NHÌN
LẠI SỰ KIỆN TRUNG QUỐC ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA NĂM 1974
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
2015-01-17 Lễ Tưởng Niệm Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974 (262
photos)
|
|||||||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Xuân Thành
Tháng 1 năm 1974, hải
quân Trung Quốc đánh chiếm nốt các đảo thuộc phần phía Tây của quần đảo Hoàng
Sa. Thấm thoắt 36 năm đã trôi qua, lớp bụi thời gian đã phần nào che phủ lên
một sự kiện này, làm nảy sinh một số nhìn nhận và đánh giá sai lầm về một sự thật
lịch sử, gây phức tạp thêm cho quá trình tìm kiếm giải pháp lâu dài cho những
tranh chấp ở biển Đông. Do bị tuyên truyền xuyên tạc và thiếu thông tin, không
ít người Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về chủ quyền của Trung
Quốc. Thậm chí, một nhóm người hiếu chiến ở quốc gia to lớn này còn cho rằng:
cuộc đánh chiếm Hoàng Sa chứng minh rằng dùng vũ lực có thể giải quyết vấn đề
chủ quyền lãnh thổ và có ảo tưởng rằng có thể tiếp tục sử dụng vũ lực để đánh
chiếm nốt biển Đông. Chính vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá sự kiện Trung
Quốc dùng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa một cách thật khách quan vẫn là hết
sức cần thiết để làm sáng tỏ sự thật lịch sử này.
Bối
cảnh lịch sử của trận chiến Hoàng Sa
Trong quá trình rút
khỏi Đông Dương, chính phủ bảo hộ Pháp trao trả chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Sài Gòn từ tháng 10 năm 1950. Quân đội
của chính quyền Sài Gòn cho quân đóng giữ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và
thực thi quản lý nhà nước đối với hai quần đảo này.
Năm 1973, sau khi ký
Hiệp định Paris, Hoa Kỳ rút quân và thiết bị của mình ra khỏi quần đảo Hoàng
Sa. Như vậy, Hoa Kỳ đã coi việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam
Cộng hòa.
Thời gian này đã là
giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hoà
đứng trước nguy cơ thảm bại rõ ràng. Do nhu cầu của chiến cuộc, việc phòng thủ
Hoàng Sa bị suy yếu. Việt Nam Cộng hoà phải rút tiểu đoàn thủy quân lục chiến
tại Hoàng Sa đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ
nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Bên cạnh đó, việc Hoa Kỳ thoả thuận ngầm với Trung Quốc
rằng họ sẽ đứng ngoài cuộc chiến nếu xảy ra đã đẩy Việt Nam Cộng hoà vào thế
hoàn toàn đơn độc. Tình hình đó tạo ra nguy cơ cực lớn cho công cuộc bảo vệ
quần đảo Hoàng Sa; đồng thời cũng tạo thời cơ hết sức thuận lợi cho Trung Quốc
hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ quần đảo này.
Diễn
biến của trận chiến Hoàng Sa
Ngày 11 tháng 1 năm
1974, Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lúc
đó đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của mình. Ngay
sau đó, hải quân Trung Quốc đưa nhiều chiến hạm và tàu đánh cá có vũ trang xâm
nhập hải phận Hoàng Sa.
Ngày 12 tháng 1 năm
1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận
điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc; đồng thời, Bộ tư
lệnh Hải quân của Việt Nam Cộng hoà đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa
để bảo vệ lãnh thổ.
Cả ngày 17 và 18 tháng
1, Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ
tiến sâu vào hải phận phía tây quần đảo Hoàng Sa. Đến nửa đêm 18 tháng 1, hộ
tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện. Trận hải chiến lớn nhất và dữ
dội nhất giữa hải quân Việt Nam Cộng hoà và hải quân Trung Quốc nổ ra vào sáng
ngày 19 tháng 1.
Ngày 20 tháng 1, bốn
phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và
Hoàng Sa … Tiếp đó, binh lính Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của
Việt Nam Cộng hoà trên các đảo này, chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng
Sa. 58 binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hoà đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ
Hoàng Sa.
Sau khi chiếm được toàn
bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã cho đập phá các bia chủ quyền tại quần đảo,
đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người
Việt.
Phản
ứng của phía Việt Nam
Ngày 20 tháng 1 năm
1974, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hoà cũng đã gọi điện và gửi thư
cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị có những
biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm
chiếm Hoàng sa.
Ngày 26 tháng 1 năm
1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố
phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của Việt Nam. Phản ứng trước vụ việc này, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cũng ra tuyên bố “các nước liên quan nên giải quyết mâu
thuẫn bằng đàm phán trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, và quan hệ
láng giềng”. Họ đã không thể làm gì hơn, do Hoàng Sa thời gian đó không nằm
trong quyền quản lý của của mình và họ vẫn cần đến viện trợ quân sự và
kinh tế của Trung Quốc.
Sau khi miền Nam Việt
Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã nhiều lần tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngày 5
tháng 6 năm 1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa – Trường Sa và khẳng
định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay đều do
người Việt Nam quản lý.
Ngay sau đất nước
thống nhất, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vẫn luôn luôn khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa trên biển Đông.
Sự
kiện năm 1974 và vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa
Trong bối cảnh chính
quyền Việt Nam Cộng hoà đang gần đến ngày thảm bại hoàn toàn, Trung Quốc đã
dùng vũ lực đánh chiếm nốt phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Nhìn nhận sự kiện
này dưới bình diện của luật pháp quốc tế, người ta có thể rút ra một số nhận
xét sau:
Một
là, những hành động đánh chiếm các đảo và quần
đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là một sự vi phạm nghiêm trọng điều 2 khoản 4 của
Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của các quốc gia khác. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên
hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các
nước thành viên của Tổ chức Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc, đều phải
tuân thủ.
Nguyên tắc này được
phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của
Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định : “Các quốc gia có nghĩa vụ không
đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc
gia khác hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các
tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan
đến biên giới của các quốc gia”.
Hai
là, hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm
phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm nốt phần phía Tây của
quần đảo này năm 1974 thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt
Nam.
Trước khi Trung Quốc
dùng vũ lực đánh chiếm (năm 1956 và năm 1974) quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
thì quần đảo này đã có chủ. Trước đó vài thế kỷ, Việt Nam đã xác lập và thực
thi chủ quyền của mình một cách thật sự, liên tục và hoà bình đối với
quần đảo Hoàng Sa (và cả Trường Sa). Những tài liệu lịch sử để lại đã chứng
minh rõ ràng rằng Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình trên các quần đảo này
ít ra là từ thời Chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ thứ XVII.
Vào thời kỳ này, Chúa
Nguyễn cử các Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải ra hai quần đảo, mỗi năm khoảng
8 tháng, để khai thác các nguồn lợi, tài nguyên của đảo và những hoá vật từ
những tàu bị đắm. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm
cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Năm 1835, Vua Minh Mạng đã cho xây đền, đặt bia
đá trên hai quần đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được giao thêm cả nhiệm
vụ tuần tiễu, thu thuế trên đảo, bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt
động cho đến khi Pháp vào thống trị Đông Dương.
Cho đến ngày bị Pháp
đô hộ, triều đại phong kiến Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền trên hai
quần đảo này một cách hòa bình, không có nước láng giềng nào cạnh tranh hoặc
phản đối.
Năm 1932, Pháp khẳng
định An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa và sáp nhập quần đảo
này vào tỉnh Thừa Thiên. Năm 1933, Pháp sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà
Rịa. Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về ký hoà ước với Nhật Bản khi đại
biểu một nước lớn đề nghị thảo luận việc bổ sung Dự thảo Hòa ước nhằm mục đích
giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc thì Hội nghị đã bác bỏ
đề nghị đó với tuyệt đại đa số phiếu 46/51.
Tại Hội nghị, khi Nhật Bản tuyên bố
từ bỏ tất cả các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Đại diện Chính phủ
Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu đã chính thức tuyên bố và khẳng định chủ
quyền lâu đời của Việt Nam đối với hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng
phản đối. Sau đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã triển khai đóng quân trên
hai quần đảo, quản lý hai quần đảo theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm
1954; đồng thời luôn khẳng định và thực thi chủ quyền một cách hoà bình và liên
tục đối với hai quần đảo. Năm 1961, Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng
Sa vào tỉnh Quảng Nam, và năm 1973, sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước
Tuy.
Trong khi đó, Trung
Quốc không có bằng chứng lịch sử và pháp lý xác thực nào để yêu sách chủ quyền
đối với quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa). Thực tế là, vào đầu thế kỷ
20, “Đại Thanh đế quốc toàn đồ” xuất bản năm 1905, tái bản năm 1910, đã thể
hiện rất rõ ràng điểm cực Nam của Trung Quốc chỉ là đảo Hải Nam và “Trung Quốc
địa lý học giáo khoa thử” xuất bản năm 1906 ghi rõ điểm mút ở phía nam Trung
Quốc là Châu Nhai, Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18013′ bắc. Các công trình
nghiên cứu chính sử và các sử liệu chính thức của các triều đại phong kiến
Trung Quốc từ đời nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh cho đến
nhà Thanh cũng cho thấy một kết luận tương tự: điểm cực Nam của cương vực Trung
Quốc chỉ đến đảo Hải Nam.
Theo nhiều tư liệu của
Trung Quốc và của các học giả nước ngoài thì phải đến đầu thế kỷ 20, trước sự
đe doạ của chủ nghĩa nghĩa bành trướng Nhật Bản, Trung Quốc mới quan tâm đến
quần đảo Hoàng Sa và đến những thập kỷ 20 và 30 thì mới thể hiện ý đồ tranh
giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp. Cho đến lúc đó thì người Trung
Quốc chưa có hành động thể hiện sự chiếm hữu thực sự nào đối với các đảo ở quần
đảo Hoàng Sa. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào tháng 11 năm 1946, với
lý do giải giáp quân Nhật, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm
(thuộc Nhóm Đông của quần đảo Hoàng Sa và đảo Itu Aba (thuộc quần đảo Trường
Sa) và đến tháng 4 năm 1950 thì rút khỏi đảo Phú Lâm. Sau khi đuổi được quân
đội Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa, năm 1956 chính quyền Bắc Kinh cho quân
đánh chiếm toàn bộ phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.
Ba
là, theo luật pháp quốc tế việc Trung Quốc sử
dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không tạo ra được chứng cứ để
khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để
chiếm đoạt. Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc được trích dẫn ở trên đã nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là
đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy
định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối
tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ
sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử dụng
vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Hành động xâm lược nói
trên không bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển
Đông. Những hành động như vậy đã bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ và chắc
chắn sẽ bị các toà án quốc tế bác bỏ một khi chúng được đưa ra tòa án quốc tế
nhằm minh chứng cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tóm lại, chiếu theo các
quy định của luật pháp quốc tế, có thể nói rằng hành động của Trung Quốc dùng
vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào các năm 1956 và năm 1974 là sự vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc “cấm việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” và bị
coi là “hành động xâm lược”. Dù có chiếm đóng thêm một trăm năm nữa thì
Trung Quốc cũng không có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Những gì thuộc về
Cesar sẽ phải trả về cho Cesar. Quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam phải
trả về cho Việt Nam. Đó là một sự thật lịch sử, không thể nào thay đổi./.
X.T
Văn Tế 74 Tử
Sĩ Việt Nam Cộng Hòa
Hải
Chiến Hoàng Sa
Nguyễn
Phúc Vĩnh Ba
Văn Tế 74 Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa
Hải Chiến Hoàng Sa
Hỡi ơi!
Nhẹ tựa lông hồng,
Nặng tày non Thái.
Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ
bàng hoàng,
Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh
lòng tê tái.
Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,
Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.
Mới hay,
Giòng giống Việt luôn còn nòi nghĩa dũng, thịt tan xương nát sá chi,
Trời đất Nam đâu thiếu bậc anh hùng, máu đổ thây rơi nào
ngại.
Kính các anh vị quốc thân vong
Bày một lễ thâm tình cung bái.
Nhớ các anh xưa,
Tuổi trẻ thanh xuân,
Khí hùng chí đại.
Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,
Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.
Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng,
sao cam lòng để vuột mất đi.
Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày,
quyết tận sức ra gìn giữ mãi.
Từ Chúa Nguyễn sách văn (1) chép rõ, nhân dân Nam từng khai
thác làm ăn,
Đến Pháp Thanh công ước (2) còn ghi, chủ quyền Việt chẳng
luận bàn tranh cãi.
San Francisco hội nghị (3), mừng biết bao, thấy thế giới đồng
lòng,
Việt Nam Quốc gia chính quyền (4), vui xiết kể, đón sơn hà
trở lại.
Thế nên,
Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,
Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.
Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ
kiếp gian nan,
Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền
lòng hăng hái.
Hội khao lề lại trống chiêng bi tráng, tiễn người đi mờ bóng
cuối chân trời,
Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về
trước bãi.
Có ngờ đâu,
Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,
Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài
lẽ phải.
Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo (5), xây đồn đắp
lũy đó đây,
Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ
lải rải.
Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật (6),... giặc đã nuốt tươi,
Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh (6),... chúng đang xơi tái.
Lửa hờn bốc tận thanh vân.
Khí uất tràn đầy thương hải.
Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,
Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.
Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông
pha,
Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư (7) né né tiễn lôi lèo
lái.
Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài” (8)
Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi” (9)
Thế nhưng,
Lực bất tòng tâm,
Thiên dung vô lại (10).
Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều
quân bộn giàn hàng,
Ta mất thế thượng phong, này sóng dữ, này đá ngầm, biển rộng đường xa phải trải.
Ta mất thế thượng phong, này sóng dữ, này đá ngầm, biển rộng đường xa phải trải.
Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,
Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.
Dù như thế ta vẫn quyết thư hùng
Có ra sao mình cứ liều sống mái.
Đùng đoành trọng pháo nổ thấp cao,
Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,
Ngụy Văn Thà (11) trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm
ướt chiến y,
Lý Thường Kiệt (12) lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập
đầy buồng máy.
Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,
Pháo nổ thuyền mình câu vọng lại.
Thương ơi!
Thế lực không cân
Thời cơ cũng trái.
Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,
Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.
Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như
già
Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào
trai lẫn gái.
Công các anh,
Tổ quốc thề không quên,
Toàn dân nguyền nhớ mãi.
Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời
Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.
Máu tử sĩ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang
sơn,
Xương anh linh rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san
bằng oan trái.
Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,
Dân phú túc lúc người luôn thân ái.
Hôm nay.
Sơ sài lời điếu câu văn,
Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.
Xót uy linh, xin tượng tạc bia xây,
Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.
Mong các anh siêu độ tái sinh,
Cầu đất nước dân an quốc thái.
Hỡi ơi!
Xót xa tiếng mất ý còn,
Tha
thiết lòng phơi ruột trải.
Hồn có linh thiêng
Niệm
tình thụ bái.
Huế, ngày 15.01.2015
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
(Tên thật: Vĩnh Ba, An Hòa,
Tp Huế)
Trận Hoàng Sa, biểu tượng hội tụ lòng yêu nước
Trần Gia Phụng
- Trong chiến tranh Việt Nam vừa qua, trận
Hoàng Sa ngày 19-1-1974 tuy ngắn ngủi nhưng là trận chiến chống ngoại xâm duy
nhứt và ngày nay trở thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước của người Việt. Để
thấy rõ các điểm nầy, xin đặt lại trận Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến Việt
Nam vừa qua.
Tính chất cuộc chiến
Việt Nam
Về cuộc chiến 1946-1954, Cộng sản Việt Nam
(CSVN) thường tuyên truyền rằng đó là cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân.
Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Nguyên khi ra mắt chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội do mặt trận Việt Minh (VM)
và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) lãnh đạo, Hồ Chí Minh (HCM) đưa ra ba lời
thề, trong đó lời thề thứ ba là sẽ chống Pháp đến cùng nếu Pháp trở lui nước
ta. Tuy nhiên khi Pháp trở lui, sợ Pháp lật đổ, mất quyền lãnh đạo, đồng thời để
rảnh tay tiêu diệt các thanh phần đối lập, HCM không chống Pháp như lời thề
ngày 2-9, mà thỏa hiệp với Pháp, ký hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đặt Việt Nam
trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp, nghĩa là hợp thức hóa sự
hiện diện của quân đội Pháp ở Đông Dương. Chẳng những thế, để được chắc chắn
yên thân hơn, HCM còn qua Paris, xin ký với Pháp Tạm ước (Modus
Vivendi) ngày 14-9-1946. Hiệp ước nầy để cho Pháp tái tục các hoạt
động kinh tế, tài chánh, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam. Như thế,
rõ ràng, HCM cùng mặt trận VM và đảng CSĐD phản bội có hệ thống lời thề chống
Pháp trước dân chúng ngày 2-9-1945.
Khi quân đội Pháp đến Hà Nội khá đông, xảy ra
những cuộc đụng độ giữa quân Pháp và VM. Pháp yêu cầu VM phải để cho quân đội
Pháp kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Nếu để cho Pháp kiểm soát an ninh thì lãnh đạo
đảng CSĐD và chính phủ VM đang ở Hà Nội, hoàn toàn nằm trong tay Pháp. Lo sợ bị
bắt giữ, nhưng cũng không còn thương thuyết được với Pháp, HCM bí mật họp Trung
ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Đông) trong hai ngày 18 và 19-2-1946, để tham
khảo ý kiến. Không hỏi ý kiến Quốc hội (đại diện toàn dân) hay Ban Thường vụ
Quốc hội, dù Ban Thường vụ Quốc hội luôn luôn có mặt ở Hà Nội, Trung ương đảng
CSĐD quyết định tuyên chiến với Pháp, để có lý do chính đáng bỏ trốn khỏi Hà
Nội.
Cũng không tham khảo Quốc hội, Trung ương đảng
CSĐD còn thông qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, đổ gánh nặng chiến
tranh lên vai toàn dân. Lúc đó, dân Việt chưa biết nhiều về HCM và đảng CSĐD.
Dân Việt vốn có lòng yêu nước và có tinh thần chống ngoại xâm, nên khi nghe lời
kêu gọi kháng chiến, liền đứng lên đáp lời sông núi mà không biết là đã bị HCM
và đảng CSĐD lừa phỉnh, lợi dụng. Nhiều người tản cư vì tránh chiến tranh chứ
không phải theo CS, vì chẳng bao lâu sau đó, họ hồi cư về thành rất đông.
Như thế, cuộc chiến bùng nổ tối 19-12-1946 là
cuộc chiến do đảng CSĐD gây ra, vì quyền lợi sống còn của đảng CS, giữa đảng
CSĐD với Pháp, chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam với Pháp. Nếu kháng chiến
chống Pháp vì lòng yêu nước, thì phải giữ lời thề chống Pháp ngay khi Pháp mới
trở lại Việt Nam, chứ không thương thuyết, ký thỏa ước với Pháp, rồi khi đảng
CSĐD bị đe dọa, mới chống Pháp.
Trong khi đó, đảng CSĐD tiếp tục cuộc tiêu diệt
những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, không cộng sản, từ thành phố đến nông
thôn. Tại thành phố, những nhân vật nổi tiếng bị VM giết đã nhiều. Tại nông
thôn, trong mỗi làng, VM thủ tiêu ít nhất từ 5 đến 10 người, thì trên toàn quốc
Việt Nam, tổng cộng số người bị VM giết có thể lên đến vài trăm ngàn người.
Không thể ngồi chờ để bị giết, vì bản năng sinh tồn, những thành phần theo chủ
nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, ở thế chẳng đặng đừng phải
liên kết với Pháp chống CS, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) năm
1949.
Từ năm 1949, chiến tranh giữa VMCS với Pháp trở
thành chiến tranh ý thức hệ giữa người cộng sản với người quốc gia, kéo dài đến
năm 1954 mới chấm dứt bằng hiệp định Genève (20-7-1954), chia hai Việt Nam tại
vĩ tuyến 17: VNDCCH ở phía bắc, còn gọi là Bắc Việt Nam (BVN) và QGVN ở phía nam,
còn gọi là Nam Việt Nam (NVN). Rõ ràng cuộc chiến nầy không phải là cuộc chiến
chống ngoại xâm.
Cuộc chiến thứ hai 1960-1975 cũng do đảng CSĐD,
dưới tên mới là đảng Lao Động (LĐ), cố tình gây hấn nhằm thôn tính NVN và bành
trướng chủ nghĩa CS. Nguyên hiệp định Genève chỉ có tính cách thuần túy quân
sự, không đưa ra giải pháp chính trị. Giải pháp chính trị được nói đến tại điều
7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương”, theo đó cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước dự tính sẽ được
tổ chức vào tháng 7-1956. Tuy nhiên, bản tuyên bố nầy chỉ được hội nghị thông
qua bằng miệng, chứ không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào cả, nghĩa là bản
tuyên bố chỉ có tính cách gợi ý, chứ không có tính cách cưỡng hành, không bắt
buộc thi hành.
Sau hiệp định Genève, VNDCCH hay BVN cài người,
giấu súng ở lại miền Nam, vi phạm hiệp định Genève, nhưng BVN lại lấy cớ VNCH
hay NVN không chấp nhận tổng tuyển cử, không tôn trọng hiệp định Genève, phát
động chiến tranh lần nữa, xâm lăng NVN vào cuối 1960. Lần nầy, núp dưới chiêu
bài “chống Mỹ cứu nước”, Lê Duẫn, thư ký thứ nhứt đảng LĐ tức đảng CSĐD, xác
định mục tiêu chiến tranh là đánh cho TC, đánh cho Liên Xô. Câu nói của Lê Duẫn
khái quát hết sức đầy đủ mục đích chiến tranh của BVN, làm tay sai cho LX, TC,
và làm nhiệm vụ quốc tế CS.
Như thế, cả hai cuộc chiến 1946-1954 và
1960-1975 đều không chống ngoại xâm, mà chỉ do CS cố tình gây ra nội chiến để
bảo vệ quyền lực và mở rộng quyền lực, bành trướng chủ nghĩa CS, làm tay sai
cho CSQT. Có thể nói cả hai cuộc chiến đều là hai cuộc nội chiến huynh đệ tương
tàn, còn tệ hại hơn cuộc nội chiến thời Nam Bắc phân tranh vào thế kỷ 17, vì
CSVN lồng chủ nghĩa Mác xít vào cuộc nội chiến, tiêu diệt văn hóa dân tộc, làm
tổn hại và tê liệt đất nước.
Trận chiến chống ngoại
xâm
Đảng CSĐD rồi đảng LĐ thành công trong chiến
tranh từ 1946 đến 1975 là nhờ viện trợ lớn lao của khối quốc tế cộng sản
(QTCS), trong đó quan trọng là TC. Ngay từ đầu, TC viện trợ cho CSVN một cách
hào phóng không phải vì nghĩa vụ QTCS, mà vì hậu ý thâm hiểm, điển hình là
tuyên cáo về lãnh hải của TC ngày 4-9-1958, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trên Biển Đông, trong khi thực tế hai quần đảo nầy thuộc Việt Nam từ
lâu đời và theo hiệp định Genève, thuộc NVN vì ở phía nam vĩ tuyến 17.
Để đáp lại, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng (PVĐ)
đưa ra công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận bản tuyên cáo đó, nghĩa là thừa nhận
Hoàng Sa và Trường Sa là của TC, nhắm hai mục đích: 1) Trả nợ cũ thời chiến
tranh 1946-1954. 2) Chuẩn bị vay nợ mới để tiến đánh VNCH hay NVN. Thật vậy,
tháng 10-1959, PVĐ qua Bắc Kinh cầu viện TC. Tháng 11-1959, TC đưa một phái
đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần thiết của
BVN. Tháng 5-1960, lãnh đạo BVN và TC họp ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận
chiến lược tấn công NVN (1). Sửa soạn xong xuôi, BVN triệu tập Đại hội III
đảng LĐ tháng 9-1960, quyết định tấn công NVN.
Các lãnh tụ TC không khác gì các vua chúa Trung
Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng bành trướng xuống ĐNÁ. Lịch sử cho thấy quân
đội Trung Hoa không thắng được quân đội Đại Việt trên đường bộ, nên lần nầy TC
nghĩ đến chiến lược khác, nhìn ra Biển Đông để tìm đường xuống ĐNA.
Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951, TC nhờ
Liên Xô đưa ra đòi hỏi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TC, nhưng bị
bác bỏ. Trong khi đó, chính phủ QGVN lên tiếng xác nhận chủ quyền hai quần đảo
nầy là của QGVN, thì không bị hội nghị phản đối. Sau đó, năm 1958 Mao Trạch
Đông tuyên bố rằng: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình
Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (“Now the Pacific Ocean is not
peaceful. It can only be peaceful when we take it over.”) (2). Trong
cuộc họp với đại diện đảng LĐVN năm 1963, MTĐ nói: “Tôi sẽ là chủ tịch
của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.” Tháng 8-1965, trong
cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSTQ, MTĐ tuyên bố: “Chúng
ta phải giành cho được ĐNÁ, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện,
Mã Lai, Singapore...” (3)
Thời cơ thuận tiện cho TC hành động khi Hoa Kỳ
(HK) mở cửa cho TC vào Liên Hiệp Quốc (LHQ) năm 1971, bắt tay với TC năm 1972,
ký thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, quyết định rút hết quân khỏi Việt
Nam cuối năm nầy và cắt giảm viện trợ cho VNCH. Nhân vào đầu năm 1974, VNCH bận
rộn chống đỡ những cuộc tấn công mạnh mẽ của CSVN sau hiệp định Paris
(27-1-1973), TC đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH trên Biển Đông ngày 19-1-1974.
Tuy biết lực lượng không cân sức, nhưng Hải quân
VNCH vẫn cương quyết bảo vệ Hoàng Sa. Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đồng đội xông
pha chống ngoại xâm và hy sinh trên chiến trường. Trận Hoàng Sa chứng tỏ rõ
ràng VNCH không phải là tay sai của HK. Dù HK bỏ rơi VNCH và bắt tay với TC, quân
đội VNCH vẫn cương quyết chống TC, bảo vệ quê hương. Trận chiến Hoàng Sa chứng
tỏ lòng yêu nước của quân lực VNCH, chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập
dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ cho đất nước.
Sau trận Hoàng Sa, VNDCCH hay BVN không phản đối
TC. Tuy không có mặt trong trận Hoàng Sa, nhưng BVN là kẻ dẫn đường cho TC đến
Hoàng Sa vì công hàm PVĐ ngày 14-9-1958 đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc TC. Hơn nữa, chẳng những BVN vay nợ TC, mà tháng 6-1965 BVN còn nhờ TC
gởi qua BVN 320,000 quân để bảo vệ các tỉnh thành phía bắc trong khi quân đội
CSVN kéo xuống phía nam (4). Thật là ngu xuẩn khi nhờ cậy một tên ăn cướp
giữ nhà, mà tên ăn cướp nầy vốn là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, đã
nhiều lần cướp phá nước ta.
Đây là lần đầu tiên TC chiếm được hải đảo của
Việt Nam, đột phá xuống Biển Đông, nhằm kiếm đường tiến xuống Đông Nam Á (ĐNA).
Đặt trận Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến 1946-1975, mới thấy rõ trận Hoàng Sa
là trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt, do VNCH cương quyết chống TC xâm lăng.
Biểu tượng hội tụ lòng
yêu nước
Trước đây, chế độ CS kiểm soát chặt chẽ truyền
thông, bưng bít tin tức, tuyên truyền và tố cáo VNCH là ngụy quân, ngụy quyền,
làm “tay sai đế quốc Mỹ”, còn Mỹ là “đế quốc xâm lược”. Chế độ CS cũng che giấu
công hàm PVĐ và trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Dân chúng dưới chế độ CS trước
1975 hoàn toàn không biết tin tức ngoài thông tin CS. Trong những năm gần đây,
TC đe dọa Biển Đông, vấn đề Hoàng Sa rộ lên trở lại. Nhờ truyền thông điện tử
(Internet) phát triển rộng rãi, dân chúng mới biết được sự thật lịch sử. Từ đó
dân chúng trong nước nhận ra các điều quan trọng làm thay đổi nhận thức của dân
chúng:
1) Chế độ VNCH và quân lực VNCH không tấn công
BVN, mà chỉ ở thế tự vệ, chiến đấu chống cuộc xâm lăng của BVN, bảo vệ quê
hương, tự do, độc lập cho chính mình, chiến đấu chống TC chống ngoại xâm, quyết
tâm bảo vệ Hoàng Sa, không làm tay sai cho bất cứ ngoại bang nào. VNCH và quân
lực VNCH rõ ràng là một chế độ chính nghĩa và một quân lực chính nghĩa.
2) Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng Hoa Kỳ
(HK) là “đế quốc xâm lược”, nên CSVN mở cuộc chiến tranh “chống
Mỹ cứu nước”. Ngày nay dân Việt nhận biết rằng HK không phải là đế
quốc xâm lược. Hoa Kỳ không xâm lăng nước nào, mà còn giúp nhiều nước sau thế
chiến thứ hai như Đức, Nhật Bản, Triều Tiên phục hưng kinh tế. Hoa Kỳ đến NVN
để giúp NVN xây dựng và phát triển sau 1954. Khi BVN tấn công NVN năm 1960, thì
5 năm sau, HK mới đem quân vào NVN năm 1965, giúp NVN tự vệ chống BVN tràn
xuống NVN, chứ HK không xâm lăng NVN và cũng không xâm lăng BVN. Hoa Kỳ dùng
máy bay tấn công BVN chỉ nhằm mục đích chận đứng cuộc xâm lăng của BVN vào NVN.
3) Chế độ CSVN định nghĩa rằng “yêu nước
là yêu xã hội chủ nghĩa”. Gần đây, ngày 29-12-2014, tổng bí thư đảng CSVN
nói tại Đại hội 7 Hội Liên Hiệp Thanh Niên tại Hà Nội rằng thanh niên “có
“tâm” là có lòng yêu nước, yêu chế độ”. Tuy nhiên, chế độ Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện nay ở trong nước, về đối nội thì độc tài
đảng trị, áp bức và tham nhũng; về đối ngoại thì làm tay sai cho TC, càng ngày
càng làm mất đất, mất đảo, mất biển. Như thế yêu XHCN, yêu chế độ CS chỉ là
tiếp tục bị cảnh độc tài, áp bức, tham nhũng, dân oan và chế độ XHCN tiếp tục
bán nước chứ không phải là yêu nước. Nói cách khác, yêu XHCN là phản quốc chứ
không yêu nước.
4) CSVN tuyên truyền rằng TC là một nước XHCN
anh em. Đã là anh em XHCN với nhau, sao TC lại ức hiếp nhau, chiếm đất, chiếm
đảo, chiếm biển của nhau? Như vậy, TC không thân hữu như lời CSVN tuyên truyền,
mà TC lộ nguyên hình là kẻ thù xâm lược truyền kiếp như vua chúa Trung Hoa ngày
xưa.
Ngày nay, nhờ Internet, tầm nhìn của dân chúng
trong nước mở rộng và hiểu rõ các điểm trên đây, hiểu rõ tình hình chính trị.
Từ đó đồng bào hết sức ca tụng lý tưởng tự do dân chủ và độc lập của VNCH, ca
tụng quân đội VNCH, ca tụng trận chiến Hoàng Sa chống TC xâm lược. Các bloggers
và Facebooker diễn tả hết sức sống động tâm tình của dân chúng. Ví dụ sinh viên
Lê Trung Thành đã viết: “Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao
vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc.” (5). Một nhà
tranh đấu trẻ tuổi khác thì đề cao chính nghĩa quân đội VNCH, và đi đến kết
luận: “Tôi gọi họ là những anh hùng.”(6). Tương tự như thế, một
người dân Hà Nội viết: “Người ta gọi các anh là “quân ngụy”/ Bởi các
anh là lính Việt Nam Cộng Hòa / Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ / Bởi các anh
ngã xuống vì Hoàng Sa.” (7). Còn rất nhiều ví dụ mà chúng ta không
thể trưng dẫn hết ở đây.
Vì vậy, có thể nói trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974
chống ngoại xâm trở thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước của toàn thể người
Việt ngày nay. Qua thế kỷ 21, khuynh hướng chung trên thế giới khuyến khích
những cuộc tranh đấu bất bạo động hơn là việc sử dụng bạo lực. Người Việt Hải
ngoại chúng ta hãy tích cực yểm trợ tinh thần cũng như yểm trợ vật chất tất cả
những cuộc tranh đấu bất bạo động của dân chúng trong nước, đòi hỏi tự do dân
chủ, nhân quyền và dân quyền, nhằm đi đến giải thế chế độ CSVN.
Thử nhìn về tương lai
Thế là TC đã chiếm được Hoàng Sa. Là người Việt
Nam, ai cũng muốn giành lại lãnh thổ đã mất. Trong hiện tình đất nước, giành
lại Hoàng Sa thật là khó khăn vì phải qua hai cửa ải, hai giai đoạn.
Thứ nhứt là CHXHCNVN. Về pháp lý, tuy nắm được
đầy đủ hồ sơ, tài liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, nhưng
CHXHCNVN không dám kiện TC ra Tòa án quốc tế để đòi lại Hoàng Sa. Ngày
19-11-2014, thủ tướng CSVN chỉ dám tuyên bố “vừa hợp tác, vừa đấu
tranh”. Sau đó, ngày 11-12-2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao CHXHCNVN ra
tuyên bố đề nghị Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration)
Liên Hiệp Quốc tại La Haye (Hòa Lan) quan tâm đến các quyền lợi và lợi ích pháp
lý của Việt Nam trên Biển Đông. Hành động nầy được nhà bình luận người Úc
Carlyle Thayer gọi là CHXHCNVN “lách bằng cửa sau” vào vụ kiện giữa Phi Luật
Tân và TC. (RFI 12-12-2014).
Trong khi đó, CSVN thẳng tay đàn áp những cuộc
biểu tình, những bloggers, facebooker chống TC, trấn áp tinh thần yêu nước của
dân chúng. Vì vậy nếu còn CSVN thì không bao giờ có thể đòi lại Hoàng Sa mà
phải dứt khoát chấm dứt chế độ CSVN, mới thoát ra khỏi những cam kết ngầm của
HCM khi cầu viện TC năm 1950, hủy bỏ công hàm PVĐ ngày 14-9-1958, chấm dứt mật
ước Thành Đô của tập đoàn Nguyễn Văn Linh năm 1990, chấm dứt cảnh lệ thuộc TC,
mới có thể chống TC và kiện TC ra tòa án quốc tế. Hiện nay ở trong nước, dân
chúng đang truyền nhau câu đồng dao: "Con ơi nhớ lấy lời cha, / Hễ
còn cộng sản, Hoàng Sa còn Tàu."
Thứ hai là TC. Hiện nay, TC mới trỗi dậy và rất
hưng thịnh. Tuy nhiên trong sự hưng thịnh hiện nay, về đối nội TC cũng gặp bất
ổn vì dân chúng trong nước ngấm ngầm tranh đấu chống độc tài, và vì các sắc dân
chung quanh bị TC sáp nhập như Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng luôn
luôn tìm cách nổi lên đòi độc lập.
Về đối ngoại, chính vì đang hưng thịnh, quá tự
tin, TC càng ngày càng hung hăng trên Biển Đông, chẳng những khiêu khích đe dọa
các nước láng giềng, mà vào tháng 5-2009, TC gởi cho tổng thư ký LHQ một công
hàm yêu cầu chuyển cho tất cả hội viên LHQ, rằng TC có chủ quyền không thể
tranh cãi đối với các hải đảo trên Biển Đông và các vùng biển liền kề, kèm theo
bản đồ 9 khúc do TC thực hiện, nối liền các hải đảo mà TC tự cho là của TC trên
Biển Đông. (Sách báo thường gọi đường 9 khúc là đường chữ U hay Lưỡi bò.) Năm
2011, TC gởi cho LHQ một công hàm nữa, cũng gần giống công hàm trước, yêu cầu
thông báo cho toàn thể hội viên LHQ.
Hành động nầy đi ngược lại quyền lợi chung trên
thế giới do luật quốc tế về biển quy định. Chẳng những Nhật Bản ở Đông bắc Á,
các nước ĐNÁ mà cả HK cũng không chấp nhận đường chữ U do TC vẽ ra. Ngày
4-12-2014, Hạ viện HK thông qua với đa số tuyệt đối 100% nghị quyết H.RES.744,
nhấn mạnh cần phải tìm giải pháp hòa bình trên nền tảng luật pháp quốc tế trong
các cuộc tranh chấp lãnh thổ, hải đảo trên Biển Đông. Hôm sau, ngày 5-12-2014,
Bộ Ngoại giao HK đưa ra Bản nhận định dài 24 trang về yêu sách đường chữ U của
TC. Câu kết luận cuối cùng của bản nhận định như sau: “...đòi hỏi về
đường gạch nối [đường lưỡi bò, chữ U, 9 khúc] không phù hợp với luật quốc tế về
biển.” (Nguyên văn: “...its dashed-line claim does not accord
with the international law of the sea.”) Ngày 23-12-2014, khi trả lời thỉnh
nguyện thư ngày 13-5-2014 của 139.554 chữ ký, Tòa bạch ốc khẳng định: "Hoa
Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, trong đó bao gồm tự do hàng hải, giải
quyết các tranh chấp một cách ôn hòa, tôn trọng luật pháp quốc tế và thương mại
hợp pháp diễn ra thuận lợi… Chúng tôi đã bày tỏ quan ngại trước các hành động
của Trung Quốc, trong đó bao gồm việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981, đến
các cấp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc". (8)
Hiện nay, tuy trỗi dậy và hung hăng, TC không
đồng minh với ai cả, tự cô lập. Nếu có một biến cố xảy ta ở nội địa TC, hoặc
nếu có một cuộc tranh chấp kinh tế, hay một biến cố ngoại giao bất ngờ bùng nổ,
các nước liên minh áp lực TC bằng những biện pháp kinh tế như hiện áp lực Nga,
thì TC có thể sẽ khốn đốn và có thể sẽ đổ vỡ thành nhiều mảnh như Liên Xô trước
đây. Khi đó, Việt Nam mới có thể lợi dụng thời cơ, chiếm lại Hoàng Sa và Trường
Sa.
Kết luận
Do hoàn cảnh chính trị thế giới, VNCH tạm thời
thất bại năm 1975, nhưng chính nghĩa dân tộc, lý tưởng tự do dân chủ của VNCH
là chân lý vĩnh hằng, và là ước mơ của toàn dân Việt Nam.
Chế độ CSVN càng khiếp nhược trước TC, dân chúng
Việt Nam càng thương tiếc những chiến sĩ Hoàng Sa. Trận hải chiến Hoàng Sa là
niềm tự hào dân tộc và là biểu tượng hội tụ lòng yêu nước, dẫn đường cho toàn
dân Việt Nam đoàn kết tranh đấu giải thể chế độ CS, mới có thể đòi lại đất đai,
quần đảo đã mất vào tay TC. Trận chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 giữ một vị trí
lịch sử vô cùng quan trọng trong công cuộc vận động phục hưng đất nước. Xin
thành kính tri ân sự hy sinh của Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ Hoàng Sa.
Trần Gia Phụng
_____________________________________
Chú thích:
(1) Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars,
1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.
(2) Jung Chang and Jon Halliday, The
Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.
(3) Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương “Việt Nam trong
chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.
(4) Qiang Zhai, China & the Vietnam
Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tr. 135.
(5) Đăng trên các website 13-03-2009.
(6) Đặng Chí Hùng, “Tôi gọi họ là những
anh hùng”, Dân Làm Báo 30-3-2013.
(8) BBC Tiếng Việt, 24-12-2014.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết