Bài Thơ Thay Điếu Văn Để
Vĩnh Biệt Nhà Phản tỉnh Lê hiếu Đằng và các
"Lão Thành Cách Miệng" theo VGCS.
Riêng gửi Hà sĩ Phu, Nguyễn thanh Giang, Nguyễn trọng
Vĩnh, Trần mạnh Hảo, Nguyễn thị Bình, Cù huy Hà Vũ… và tất cả các “nhà
lão thành cách miệng còn sống” ở trong nước.
Lê hiếu Đằng và các Anh/Chị tất cả!
Các anh quá ngu
nên cuộc đời mới hỏng!
Theo giặc hồ
Dẫn dắt dân tộc vào
nô lệ, lầm than...
Nước Việt nay quá đổ nát, hoang tàn
Thua Pháp thuộc, thua Nhật thuộc, thua hết!
Các anh dẫn dân tộc vào chỗ chết...
Nơi hùm beo lang sói đợi con mồi
Hồi chuông báo tử thôi thúc liên hồi
Bọn bá quyền đang reo hò sung sướng!
Giặc hồ xưa cùng duẩn, đồng ...đã nướng (1)
Mười triệu dân, 4 cuộc chiến tang thương
Bọn chúng là Mác-xít đã lầm đường
Các anh ngu, đi theo thằng bán nước!
Chúng chỉ là một bọn bịp, ăn cướp
Lo vinh thân, lo vơ vét, phì gia...
Bán cơ đồ hoa gấm của ông, cha
Chúng: tội đồ số một trong lịch sử...
Các anh đã theo: tưởng là vinh dự
Nào ai ngờ: dâng, bán nước, lòn trôn...
Khi cuộc đời vào bóng xế, hoàng hôn
Lúc nghĩ lại: trễ rồi, không kịp nữa!
Tham nhũng, gian
tà, nhiễu dân, phường chó mửa
Các anh là tr ư
khuyển hùa theo
Bao oan khiên, bao tội lỗi đã gieo
Nay phải gánh, trả lời Cán Cân Công Lý!
Nước Việt Nam nay chỉ còn toàn đĩ!
Đĩ nghĩa đen và nghĩa bóng, tràn lan…
Đĩ các anh là dâng, bán Việt Nam
cho Tàu khựa, một kẻ thù muôn kiếp!
Các anh quá ngu cho nên phải chết!
Lại kéo theo cái chết của nước nhà
Không cầu siêu nào có thể kéo các anh/chị ra
Khỏi đọa đày ngục A tì thảm thiết!
Chọn sai đường thì nhục - Và chúng giết!
Tàu tràn lan ở khắp chốn, khắp nơi
Nước mất rồi - Lão cách miệng, than ôi!
Thà đừng sinh chứ sao mà xuẩn thế!!!
Bút Xuân Trần Hoàng Sa
(1)Tên vgcs không đáng được viết hoa
---------- Forwarded message
----------
From: But Xuan <
From: But Xuan <
Bài Thơ Thay Cho Điếu Văn
Trần chung Ngọc
Trần chung Ngọc! Nhân nào quả ấy!
Gieo gió thì gặp bão, gặp giông
Theo thằng tướng cướp cờ hồng
Chửi Thiên Chúa giáo, mi khôn hay đần?
Mi bịa đặt những điều không có
Mi dối gian, có nói ra không
Thần tượng mi, bọn luồn trôn
Xương khô chất núi chật đồng tang thương!
38 năm làm tôi ma quỉ!
Tay sai Hồ mi viết rẽ chia
Đồng bào tôn giáo chia lìa
Mất tình đoàn kết Cộng nô reo mừng!
Ta đã khuyên mi nhiều năm trước:
Cuộc đời là ảo ảnh, phù du
Hôm nay vừa mới đầu Thu
Chiêm bao tỉnh giấc lù lù mùa Xuân!
Bọn buôn dân cùng là bán nước
Vơ vét vàng, cả tỉ đô la
Vợ ba, vợ bảy, chật nhà
Một cơn trúng gió còn là… tay không!
Mọi thứ tiêu - Chỉ còn Nhân Nghĩa
Lòng thương người, người lại đền ơn
Đời này quả báo nhơn nhơn
Gieo ác gặp ác nhỡn tiền chẳng sai!
Cái xú danh mi mang muôn kiếp
Cùng giặc Hồ thảm thiết đau thương
Người người tìm Phúc thiên đường
Mi cùng Hồ sói xiển dương A tì!
Đúng ra phải Điếu văn Điếu vẻ
Gọi là ta khóc kẻ dại khờ
Làm người mi chớ thờ ơ:
Cái nghĩa Dân tộc không mờ chớ phai!
Ngày 30 Tết Giáp Ngọ (31-1-2014)
GS/Thi
sĩ Bút Xuân Trần Hoàng Sa
Cái Xe Đạp Và
Nghề Giết Lợn
Của Phó Thập
(tiếp theo)
Bút Xuân Trần
Hoàng Sa
Đến đây, trước khi
vào truyện, tác giả xin giải thích từ “phó” trong danh xưng phó Thập. Người miền
Nam hình như không có từ này. Chả là ở miền Bắc khi xưa, những người làm nghề
chuyên môn tức có kinh nghiệm về nghề nào đó thì được gọi là phó, như phó rèn:
người làm nghề thợ rèn (blacksmith); phó cối: người làm và sửa chữa các cái cối
xay thóc; phó may: thợ may quần áo; phó mộc: thợ mộc; phó hàn: thợ hàn; phó hoạn
hay thợ hoạn: thiến heo, chó, mèo, gà v.v…Phó Thập trước kia đi sửa cối xay
thóc nên được dân làng gọi là Phó cối, tuy không phải chức vụ nhưng vẫn hãnh diện
hơn dân không có gì. Sau này phó đổi nghề nên không còn chữ cối mà chỉ gọi là
phó với tên gọi.
Việc cải táng đã
xong, phó Thập rất yên chí. Nghỉ thêm 3
ngày để sắm sửa đồ nghề giết heo, đến ngày thứ tư phó Thập giết con lợn đầu sau
khi đã làm đơn xin phép Xã trưởng.
Phó đã có 8 tháng
thực tập nên phó làm rất thạo. Việc đi mua lợn thịt, lúc đầu phó đi mua dăm con
(đã có vốn vì 8 tháng để dành) sau đó phó tập cho thằng con rể lớn và vợ nó đi
các làng xa mua. Dĩ nhiên con cái đứa nào làm thì phó trả công tử tế, cao hơn
người ngoài là khác, nên không đứa nào kêu ca.
Chỉ giết biểu diễn
dăm con, tiếng tăm giết lợn, thịt lợn ngon của phó Thập cả tổng và những tổng
lân cận đều rõ. Cũng nên biết tổng thời Pháp thuộc (canton) là đơn vị hành
chánh bao gồm nhiều xã (làng: village). Một số tổng họp lại ở kế cận nhau thì
thành một phủ hay huyện (district), sau này còn gọi là quận. Phủ lớn hơn huyện,
còn châu cũng là một huyện ở vùng thượng du Bắc Việt như các tỉnh Tuyên Quang,
Cao Bằng, Phú thọ, Lai Châu v.v…
Thịt lợn phó Thập
giết ra bán nhanh như tôm tươi. Những bạn hàng bán thịt ở chợ tranh nhau lấy thịt
của phó vì lợn phó lựa ngon. Hàng tiết canh, lòng lợn, cháo lòng lấy không đủ
bán. Hàng tiết đọng ngày nào cũng chờ tại sân nhà phó để hễ có tiết là “rinh” về
luộc ngay rồi mang ra chợ. Các hàng cháo lòng, bánh canh (nấu với chân giò)
cũng đều chuộng lòng và chân lợn của vợ phó. Nhờ trời những năm đó được
mùa nên đời sống dân chúng khá dễ chịu. Xã hội Việt Nam không đông đúc như ngày
nay nhưng an bình, no ấm và thịnh vượng. Bọn trẻ chúng tôi ngày nào cũng có quà
vặt mẹ mua mang về từ chợ.
Phó càng làm càng
hăng và càng có tiền. Tiền vào như nước, nói theo lối Việt Nam. Dĩ nhiên, nhân
viên thuế vụ của người Pháp trên phủ có về hỏi thăm phó nhưng phó đóng thuế đầy
đủ, sòng phẳng. Phó bảo mình phải làm bổn phận người dân, bất biết là chính phủ
nào. Phó rất sợ lôi thôi với pháp luật. Phó bảo vợ con: ăn ít một tí nhưng yên
tâm.
Nghề giết mổ không
phải là ai cũng làm được. Những người ngại nhìn thấy máu, ngại ngó con lợn giẫy
chết kêu eng éc thảm thiết, không làm nghề này được. Phó Thập, trái lại,
rất mạnh tay hạ thủ những con lợn thịt, nhiều con dưới một tạ nhưng có con trên
một tạ, có con lớn đến tạ rưỡi, phó và thằng phụ việc mà phó mới mướn,
làm băng băng!.
Cắt tiết một con lợn
cũng phải có kỹ thuật cao, phó nói với mọi người vậy. Thường phó Thập cột 4
chân lợn cho lợn nằm ngửa trên một tấm phản dốc đầu xuống. Thằng con trai
hay thằng thợ phụ giữ 4 chân con vật cho nó nằm im. Phó Thập cầm cái gáo dừa
trong chậu nước ngay kế, xối vài gáo và dùng tay trái rửa cổ con vật cho sạch. Xong,
tay trái chịt lấy tai con vật, tay phải đưa một đường dao bầu sắc lẻm
vào cổ, phó biết con dao cần vào sâu đến đâu để cắt đứt hẳn động mạch chủ làm
con vật sớm chết nên chỉ một nhát mạnh tay đó là máu từ cổ con lợn ồng ộc đổ xuống
cái xanh (xoong) hứng bên dưới. Con vật khốn khổ chỉ kêu éc éc được dăm tiếng
là xuội lơ vì nhát dao đi quá sâu và quá ngọt.
Lúc này con dao bầu
đã rời khỏi tay phó Thập, phó chộp lấy đôi đũa lớn như đũa cả ghế cơm mà
dài gấp đôi, quấy nhanh tay trong xoong huyết đã có sẵn mấy thìa muối để tiết
không đông. Tay còn lại, phó Thập nắm tai giữ cái đầu con lợn ở yên một chỗ để
nó khỏi làm bắn huyết ra ngoài. Con vật có giẫy dụa mấy cái nhưng không được
bao lâu vì động mạch chủ ở cổ đã cắt rời, nó tắt thở chỉ trong 90 giây.
Khi đã lấy
xong huyết con vật thì nồi nước sôi cũng sẵn sàng, một cái nồi ba mươi đầy (nồi
đồng lớn nhất lúc đó) mới đủ. Phó Thập và thằng phụ khiêng con lợn đặt lên cái
phản lớn hơn. Phó múc nước sôi dội lên thân con lợn, chú ý dội đi dội lại chỗ
nhiều lông, xong dùng con dao thực bén chuyên để cạo. Phó cạo con lợn trắng nhởn
chỉ lâu hơn người ta ăn xong miếng trầu. Phó cắt cái đầu lợn quẳng ra cho thằng
thợ phụ (khi chưa có nó thì vợ con phó phải làm) cạo lông tiếp những chỗ ngóc
ngách chưa hết lông. Phó xả con lợn ra làm bốn đùi để giao cho bạn hàng bán ở
chợ. Chỗ thịt đắt giá nhất là thăn, nạc vai v.v…thì phó lo rọc lấy trước, để
riêng ra cho những nhà làm giò chả, nem chua đến lấy mang đi. Sau đó phó tính đến
bộ lòng.
Tiết đọng trong bụng
lợn đã được múc ra đem luộc, nhưng thường là để sống để những người bán tiết đọng
luộc lấy. Gia đình chú Kiến chuyên thầu phần tiết đọng này đổ thành bánh, luộc
lên, phi hành mỡ cho thơm rải lên trên, pha nước mắm chua ngọt rồi thím Kiến đội
đi bán rong ở các con đường hoặc ngồi ở chợ. Những đứa trẻ như tác giả truyện
này, cả những đứa con gái cùng trang lứa, cứ là mê tiết đọng luộc của thím Kiến,
có hành lá phi thơm và húng quế ngò gai, kèm theo nước mắm chua cay ngọt. Ngon
tê lưỡi!
Sau đó, Phó Thập
đem bộ lòng ra ao rửa sạch, ruột là thứ phải làm cẩn thận nhất. Phó ken ruột bằng
tầu lá chuối, bóp muối và rửa đi rửa lại cho đến khi những thước ruột trắng
phau và thơm tho, hết mùi mới đem vào bếp làm dồi. Tôi nghĩ sở dĩ lợn phó giết
bán dóc tay sớm hơn mọi bạn hàng là vì cái tính cẩn thận làm ăn kỹ lưỡng của
phó. Ruột, dồi làm không kỹ, đến lúc ăn là biết ngay vì nó còn mùi hôi. Phải một
lần thì lần sau người ta đi chỗ khác mua. Mất mối!
Nhân dồi là tiết đọng,
thịt mỡ, thịt vụn thái cho thật nhỏ, xương xông, hành hoa, muối, đường cho vừa
miệng, nhồi đầy những khúc ruột xong đem luộc. Dồi phó Thập có tiếng ngon nên
làm ra tới đâu bán hết tới đó. Hồi đầu, vợ phó Thập đem lòng ra chợ ngồi bán
nhưng rồi quá bận, thím đem bỏ mối cho những bạn hàng bán lẻ, ăn ít đi một tí
nhưng đỡ đầu tắt mặt tối.
Qua hai năm mổ lợn,
lúc đầu là ngày một con, sau tăng lên hai rồi ba, bốn con tùy theo nhu cầu của
bạn hàng bán lẻ và tùy theo lễ tết trong năm, dân chúng cần mua vài kí thịt về
cho con cái thưởng thức hoặc đãi đằng bạn bè.
Vợ chồng phó Thập
khá lên trông thấy. Phú quí sinh lễ nghĩa, phó Thập bèn mua thêm một thổ đất rộng
để làm ngôi nhà mới cho gia đình, miếng đất và ngôi nhà tre lợp rạ phó cho thằng
con rể lớn (vợ nó là Dần) thằng này bố mẹ nghèo nên chẳng có nhà cửa gì, lúc đó
đã có ba đứa con.
Ngôi nhà mới tường
xây, mái ngói âm dương, cột kèo tuy vẫn là gỗ nhưng là loại gỗ sến mầu ngà ngà
vàng rất chắc, chỉ thua gỗ lim (cứng như sắt). Nền cao cả thước tây hóng gió nồm
Nam mùa hè mát rượi, mùa đông vì kín gió nên trong nhà khá ấm, phó Thập hài
lòng với ngôi nhà mới.
Sát với ngôi nhà đồ
sộ này là năm gian nhà ngang, bẻ hình thước thợ với ngôi nhà chính. Nhà này cột
kèo bằng gỗ soan, mái lợp bổi, nền thấp hơn nền ngôi nhà chính. Phó Thập để hẳn
hai gian làm bếp, nền tráng xi măng để khi trời quá lạnh có thể cạo lợn ở trong
bếp nhưng một năm chỉ mất dăm ba ngày, phó Thập luôn luôn cạo heo ở ngoài sân,
bây giờ là phía sau bếp, gần với cầu ao, phó cũng đã mua, để tiện rửa ráy, làm
lòng.
Từ khi có nhà mới
và thổ đất mới, phó Thập đâm kiểu cách ra. Trước kia chỉ đình đám hoặc năm thì
mười họa phó mới uống rượu, bây giờ phó uống mỗi ngày. Sáng mổ lợn cho đến
trưa, tập cho thằng con rể làm cho giỏi để đỡ tay phó, rồi vợ con phân phối thịt
và thu tiền làm sao phó không cần biết, khoảng 1 giờ trưa là xong mọi việc,
chưa xong cũng giao cho con, phó ăn cơm trưa rồi ngủ một giấc đến chiều. Mấy đứa
con đã đi mua lợn từ sáng, chúng khiêng lợn về thả vào chuồng. Giờ này phó Thập
đảo xuống chuồng lợn coi mấy con lợn mới mua. Khoảng 6 giờ chiều phó Thập mới bắt
đầu bữa rượu hàng ngày. Bốn cái vò lớn mỗi cái chứa khoảng mười lít, trong là
khung, quy, thục, thược, hoài sơn, đỗ trọng, ngưu tất, đại hồng sâm, đại táo, bắc
kỷ tử, dâm dương hoắc v.v…do một cụ lang lành nghề cắt cho. Rượu ngâm đúng một
năm phó Thập mới uống vì vậy trong buồng lúc nào cũng có một hàng dài vò, chai,
lọ ngâm rượu thuốc, đánh dấu ngày bắt đầu và ngày được uống. Phó thường bảo vợ
con, phó sướng như tiên. Mà quả vậy. Vua, quan còn phải lo quốc sự chứ phó đâu
có lo cái gì. Ngày mổ vài con lợn đã quá quen tay, chiều chiều làm bữa nhắm chỗ
nào ngon trong con lợn thì để lại, uống say ngủ, chủ nhật mới đến nhà thờ đi lễ
một lần. Không khéo lại hơn cả tiên!
Phó Thập ra ngoài
xã hội thì chỉ là một anh giết lợn chẳng danh vọng gì nhưng trong gia đình, phó
Thập tỏ rõ quyền uy của một người chồng, một người cha mà có những ông quan tỉnh,
quan huyện, ông giám đốc, ông chánh án, ông chánh tổng không thể nào bằng. Khi
phó Thập đưa lệnh ra cho vợ con thi hành, nếu có kẻ kèo nhèo thế này, thế kia
hay khó quá không làm được, phó chỉ trợn trừng con mắt quát một tiếng; kẻ kia,
dù là bà vợ nỏ mồm hay anh em, con cháu của phó Thập sẽ riu ríu tuân theo ngay,
không dám cãi một tiếng. Đó là cái uy trời ban cho mỗi người; với phó Thập, cái
uy ấy được nhân lên tối đa dù chỉ là cái uy của anh giết lợn.
Mỗi con lợn giết
ra, phó Thập được lời một số tiền khá mà ở nông thôn lúc đó không ai có được
cái nguồn lợi tức dồi dào như thế. Lợn phó Thập lựa mua là lợn ngon, thịt thơm,
ai đã từng ăn cũng phải thích. Phó lại biết ăn ít lời đi khi có con lợn thịt
không ngon lắm, phó bảo người mua, này con này chỉ ăn tạm thôi chứ không ngon lắm
đâu, muốn ngon phải chờ con sau. Phó Thập nói vậy rồi ai muốn mua thì mua, nếu
mua, Phó hạ giá xuống (phó đã biết bán sale), lẽ dĩ nhiên những nhà nghèo cả
năm không trông thấy miếng thịt, nhân lúc thịt hạ giá như thế, mua cho
con ăn.
Thuyền đi mua lợn
của phó Thập xuống mãi tận Cồn tròn, Cồn Vành, Văn Lý, Hạ trại, Thượng trại vì
những nơi này giá lợn bao giờ cũng rẻ hơn ở vùng trên. Mua được rẻ, phó Thập
bán rẻ, cái tiếng lợn phó Thập ngon và rẻ chuyền đi mấy tổng, thành ra lợn phó
Thập giết ra là bán xong tay trong khi mấy lò mổ khác bán chầy bán chợt mới hết
con lợn.
Phó Thập có khá tiền
rồi nhưng phó không mua ruộng. Phó đưa tiền cho những người tin cẩn bảo họ mua
lợn giống về nuôi, cám bã phó chịu, cuối năm thành lợn thịt, chia đôi. Mười chỗ
như thế, phó Thập đã có một đàn lợn dăm chục con mà không phải vớt bèo, nấu
cám. Giết ra, phó lại được lời môt mớ nữa. Những bà nội trợ rảnh rỗi không làm
gì đến xin phó Thập cho nuôi rẽ ngày một đông, phó hốt bạc.
Giầu có - phó tin
là do Bề trên và hai ngôi mộ được đất do lời khuyên của thầy phong thủy - nhưng
phó không kiêu căng, phó vẫn xuề xòa như xưa đối với những người ngoài nhưng
trong gia đình phó vẫn hoàn toàn là chủ.
Chỉ sau khi thầy
tôi mua xe vài năm, mùa đông đó, người trong tổng Vạn lộc và những tổng lân cận
chứng kiến cái xe đạp của ông phó Thập. Hình thù chiếc xe này cũng không khác
cái xe của thầy tôi; cũng khung, tay lái, hai bánh, và các phụ tùng như chuông,
đèn, thắng…Nghe phó Thập kể lại thì phó phải lên thành phố Nam Định ở
chơi nhà người anh họ một tuần để nhờ dẫn đi coi và mua xe. Sau khi so sánh phẩm
chất và giá cả hai, ba loại xe, người anh khuyên phó Thập nên mua loại Sterling.
Sterling đã nhẹ lại cứng, thanh thả và đẹp chứ không cục mịch như hai loại kia.
Hình như mãi sau này mới có Peugeot, cũng tốt và đẹp nhưng hồi phó Thập đi mua
thì chưa thấy.
Phó Thập sẵn tiền
nên mua lẹ. Mua được rồi lại phải nhờ ông anh tập cho mới lái được. Tuy nhiên,
phó Thập chưa dám lái trên những con đường trong thành phố Nam Định vì sợ tay
lái còn run, đâm vào người ta. Xe cộ thời đó rất thưa, xe hơi cả tỉnh có chừng
mươi chiếc, đa số của người Pháp. Xe đạp cũng không nhiều vì phải dân có máu mặt
mới mua được. Xe cộ thưa như vậy nhưng phó Thập vẫn không dám lái. Người anh bảo:
“Chú nhát thế thì
chú mua xe làm gì?”
“Về làng không có
xe dễ lái hơn anh à!”
Hôm về, Phó Thập bảo
anh lơ xe cột cẩn thận cái xe của phó trên nóc mui xe đò, sau khi đã bao bằng một
cái chăn dày cho khỏi trầy sước. Từ phủ Xuân trường về Vạn lộc, phó Thập dắt xe
chứ chưa dám ngồi lên yên. Phó sợ lao xuống sông thì hư hết xe. Cũng như cái xe
của thầy tôi, dân chúng bu theo nhìn cả bốn, năm chục người. Vì số người đến
coi xe đông quá, phó Thập phải để xe ở giữa sân gạch, bảo thợ mộc làm một cái
giá cho xe đứng để dân chúng coi suốt một tuần. Ban đêm sợ sương làm hư xe, phó
Thập và thằng con rinh vào trong nhà, trịnh trọng để giữa phòng khách rồi sáng
hôm sau lại mang ra sân cho bà con coi.
Bữa đó đúng vào dịp
ông Táo chầu thiên đình. Nhân dịp nhà có sẵn lợn, phó Thập mời những người
trong họ và bạn thân đến ăn bữa cơm gọi là mừng chiếc xe đạp. Con lợn nhỏ khoảng
35 kg được ngả ra. Vì quá bận với công việc giết mổ hàng ngày, Phó chỉ làm cỗ
thái phay tức là không có giã giò. Mâm cỗ gồm thịt luộc, chả xương, chân giò
ninh miến và kho mặn ăn với giưa cải bẹ chua, rau cần xào lòng. Vậy mà cũng hết
15 mâm, ấy là mâm 6 người chứ không theo cỗ làng, mâm chỉ có 4.
Cái xe đạp được để
ngay phòng khách cho các cụ vừa uống rượu vừa ngắm. Bữa tiệc này ăn mừng là vì
cái xe đạp, cũng long trọng như quan Cử nhân mới đậu về làng vinh qui bái tổ.
Rượu ngà ngà, có mấy
người cắc cớ bảo phó Thập chạy vòng vòng quanh sân cho họ coi thử vì cái sân
khá rộng nhưng phó lắc đầu, chưa phải lúc chạy xe. Vả lại, rượu ngà ngà thế này
chạy rất dễ ngã.
Sau bữa ăn mừng một
tuần, khách coi đã vãn, phó Thập bảo thằng con mang xe vào trong phòng khách. Xe
còn rất sạch nhưng phó vẫn bắt thằng con, cả hai cha con, mỗi người một vuông vải
kaki Nam định mới tinh lau đi lau lại khắp mọi chỗ trên cái xe, đến không còn một
hạt bụi. Phó Thập đã mua từ tỉnh về một ít mỡ bò. Phó cho mỡ bò vào xích xe để
xích lâu mòn và đi cho êm. Phó cũng mua một cái bơm tay để nếu bánh mềm thì phó
bơm cho căng lên.
Sau đó phó Thập đi
kiếm hai cái ròng rọc dùng cho thuyền buồm và hai sợi giây thừng. Phó buộc mỗi
đầu giây vào cổ và yên xe, giây chui qua hai cái ròng rọc gắn trên xà nhà, rồi
phó một đầu giây, thằng con một đầu giây, hai cha con trịnh trọng kéo đồng thời
hai sợi giây để treo cái xe đạp lên xà nhà ở ngay giữa phòng khách. Khách đến
coi cái xe đạp, tuy ít dần đi, nhưng ngày nào cũng có. Vài ba ông khách, do
tính hiếu kỳ, đã yêu cầu phó Thập thả hai đầu sợi giây cho cái xe đạp hạ thấp
xuống cho dễ ngắm. Phó đều thỏa mãn tất cả.
Cái xe nằm yên vị
trên đó được một tuần thì phó Thập hạ nó xuống, dắt ra sân. Phó tính đi thăm bà
thím ở cách nhà phó khoảng hơn 2km. Lẽ ra phó đã đến thăm mấy hôm trước vì nghe
bà thím bệnh nhưng phó chỉ ngại lái chưa vững đâm vào người đi đường thì xấu hổ.
Từ hôm đưa xe về, phó chưa lái lần nào.
Để yên chí đường
đi sẽ tốt, phó bắt một anh con trai cùng đi với phó, mỗi người một cái xẻng, kiểm
soát hết con đường xe sẽ đi, phân trâu phân bò xúc đổ xuống rãnh, chỗ nào có lỗ
chân trâu thì lấy đất đổ cho đầy xong dùng chân dận xuống cho bằng. Chỗ nào quá
cao thì san xuống. Khi đã sửa sang con đường chu đáo giống như người ta sửa đường
đón quan tỉnh, quan huyện về, hay là chuẩn bị cho đám rước kiệu của tôn giáo, bấy
giờ phó Thập mới trịnh trọng và thật hồi hộp leo lên xe, đạp từ sân ra đường rồi
cứ theo con đường đã sửa cẩn thận mà lái đến nhà bà thím.
Phó mặc cái quần
trắng và cái áo the đen, đi chân không cho dễ đạp, đầu đội nón dứa có quai rịt
vào cằm như hàng tổng lý. Hai ống quần rộng, phó Thập dùng hai cái kẹp để phơi
quần áo, kẹp lại cho nó khỏi lòa xòa vướng vào xích. Vạt sau áo dài, phó cũng
dùng một cái kẹp kẹp nó vào cái poóc-baga cho gọn gàng. Phó đã thấy có người vạt
sau áo này cuốn vào căm xe phía sau, kéo rách cả áo mà có khi người cũng bị kéo
ngã sấp xuống, rất nguy hiểm.
Trẻ con đi theo
coi rất đông làm phó run và cuống, suýt lao xuống sông hai lần. Phó vã mồ hôi
trán dù tiết trời đang lạnh. Sau bữa đó, phó có nói lại với vợ con, giá đi bộ
có lẽ sung sướng hơn, nhàn nhã hơn, bớt lo hơn. Phó chưa quen tay lái nên hễ
lên xe là cái xe cứ lao đi vùn vụt, dù phó không muốn đi nhanh như vậy.Thực ra
xe đi không nhanh nhưng với tay lái còn lọng ngọng, phó nghĩ là nó đã đi quá
nhanh!
%%%
Phó Thập giữ cái
xe chạy cho đến cuối năm 1954, phó phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và cái xe đạp
thân thương nhiều năm để di cư vào miền Nam tìm tự do.
Tài sản của phó do
giết lợn và nuôi lợn nhiều năm là một tài sản đáng kể ở nông thôn Bắc Việt lúc
đó. Chẳng gì cũng hai mẫu ruộng tư nhất đẳng điền; thổ đất 5 sào với ngôi nhà
ngói 5 gian và nhà phụ thuộc, có tường hoa, cổng ngõ, sân gạch như nhà ông quan
hay nhà phú hộ giầu nhiều đời, một con trâu cái và một con nghé và cái xe
đạp trông còn như mới vì phó giữ gìn rất kỹ.
Phó Thập tiếc đứt
ruột, của một đời dành dụm vất vả nhưng vợ chồng phó không dám rao bán. Bán có
nghĩa là sẽ di cư vào Nam, tội lăng trì! Phó âm thầm bày mưu tính kế và ra đi.
Chỉ đứa con gái thứ ba tên Sợi, lấy chồng ở mạn bể tức Cồn Tròn, Cồn
Vành; vợ chồng nó và một đứa con không về kịp để cùng đi với đại gia đình phó
Thập lên Hà Nội. Khi vợ chồng con Sợi về tới Vạn Lộc thì cán bộ cộng sản đã chiếm
nhà phó Thập và đại gia đình của phó Thập đã đi lên Nam định ba ngày rồi. Hai vợ
chồng nó lại nhà bà thím, nó ngồi khóc rưng rức. Du kích lại vào dọa nếu nó tìm
cách trốn theo sẽ bị bắt ở tù không có ngày ra cả hai vợ chồng.
Vợ chồng phó Thập
bỏ lại gia đình con Sợi đau xót lắm nhưng chẳng biết sao hơn. Cả nhà đã chờ
thêm một tuần rồi mới đáp xe lửa xuống Hải Phòng, nhưng càng mong càng mất.
Nguyên do là vì bố chồng con Sợi bệnh sắp qua đời, nó và chồng nó không nỡ bỏ bố
sắp chết mà đi. Thế là vợ chồng nó và đứa con phải ở lại. Sau 30 thánh Tư năm
1975, vợ chồng phó Thập có về Vạn Lộc thăm quê một lần. Phó xuống tận vùng bể
tìm con Sợi và chồng nó tên Hội. Người ta bảo hai vợ chồng nó và đứa con nhỏ đã
bỏ quê đi lâu lắm rồi, chẳng biết bây giờ còn sống hay đã chết. Vợ phó Thập
thương con ngồi rấm rức khóc.
Có ông già ở Vạn Lộc
nói hai vợ chồng Hội-Sợi trốn ra Nam định nhưng bị bắn chết ngay hồi đó, tức
1954. Chuyến đó hai vợ chồng ông già này cùng đi, có vợ chồng Hội-Sợi với đứa
con 2 tuổi và hai gia đình nữa rủ nhau đi trốn nhưng không thoát. Cả thảy 18
người, bị bắn chết 13, chỉ còn ông già và 4 đứa trẻ mồ côi. Vợ ông già cũng bị
đạn, hai ngày sau thì chết.
Vợ chồng phó Thập
nghe câu chuyện thương tâm ngồi khóc lóc chán rồi chẳng biết sao hơn đành lên
máy bay trở lại Sàigòn. Đó là năm 1977.
Từ ngày vào Nam,
phó Thập và gia đình vẫn ở trại Bùi Phát đường Trương minh Giảng.
Năm 1992, phó Thập
đã thành ông cụ gần 90 tuổi. Cụ phó Thập từ ngày vào Nam năm 1954 vẫn còn nghề
mổ heo nhưng cụ không phải làm nữa. Hai anh con trai và anh con rể đảm đang mọi
việc. Cụ phó ngày nào cũng có một bữa đánh chén dù bây giờ cụ uống yếu hơn xưa
nhiều.
Khi di cư vào Nam,
cụ còn lận vào lưng quần được 5 lạng vàng Kim Thành 9999; từ mấy năm nay, cụ
giao cho vợ giữ một nửa, cụ một nửa. Bà cụ lại đi nhờ thợ kim hoàn đánh ra vài
chục cái nhẫn, nhỏ nhỏ vậy lúc muốn bán đi tiêu cũng dễ mà giữ cũng dễ.
Cụ phó Thập dùng một
sợi giây gai rất chắc xâu vài chục cái nhẫn vào với nhau và lận trong người.
Năm 1994, cụ bị bệnh rồi qua đời. Bà cụ Thập và đám con lớn lúc thay quần áo
cho cụ để tẩn liệm, có ý tìm cái xâu nhẫn. Nhẫn vẫn còn đủ số nhưng khi đem ra
tiệm vàng bán thì hàng vàng bảo toàn nhẫn giả, chỉ có dăm cái là vàng thiệt. Cả
nhà sửng sốt. Tìm kiếm nguyên nhân thì ra thằng con trai út rượu chè bài bạc
giai gái, cứ mỗi lần thiếu tiền là về nịnh nọt ông cụ, đổ rượu cho cụ uống xong
cụ ngủ quay ra. Hắn lấy nhẫn vàng và tráo cái nhẫn giả mạ vàng vào đó.
Rõ là thằng con ác
ôn!
Bút Xuân Trần
Hoàng Sa
(Mời đọc: Bọt
Sóng, truyện dài tị nạn, tâm lý, xã hội. Đông A xb 1997, 2 cuốn 665 trang. Có tại
thư viện chính Santa Ana và nhiều thư viện thuộc quận Orange, CA, Hoa Kỳ)
VÀI Ý
KIẾN VỀ VIỆC NHÀ VĂN NHẤT LINH TỰ SÁT
GS Bút Xuân
Trần Đình Ngọc
Xin vắn tắt trả lời
ông Nguyễn tường Thiết, con Nhà Văn Nguyễn tường Tam:
1-Từ 200 năm
nay, tại Việt Nam, chưa có chế độ chính trị nào tốt đẹp, uyên bác và thương dân
như chế độ đệ nhất Cộng Hòa, do Tổng Thống Ngô đình Diệm lãnh đạo.
Những lời bỉ thử
chế độ ấy của Nguyễn tường Thiết là sai lạc, gian dối và do thù hận vì người
cha, thủ lãnh VNQDĐ, Nguyễn tường Tam
tự tử nên ông Nguyễn tường Thiết quá bi phẫn mà sinh ra nói càn. Vội giận mất khôn
là vậy.
2-Tôi không có ân
oán gì với nhà Ngô. Khi hai anh em ông TT Ngô đình Diệm bị bọn phản tướng ngu dốt,
du côn, tham tiền thảm sát (2-11-1963),
lúc đó tôi mới ra trường Võ khoa Thủ Đức
gần một năm (Chuẩn Úy), không gia nhập đảng phái nào ngoài “đảng nhà binh” phục
vụ Quân đội. Tôi cũng chưa hề gặp mặt bất cứ người nào thuộc gia đình họ Ngô và
tay chân, thân tín của họ nên lời tôi nói là trung thực, không bênh ai, chống
ai mà chỉ nói theo lương tâm và Sự Thật.
3-Theo sự hiểu biết
của tôi cùng với bài viết của Người Lính Già Oregon viết rất trung thực, ông
Nguyễn tường Tam nửa muốn làm cuộc đảo chánh với nhóm Caravelle, nửa sợ bị tội,
có nghĩa như bình dân nói: ông vừa đèo vừa run. Ông không dám nhận trách nhiệm,
nếu thành công thì giây máu chia phần, nếu thất bại thì trốn trong Tòa Đại sứ
Trung hoa Dân quốc. Thái độ ấy hơi hèn nhưng ông con (Nguyễn tường Thiết) vì thương
cậu quá (cậu=bố, tiếng Hà Nội) đã bỏ qua những chi tiết ấy.
4-Nhà cầm quyền nào
cũng phải dẹp phản loạn, dù ông là cái gì đi nữa bởi họ phải tự bảo vệ và bảo vệ
dân chúng. Hãy coi bọn VGCS đàn áp những Nhà bất đồng chính kiến ngày nay. Ông
Nguyễn tường Tam đã hoạt động chính trị nhiều năm, có nhiều kinh nghiệm xương
máu với VGCS nhưng ông không hiểu cho những khó khăn của ông Ngô đình Diệm, ông
cũng không nhìn vào phúc lợi của dân miền Nam đang được hưởng do ông Ngô mang lại
mà dẹp bớt tự ái, khép mình theo kỉ luật QG là cái mà các người như ông lẽ ra
phải tôn trọng và giúp ông Ngô thăng tiến Xã hội chứ khg phải lòi ra những ích
kỉ, ghen ghét, cay đắng…vì khg được chia phần giầu sang phú quí (như ông muốn).
Ông Ngô khg tin tưởng được ông sao dám giao Bộ này Bộ kia? Chính ông Ngô cũng sống
một cuộc sống đạm bạc, khi chết chỉ có nửa bao Bastos xanh và cỗ tràng hạt trong
túi, lẽ ra là người biết thương dân, ông Nguyễn tường Tam nên ủng hộ ông Ngô hết
lòng mới phải bởi cùng phe QG cùng có kẻ thù chung là VGCS!
5-Nghe dân chúng hát
bài “Suy tôn Ngô Tổng Thống” ông Nguyễn tường Tam đã ghen tức lồng lộn lên
(Nguyễn tường Thiết mô tả) trong khi kí tên với Nhóm đảo chánh thì ông sợ. Ông
quá ích kỉ và hèn, không xứng đáng là thủ lãnh của lớp thanh niên vì đại nghĩa.
Năm 1946, dù biết HCM Cộng sản, Nguyễn tường Tam vẫn cộng tác để được làm BT
Ngoại giao nhưng với Vẹm thì chỉ là đặt cho có vị để chứng tỏ CP Liên Hiệp đoàn
kết các đảng phái (Nguyễn hải Thần: PCT nước) nhưng sau khi CP Liên Hiệp này ra
đời được vài tháng, ông Nguyễn tường Tam cũng lặn luôn, khg ló mặt ra nữa cho đến
khi ông Diệm đón người di cư thì ông mới chường mặt ra, khg thông cảm cảnh thù trong
giặc ngoài phá hoại mỗi ngày mà làm eo làm sách, đòi đảo chánh một CP Hợp Hiến
hợp Pháp là ông Ngô, gây tai họa cực kì cho dân chúng miền Nam trong đó có gia
đình và bè bạn ông. Ông cũng không hiểu được con người, đi cộng tác với bọn lưu
manh, phản chủ, ngu dốt, thổ tả là bọn
Nguyễn chánh Thi, Vương văn Đông, Nguyễn triệu Hồng mà sau này chỉ tên tướng mặt
thịt gian ác Dương văn Minh cùng những tên Tôn thất Đính, Trần văn Đôn, Lê văn
Kim, Mai hữu Xuân, Đỗ Mậu, Dương hiếu Nghĩa… đồng bọn khố xanh khố đỏ ngu tối,
phản chủ, ma cô và dân sự như Phan quang
Đán… hèn hạ, đáng khinh bỉ hoan nghênh chúng.
6- Ông Nguyễn tường
Tam đã nhận tiền của BS Trần kim Tuyến ra sao? Chưa thấy ông Nguyễn tường Thiết
nói tới nhưng trong bài viết của NLGO có đề cập.
7-Ngày nay, VGCS
vì thấy thần tượng của họ là HCM đã xuống tới đất đen, họ muốn cào bằng nên cho
tay sai đánh phá ông Ngô đình Diệm mà hơn hai chục triệu dân miền Nam ngưỡng mộ
và biết ơn, cũng có thêm hàng triệu người miền Bắc đã biết ông từ 1945-1954
nhưng khg di cư vào Nam được vì bị VGCS ngăn cản. Họ nghe tiếng ông Ngô và muốn
cộng tác với ông.
8-Khi tôi nghe tin
Nhà Văn Nhất Linh vì tức giận với CP Ngô triều mà quyên sinh, tôi thật tiếc cho
ông. Ông không bị tù, bị giam dù có liên hệ (ít hay nhiều) với Nhóm phản loạn.
Ông cũng không biết rằng dù ông ghét cay ghét đắng nhà Ngô do lòng ích kỉ và
ghen tị nhưng nhà Ngô chính là ân nhân, cứu chúa của nhiều triệu người miền Nam
và người Bắc di cư. Hãy cứ nói các con ông Nguyễn tường Tam, khg có nhà Ngô và
đệ nhất CH thì khg có kiến thức như ngày nay, ngay cả Nguyễn minh Triết, nhiều
người CS khác như Kỹ sư Huỳnh tấn Phát, BS Dương quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Nguyễn
Trấn, Huỳnh tấn Mẫm, Nguyễn trọng Nho, Huỳnh tấn Lê, Đào văn Bình, Cao
văn Hở, Nguyễn văn Binh, Lê văn Nuôi, Nguyễn đắc Xuân, Nguyễn hiến Lê, Vương hồng
Sển, Nguyễn ngọc Lan, Vũ Hạnh, Thích nhất Hạnh, Thích minh Châu và hầu hết hàng
tăng lúc đó, ngay cả Bút Xuân này, nếu khg có đệ nhất CH thì chỉ đi làm ruộng.
Giới trí thức do đệ nhất và đê nhị CH miền Nam sản xuất đã giúp nước VN cho đến
ngày nay, khi CS vào miền Nam có số nhân lực này để dùng, bớt lúng túng, và
dùng cho đến ngày nay. Ông Nguyễn tường Tam tự hào là một Nhà Cách mạng, hơn hẳn
HCM, lại một Nhà Văn hóa thông hiểu về Văn hóa giáo dục hơn ai hết, ông khg cổ
võ và khen tặng những việc làm tốt cho đất nuớc và con người mà lại chỉ để ý đến
một bài hát mà bên miền Bắc cũng có để ca ngợi Hồ tặc, đâm ra ghen tức và muốn
làm đảo chánh để lật đổ! Lật đổ không được thì tự sát, phủ công ơn của cha mẹ,
phủ công ơn của nuớc non đã cưu mang, phủ công ơn đồng chí là những người cần
mình và nắm tay mình trên bước đường chiến đấu cam go với kẻ thù chính là VGCS?
Sao ông đã kinh qua rất nhiều, từng ra làm BT Ngoại giao của CP Liên Hiệp do
HCM là CT mà ông còn dại dột, nông nổi như vậy? Tôi thực sự không hiểu với số
tuổi hơn 30 lúc đó, nhưng thật tiếc đứt ruột cho ông khi nghe tin ông uống độc
dược tự sát.
9-Khi ông Nguyễn
tường Tam làm BT Ngoại giao trong CP Liên Hiệp của HCM, ông biết rõ chúng độc
tài tàn ác như thế nào nhưng ông bỏ chạy mà không có một câu phản bác vì đại
nghĩa dân tộc. Trái lại, khi sống dưới chế độ VNCH có đầy đủ tự do, dân chủ,
Nguyễn tường Tam không đi theo con đường ứng cử, bầu cử, trò chơi dân chủ của
thế giới văn minh mà lại tìm cách hất đi, phá đổ bằng bạo lực, tức là đảo chánh
một CP hợp hiến, hợp pháp đang điều hành đất nước thành công, hành sử của bọn
võ biền, vô học đáng bị nguyền rủa. Thái độ đó của một nhà cách mạng, một trí
thức như ông Nguyễn tường Tam, dù chúng tôi kính mến ông mấy về Văn học, cũng
không chấp nhận được. Quấy đảo người hiền lành biết điều để mưu lợi riêng (như
vụ nhận tiền của BS Trần kim Tuyến) nhưng sợ sệt, nhu nhược, trốn chạy với kẻ
ác, kẻ thù của dân tộc (Vẹm), nghĩa là chỉ bắt nạt người hiền mà hèn nhát với đứa
dữ. Thái độ đó, hành sử đó không cách gì biện hộ được. Chín năm trước, năm
1954, lúc quá khó khăn cho CP NĐD, không thấy mặt ông Nguyễn tường Tam đâu. Sau
bao nhiêu nỗ lực, ngay cả suýt bị bắn chết vì âm mưu của VGCS, mới hơi khá khá
vì dân chúng cơm no áo ấm, ông Nguyễn tường Tam lợi dụng lúc đó để đảo chánh.
Chúng tôi nghĩ CP của TT Ngô đình Diệm đã đối đãi hết sức nhân ái với ông Nguyễn
tường Tam mà những kẻ khác không được hưởng ưu đãi như thế. Nhưng ông không biết
mà lại lấy ân làm oán, cố tình tự sát để vu tiếng ác. Ngay như sự suy luận về
cái bức tử của TT Quảng Đức, ông Nguyễn tường Tam cũng đã quá sai rồi. Đọc lá
thư tuyệt mệnh của ông NTT ta thấy rõ điều đó.
10-
Tạp chí Văn Hóa Ngày Nay của Nhà văn NTT,
lúc đầu được dăm số thì bạn đọc phấn khởi nhưng dần dần, đây là người ta
nói, ông Nhất Linh viết kém hẳn đi. Hình như ông khg còn sức hấp dẫn quần chúng
nữa. Văn ông đã tắt lửa cách mạng, có phải vì cả ngày ông chỉ nghe bài suy tôn
Ngô TT mà lòng dạ điên lên khg còn viết gì được (Nguyễn tường Thiết mô tả)
chứ xưa kia, khi cùng với Khái Hưng, ngòi bút của ông trơn tru thế nào
thì nay nó đơn điệu, tù túng, chán nản như thế. Sau mấy số báo, chính tôi (BX)
khg mua nữa vì nó chẳng có gì đáng đọc.
Có lần tôi đã cất công,
bỏ buổi làm đến thăm ông NTT vì ngưỡng mộ văn ông, tính trình bày và xem ý kiến
của ông về vài vấn đề chính trị (lúc ấy hình như ông ở đường Kỳ Đồng, lâu quá
đã quên) nhưng người nhà nói ông đi vắng. Thường thì gia đình ông chỉ thích tiếp
những bậc vị vọng như BS Phiếm, bác Kiểm gì đó như ông Nguyễn tường Thiết mô tả
mà rất ngại phải gặp những đám cùng đinh như tôi. Tôi biết thế, nhưng ra về
lòng vẫn nhẹ nhõm. Gia đình ông Nguyễn tường Tam có cái, hầu như ai cũng
vậy, ông Duy Lam nào đó cũng thế, cứ cho mình là đệ nhất danh gia, chẳng coi ai
vào đâu, ngay cả ông BS Nguyễn tường Bách khi còn sống (bài viết mới đây lại
lòi ra là của một Nguyễn tường Bách khác) mà khg hiểu rằng thiên hạ có rất nhiều
Bái công, chết ông Bái công này còn ông Bái công khác! Mình hơn người ta cái
này, nhưng thua người ta cái khác. Phải nhún nhường mới được trọng vọng.
11-
Cho dù là thực sự ông Ngô đình Diệm có
đàn áp ông Nguyễn tường Tam đi nữa, dù bị nhốt trong tù, ông phải nghĩ cách báo
thù, quật lại, nhẫn nhịn chịu đựng mọi hành hạ của kẻ thù như bỏ đói, bỏ
khát, cùm chân, xiềng xích, nhục mạ v.v… Đó là cách làm của người anh hùng chứ
khg phải đang được tự do với gia đình đầy đủ sung sướng lại giận dỗi quyên sinh
đổ tội cho kẻ thù. Cái đó quá sai và chứng tỏ sự yếu hèn không xứng đáng là một
lãnh tụ VNQDĐ chỉ 33 năm sau Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí anh
hùng Yên Báy!
12-
Tôi đã định viết những ý nghĩ này từ khi
đọc một bài thân hữu của họ Nguyễn tường đổ sống cho ông Ngô đình Diệm liên
quan đến vụ tự sát của ông Nguyễn tường Tam và miệt thị nhà Ngô cạn tầu ráo
máng. Những người đó là sai hoàn toàn bởi khg dùng lí trí và sự công bằng mà
phân tích sự việc mà chỉ căn cứ vào tình cảm yêu, ghét, thù hận, bóp méo tất cả
sự Thật. Nhưng vì bận quá vả lại cũng khg muốn dây dưa nên hôm nay mới gõ được
mấy hàng này.
24-7-2013
GS Bút Xuân Trần Đình
Ngọc
Trích: Bí mật về
vụ Nhất Linh tự sát - Phạm Hải
Đoạn văn sau đây cho
chúng ta biết chính xác lý do ông Nguyễn tường Tam tự tử.
Một sự thật rất ít người biết là gần như suốt cả thời Đệ Nhất Cộng Hoà Việt
Nam thì mỗi tháng Nhất Linh đều nhận được một số tiền mười ngàn đồng bạc từ
văn phòng Nghiên Cứu Chánh Trị do bác sĩ Trần Kim Tuyến điều hành. Số
tiền này được cấp phát cho Nhất Linh để tổ chức một lực lượng đối lập cuội che
mắt Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu. Lực luợng đối lập này đồng thời cũng
được giao cho một căn nhà ở cuối đường Phan Thanh Giản gần cầu ra xa lộ để làm
trụ sở. Nhất Linh “lãnh lương” mỗi tháng và có một cuộc sống khá phong
lưu. Bọn đàn em không được chia chác nên nội bộ trở nên bất hoà. Do
vậy những người này đã đồng lòng khai báo sự thật khi được hỏi cung. Một trong
số những người này khi bị giam ở khám lớn Chí Hoà đã viết thư về cho gia đình kể
rõ sự tình khúc nhôi. Nhất Linh có một cuộc sống cá nhân nhàn nhã nhờ
tiền “trợ cấp” của văn phòng Nghiên Cứu Chánh Trị, trong khi gia đình Nhất Linh
chẳng giầu có gì, bà vợ chỉ buôn bán cau khô tiện tặn
sống chật vật qua ngày mà thôi.
Nhất Linh sợ hãi khi phải đối chất với bọn đàn em không phải vì vài cái biểu
ngữ hay mấy tờ truyền đơn mà vì những đồng tiền từ chính quyền đương thời. Còn
gì là mặt mũi với đàn em thuộc hạ, còn gì là tình nghĩa với những người đã nể
nang trân trọng gia ân cho mình, còn gì là tiếng tăm trong thế giới văn chương
thơ phú và nhất là có còn dám bước ra ngoài đường nhìn mặt đồng bào
không? Nhục nhã và nhơ nhơp quá. Do vậy chỉ có chết là hết
chuyện mà lại còn được vinh danh là anh hùng vì dân vì nước chống “độc tài”, chống
“đàn áp tôn giáo”, chống ‘gia đình trị”.
Sự thật dù trong bất cứ hoàn cảnh và trường hợp nào cũng phải được đề cao
và tôn trọng mặc dù đôi khi đó là những sự thật đắng cay phũ phàng.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết