối tiếp qua từng thế hệ, Không bạo lực phi nhân nào có thể phá hủy thành trì
văn hóa ấy. Không ngọn lửa hung tàn nào có thề thiêu hủy pho thi thư nhân bản
ấy, pho thi thư đã in vào lòng toàn thể quốc dân Việt. Văn hóa truyền thống của
dân tộc là sức mạnh sinh tồn để tự chủ. Càng gian khổ ba đào, càng phát huy lớn
mạnh gìn giữ giống nòi, gìn giữ non sông. Thành Lạng, nơi địa đầu sóng gió,
muôn đời bền vững vì đã hiển hiện trong văn học dân gian như một sử thi có hồn,
có tình, có ý, quấn quít trong lòng mọi người dân Việt từ khi tấm bé đến tuổi
trưởng thành cũng như khi đã tóc bạc da mồi.
Con cò bay bổng bay cao
Bay qua cửa bể, bay vào Đồng Đăng.
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Tiếc công cha mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu, nắm nem,
Mải vui quên hết lời em dặn dò.
Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương…
Văn học thành văn với
thành Lạng Sơn
Những công
trình văn học được viết thành chữ gọi là văn học thành văn. Nền văn học này của
nước ta, cũng như văn học truyền khẩu, từ xưa đã rất phong phú. Tiếc rằng cái
nạn “đốt sách, tịch thu sách quý đem về Tầu” của người thực dân phương Bắc đã
làm mất mát quá đỗi nhiều. (Điển hình như các tác phẩm của Chu Văn An : Thất
trảm sứ, Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước đã
không còn, trước hành vi ra sức hủy diệt văn hóa ta dưới thời bị giặc Minh đô
hộ. Nay chỉ còn tìm được 12 bài thơ).
Ở đây chúng
tôi trích đăng mấy bài thơ gói ghém hình ảnh Lạng Sơn của các tác giả Trần Nhân
Tông, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Du.
Trần Nhân Tông (1258-1308). Vị vua anh
hùng, nhân ái, hai lần lãnh đạo công cuộc đánh đuổi quân Nguyên. Là thi sĩ, nhà
vua để lại những áng thơ có địa vị trong lịch sử thi ca. Là nhà tư tưởng Phật
học, nhà vua sáng lập dòng thiền Trúc Lâm. Năm 40 tuổi, khoác áo thầy tu đi
thuyết pháp.
Tác phẩm còn
để lại : Trần Nhân Tông thi tập, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sự,
Thạch thất mỹ ngữ.
Bài thơ Lạng
Châu vãn cảnh trích ra ở đây có lẽ được sáng tác khi vua đã xuất gia vì
đượm ý thiền tông.
Lạng Châu vãn cảnh
Cổ tự thê
lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền
tiêu sắt mộ chung sơ.
Thủy minh,
sơn tĩnh, bạch âu quá,
Phong định,
vân nhàn, hồng thụ sơ.
Chuyển nghĩa
Nôm :
Cảnh chùa Lạng Châu
Ngôi chùa cổ
lạnh lẽo sau lớp sương khói mùa thu
Thuyền câu
lặng lẽ quạnh hiu, chuông chiều mới điểm
Chim âu
trắng bay qua vùng nước trong núi vắng
Gió lặng,
mây lang thang, hàng cây lơ thơ lá đỏ.
Phạm Sư Mạnh.- Chưa rõ
năm sanh và năm mất, là học trò của Chu Văn An, đỗ thái học sinh (tiến sĩ) vào
đời vua Trần Minh Tông. Năm Thiệu Phong thứ 5 (1345) đời Trần Dụ Tông, được cử
đi tranh luận về cột đồng. Làm quan đến chức Tri khu mật viện sự rồi thăng đến
chức Nhập nội nạp ngôn.
Ông là một
vị lương thần của Trần triều, là một danh nho thi sĩ. Tác phẩm Hiệp thạch
tập của ông đến nay chưa tìm được, chỉ còn 30 bài thơ chép trong Toàn Việt
thi lục. Dưới đây, trích đăng và chuyển nghĩa Nôm 4 bài trong những bài thơ nói
về Lạng Sơn của ông.
Quan Bắc
Phụng chiếu
quân hành bất cảm lưu,
Thanh du
chàng hạ ác ngô câu.
Quan sơn Lão
Thử, cốc Lâu Lại,
Vũ tuyết
Thượng Ngao, lam Lộc châu.
Thiết mã
đông tây thôi cổ giốc,
Nha kỳ tả
hữu túc tì hưu
Bình sinh
nhị thập an biên sách
Nhất thốn
đan trung ánh bạch đầu
Cửa ải phía
Bắc
Vâng chiếu
tiến quân không dám ngừng nghỉ,
Đầu che lọng
màu xanh sơn quang dầu, tay lăm lăm thanh kiếm ngô câu
Băng núi
vượt qua cửa quan Lão Thử, hang Lâu Lại,
Dấn thân vào
mưa tuyết Thượng Ngao, lam chướng Lộc châu.
Khua trống,
rúc tù và giục giã đoàn ngựa thép ở phía đông và phía tây
Cờ tướng chỉ
huy, cánh quân tả hữu hùng mạnh như hổ báo
Bình sinh ta
đã sẵn có 20 sách lược để giữ yên biên cương,
Một tấc lòng
trung đỏ như son, ánh lên mái đầu bạc.
Chú thích:
Ngô câu :
thanh kiếm báu đời xưa, sắc như nước.
Lão Thử :
cửa ải ở phía nam Khâu Ôn, Lạng Sơn.
Thuợng Ngao,
Lâu Lại : hai hiểm địa ở Lạng Sơn.
Lộc châu :
thuộc tỉnh Lạng Sơn.
***
Lạng Sơn Đạo
Trung
Thiểm tổng
binh quyền đăng tướng đàn,
Sóc phương
hữu sự cảm từ nan.
Thiên trùng
vân ủng Khâu Môn dịch,
Vạn lý thiên
hồi Công Mẫu san.
Vũ trụ chỉ
huy kỳ dục động,
Quan San tảo
đãng giốc sơ hàn
Tư hành bất
dụng phiên trung vật,
Khiết thủ
Lộc châu chư động san.
Chuyển nghĩa
Nôm
Trên đường
đến Lạng Sơn
Bước lên đài
tướng cầm quyến tổng binh, lòng thấy thẹn thùng,
Phương bắc
hữu sự, không dám từ nan.
Mây ngàn
trùng che phủ trạm Khâu Ôn,
Trời cao vạn
dặm thu vào đỉnh núi Công Mẫu.
Lá cờ chỉ
huy muốn lay động vũ trụ,
Chuyến hành
quân này không cần đến các nhu yếu phẩm do các buôn cung ứng,
Mà dùng ngay
các nhu yếu ở các động thuộc Lộc châu.
Chú thích:
Khâu Ôn :
châu thuộc Lạng Sơn.
Công Mẫu :
tức núi Ông Mụ (cha mẹ) ở châu Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
***
Tam
Thanh Động
Khống đới
Thất Tuyền liên Thượng Ngao
Thạch vi
cương giới thủy vi hào.
Địa phận nam
bắc, kim thang hiểm,
Thiên thiết
thần tiên động phủ cao.
Đế Sở Thanh
Đô tài chỉ xích,
Tiên Trì Vũ
Huyệt tứ chu tao.
Xử biên quân
tế nhân đăng lãm,
Thiên tá khinh
hành tổng ác đao.
Chuyển nghĩa
Nôm
Động Tam
Thanh
Chế ngự cả
Thất Tuyền và Thượng Ngao,
Cương giới
bằng đá, hào sâu bằng nước.
Đất chia nam
bắc, hiểm trở như thành đồng, hào nước sôi.
Phía trên
cao của động, trời tạo ra những động phủ thần tiên,
Chỉ cách Đế
Sở, Thanh Đô chừng gang tấc.
Ao Tiên,
Huyệt Vũ vây quanh bốn phía.
Nhân dịp
đóng quân ở biên giới, lên xem động.
Bước chân
nhẹ khẽ, tay cầm thanh đao.
Chú thích:
Động Tam
Thanh : nơi có chùa Tam Thanh, thắng cảnh ở Lạng Sơn.
Đồng Đăng có
phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô
Thị, có chùa Tam Thanh.
Thượng Ngao
: địa danh thuộc Lạng Sơn (theo Phương Đình dư địa chí)
Đế Sở, Thanh
Đô : nơi ở của Ngọc hoàng thượng đế.
Huyệt Vũ :
trên núi Cối Kê có miếu thờ vua Vũ, sau miếu có giếng sâu, không dò được đáy,
chính là huyệt táng vua Vũ (Thủy Kinh Chú – Lịch Đạo Nguyên đời Bắc Ngụy). Tác
giả mượn hình ảnh này để nói lên cảnh hào sâu quanh động Tam Thanh.
Thượng
Ngao
Thiên tỳ
tiểu hiệu củng viên môn,
Tả ác cung
đao hữu thuộc khiên.
Vạn mã thiên
binh tuần giới thủ,
Cao nha đại
đạo chiếu Khâu Ôn.
Quan san
hiểm yếu minh kinh hoạch,
Khê giản
phiên bình quảng phủ tồn.
Bạch thủ
Lạng Châu nguy chế trí,
Nhất khâm
trung xích tắc càn khôn.
Chuyển nghĩa
Nôm
Thượng Ngao
Các tỳ tướng
đứng canh phòng cửa quân,
Người nào
cũng bên trái mang cung đao, bên phải mang túi tên.
Thiên binh
vạn mã tuần phòng nơi địa đầu biên giới,
Cờ xí uy
nghiêm, rực rỡ huyện Khâu Ôn.
Nơi quan san
hiểm yếu, ta đã sẵn kế hoạch sáng suốt,
Phải rất lưu
tâm đến các bản mường, khe suối.
Mái đầu bạc
trắng định kế giữ gìn đất Lạng Châu trong cơn nguy biến,
Một tấm lòng
trung đỏ thắm ngập càn khôn.
Nguyễn Du
Kiếp kim cổ
tài tình là bận,
Hồn văn
chương vơ vẩn non sông
Xót thay
nước đục bụi trong
Nghìn thu
biết ngỏ tấm lòng cùng ai !
(Ưu Thiên
Bùi Kỷ)
Giới thiệu
thân nhân và sự nghiệp thi ca của Nguyễn Du với độc giả là một điều thừa thãi.
Chúng tôi chỉ xin trích đăng và chuyển nghĩa Nôm 3 bài thơ ông làm khi đi sứ
Trung Hoa, qua tỉnh Lạng Sơn.
Giáp Thành
Mã Phục Ba Miếu
Thập lục lão
nhân cân lực suy,
Cứ yên bị
giáp tật như phi.
Điện đình
chỉ bác quân vương tiếu,
Hương lý
ninh tai huynh đệ bi.
Đồng trụ cẩn
năng khi Việt nữ,
Châu xa tất
cánh lụy gia nhi.
Tính danh
hợp thượng Vân Đài họa,
Do hướng Nam
trung sách tuế thì.
Chuyển nghĩa
Nôm
Miếu Mã Phục
Ba ở Giáp thành (1)
Người già 60
tuổi thì gân sức yếu suy,
Vậy mà ông
còn nắm yên cương, mặc áo giáp phóng như bay.
Chỉ cốt
chiếm được tiếng cười của nhà vua ở trên điện,
Đâu biết
rằng đã làm cho anh em ở quê nhà đau lòng (2)
Cột đồng (3) chỉ đánh
lừa được đàn bà nước Việt,
Xe hạt châu (4) cuối cùng
làm lụy cho con cái trong nhà.
Họ tên đáng
được vẽ ở gác Vân Đài (5)
Còn hướng về
nước Nam đòi cúng tế hàng năm.
Chú thích:
(1) Giáp thành :
tên Nô m là thành Kép ở phía nam Chi Lăng – Lạng Sơn.
(2) Em họ Mã Viện
là Thiếu Du thương ông ta già yếu còn khổ nhọc vì hai chữ công danh, nên khuyên
: “Kẻ sĩ chỉ cần lo đủ áo cơm, làm một người tốt ở xóm làng, giữ lấy vườn tược
và mồ mả, chẳng nên vất vả kiếm chác công danh làm khổ tấm thân. Nên biết ngoài
áo cơm ra, cái gì cũng là thừa cả.”
(3) Cột Đồng : sau
khi thắng Hai Bà Trưng, Mã Viện có trồng một cột đồng ở biên giới Việt Hoa với
lời thề : “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.”
(4) Xe châu : khi
ở Giao Chỉ Viện hay ăn ý-dĩ để chống lam chướng. Về nước chở theo về mấy xe.
Viện chết, có người tố giác với vua là Viện chở từ Giao Chỉ về nhà mấy xe hạt
châu (ngọc trai). Vua giận. Vợ con Viện sợ, phải táng ông ở chỗ đóng quân.
(5) Vân Đài các.
Hán Quang Vũ cho vẽ hình 28 công thần ở gác Vân Đài. Viện là công thần nhưng có
con gái làm hoàng hậu. Để tránh tiếng vua Qung Vũ không cho vẽ hình Mã Viện.
***
Quỷ Môn Quan
Liên phong cao sáp nhập thanh vân,
Nam, Bắc quan đầu tựu thử phân.
Như thử hữu danh sinh tử địa,
Khả Liên vô số khứ lai nhân.
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ,
Bố dã yên mang tụ quỷ thần.
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt,
Kỳ công hà
thủ Hán tương quân.
Chuyển nghĩa
Nôm
Cửa ải Quỷ
Môn
Núi non
trùng điệp, đỉnh cao chọc mây xanh,
Đến nơi này, là cửa ải phân chia địa
đầu nước Nam, Bắc (Tầu)
Ở đây có tiếng là đất tử sinh,
Khá thương cho biết bao nhiêu người
qua lại chốn này.
Bụi rậm nghẽn đường đi, rắn cọp nấp
ở trong,
Quỷ thần tụ họp trong làn mây khói
lam chướng dăng mắc đầy nội.
Suốt từ xưa, gió lạnh lẽo thổi lùa
xương trắng,
Kỳ công của
tướng nhà Hán, ngẫm ra chẳng đáng kể gì. .
Chú thích:
Quỷ Môn Quan
: ở phía nam Chi Lăng, Lạng Sơn, địa thế hiểm yếu. Người Trung Hoa có câu : Quỷ
Môn Quan ! Quỷ Môn Quan ! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn (Quỷ Môn Quan ! Quỷ
Môn Quan ! Mười người đi, một người về).
Hán Tướng Quân : tức Mã Viện.
***
Lạng Thành Đạo Trung
Quần phong dũng lãng thạch minh đào,
Giao hữu u cung, quyên hữu sào.
Tuyền thủy hợp lưu, giang thủy
khoát,
Tử sơn bất cập Mẫu sơn cao.
Đoàn thành vân thạch tịch dương hậu,
Hồng Lĩnh thân bằng nhật tiệm dao.
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn,
Khuông trung
huề hữu bút binh đao.
Chuyển nghĩa
Nôm
Trên đường
đến Lạng thành
Sóng từ dẫy
núi vọt ra, vang dội trên vách đá,
Ở đây thuồng
luồng có hang âm u, đỗ quyên có tổ.
Suối họp
dòng lại thành sông lớn,
Núi con
không cao bằng núi mẹ.
Chiều chiều
mây, đá trên thành Đoàn như hò hẹn nhau
Thân bằng ở
Hồng Lĩnh càng ngày càng ít đi lại
Lạ lùng
thay, tình cảm thâh thiết mà đứt đoạn nhẹ nhàng
Trong tráp
của ta có cây bút như dao.
*
*
*
Lạng Sơn với
Nam Quan, cửa ải của nước Nam, phân chia ranh giới Việt và Tầu, sử sách Việt và
Tầu đều ghi rõ, văn học thành văn cũng như văn học dân gian truyền khẩu, xác
nhận một cách hiển nhiên.
Bắc, Nam, bờ
cõi phân mao,
Ngọn cờ độc
lập, máu đào còn dây.
(Hai chữ
nước, nhà – Thơ Á Nam Trần Tuấn Khải)
Nay, nước
nhà bị đảng Cộng sản Việt Nam quản trị, Nam Quan dâng cho Tầu cộng. Những người
lãnh đạo đảng Việt cộng u mê, bạc nhược, cố bám víu lấy hư danh, cố vơ vét tiền
tài một cách tham ô bất chính, cùng bè lũ vắt cạn tài sản quốc dân. Dân nước
khốn đốn, hờn căm. Lại thêm áp bức củng những cường quốc muốn tiến vào trục lợi.
Thân phận cộng đảng Việt Nam sắp đến ngày sụp vỡ tan tành./.
Trần Lam Giang
Tháng 2, 2014.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết