QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Monday, January 19, 2015

Henry Kissinger — Hướng Tới Một Trật Tự Cho Châu Á: Đối Đầu Hay Đối Tác?

Henry Kissinger — Hướng Tới Một Trật Tự Cho Châu Á: Đối Đầu Hay Đối Tác?



Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979



image





Preview by Yahoo





Henry Kissinger (1923), Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (1969 – 1973), Cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (1973 – 1977), tác giả Hiệp định Paris (1973) và đoạt giải Nobel Hoà Bình (1973). Hiện nay ông là Chủ tịch của Công ty Tư vấn Quốc tế Kissinger Associates Inc. Tác phẩm mới nhất của ông là World Order: Reflections on the Character of Nations and the Course of History, Pengiun Press, 2014, 432 pp. Nguyên tác của bản dịch là CHAPTER 6 – Toward an Asian Order: Confrontation or Partnership?, World Order, 212- 233. (LND)


2015 JAN 12 HKISSINGER CROP 600
Một đặc điểm chung các quốc gia châu Á là họ có ý thức mình là biểu tuợng cho những nước “đang trổi dậy” hay là “hậu thuộc điạ”. Tất cả các nước này đã cố vượt qua một di sản của thời kỳ thuộc địa cai trị bằng cách tự khẳng định về một bản sắc dân tộc hùng cường. 

Các nước này cùng chia sẽ một niềm tin là một trật tự cho thế giới ngày nay đang tái lập một tình trạng quân bình sau khi phương Tây đột nhập bất thường trong nhiều thế kỷ vừa qua, nhưng phương Tây đã rút ra nhiều bài học to tát khác nhau từ trong các cuộc phiêu lưu lịch sử của họ. Khi các quan chức cao cấp cố gợi lại những quyền lợi cốt lõi, một số người trong giới này hướng về truyền thống văn hoá dị biệt và lý tưởng hoá các thời vàng son khác nhau.

Theo các hệ thống chính trị trong châu Âu vào thế kỷ XVIII và XIX, việc bảo tồn một tình trạng quân bình về cán cân quyền lực – và do ảnh hưởng của việc duy trì nguyên trạng – được xem là ưu điểm. Tại châu Á, hầu hết mỗi quốc gia đều bị thúc dục bởi những tính năng động của chính mình. Tự tin là mình đang trổi dậy, các nước này hoạt động trong một niềm tin là thế giới chưa khẳng định một vai trò toàn diện cho mình. 

Thậm chí ngay cả  không có một quốc gia nào tìm hiểu về chủ quyền tối thượng và phẩm giá của các quốc gia khác, tất cả cùng kiên quyết đeo đuổi một chính sách ngoại giao theo kiểu một là thắng và hai là thua, việc đồng loạt thực thi nhiều chương trình xây dựng uy tín quốc gia đưa ra một biện pháp làm thay đổi cho một trật tự trong khu vực. Với sự tiến hoá của nền công nghệ hiện đại, các cường quốc của châu Á đã trang bị cho mình bằng nhiều công xưởng vũ khí quân sự có sức công phá nhiều hơn cả khả năng của một quốc gia châu Âu hùng mạnh nhất vào thế kỷ XIX có được, nhờ thế họ còn gây thêm những nguy hiểm do việc tính toán sai lạc.

Vì thế, tổ chức của châu Á là một thách thức cố hữu cho một trật tự của thế giới. Do tình trạng nhận thức của một số cường quốc và việc theo đuổi quyền lợi quốc gia, đúng ra là do cán cân của quyền lực như là một hệ thống của các nước lớn đã định hình cho một cơ chế về một trật tự mà nó đã phát triển trước đây. Những thử nghiệm của các nước này là chuyện khả thi, cho dù nó có nằm trong quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương hay không, khi nó đem sẽ lại một khuôn khổ hoà bình cho việc tương tác của nhiều lợi ích đã được minh định.

Một Trật Tự Quốc Tế Của Châu Á và Trung Quốc
Trong tất cả những khái niệm về một trật tự cho thế giới ở châu Á, Trung Quốc đã vận hành một ý tưởng bền bỉ nhất, định nghĩa rõ ràng nhất vàsâu xa nhất theo hoà ước Westphalian[i]. Trung Quốc cũng đã theo đuổi một cuộc hành trình phức tạp nhất, từ thời văn minh cổ đại thông qua đế chế cổ điển, cho đến cách mạng Cộng sản, rồi đạt đến tình trạng một cường quốc hiện đại – một tiến trình sẽ có tác động sâu đậm đến nhân loại.

Từ khi Trung Quốc thống nhất như là một thực thể chính trị duy nhất vào năm 221 trước Công nguyên cho đến đầu thế kỷ XX, vị thế trung tâm của Trung Quốc trong trật tự của thế giới đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của giới lãnh đạo đến độ mà không có một từ nào trong Hoa ngữ để diễn đạt cho ý tưởng này. Chỉ qua cách suy tưởng nội quan mà các học giả định nghĩa về một hệ thống triều cống của Trung Quốc trong tinh thần thần phục “Dĩ Hoa Vi Trung“. 

Trong khái niệm truyền thống này, Trung Quốc tự nhận thức mình như là một chính quyền duy nhất có chủ quyền của thế giới. Hoàng đế của Trung Quốc tự xem mình là biểu tượng có tầm vóc hoàn vũ và có vai trò then chốt giữa con người và thần thánh. Tầm nhắm của vua không phải là Trung Quốc, một quốc gia có chủ quyền, – có nghĩa là đặt lãnh thổ dưới quyền cai trị trực tiếp của mình – mà còn “tất cả trong thiên hạ” và trong đó Trung Quốc tạo nên phần chính yếu và văn minh: “một vương quốc ở trung tâm”, nhằm gây nguồn cảm hứng và làm thăng hoa cho phần còn lại cuả nhân loại.

Theo quan điểm này, một trật tự của thế giới phản ảnh một hệ thống quyền lực rộng khắp hoàn vũ, không chỉ đem lại một tình trạng quân bình của các quốc gia có chủ quyền đang cạnh tranh. Mỗi một xã hội, khi được kết thân, được xem là có một loại quan hệ triều cống với Trung Quốc, một phần vì dựa vào sự gần gũi văn hoá, nhưng không ai có thể đạt đến tinh trạng bình đẳng với Trung Quốc. 

Các vương quốc khác không là những nước đồng đẳng có chủ quyền, mà là những học trò nghiêm túc nhất trong nghệ thuật lãnh đạo, phấn đấu hướng tới văn minh. Ngoại giao không phải là một tiến trình thương lượng giữa nhiều quyền lợi tối thượng, nhưng là một loạt các nghi lễ được trù liệu cẩn trọng mà các nước ngoài có cơ hội xác quyết đuợc vị thế của mình trong hệ thống phân cấp quyền lực trong toàn cầu. 

Theo cổ thư của Trung Quốc, để giữ đúng theo quan điểm này, thì những gì mà ngày nay gọi là “chính sách đối ngoại” thì khi xưa là một lĩnh vực thuộc Bộ Lễ, được xác định các sắc thái trong mối quan hệ triều cống, và Vụ Biên Phòng chuyên trách quản lý mối quan hệ với các bộ lạc du mục. Cho mãi đến giữa thế kỷ XIX, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa hề được thành lập và sau đó là nhăm lo cho việc đối phó với kẻ xâm lăng phương Tây. Thậm chí các quan chức coi nhiệm vụ của mình như là cách thực hành theo truyền thống của công tác quản lý người man rợ, không có gì được họ coi như là một chính sách ngoại giao theo hệ thống Westphalian. Một Bộ mới mang danh hiệu “Vụ Quản lý Quốc tế Sự vụ”, có hàm ý là Trung Quốc không tham gia kết ước trong các chính sách ngoại giao liên quốc.

Mục tiêu của hệ thống triều cống là thúc đẩy lòng tôn trọng, không thu tóm lợi lộc kinh tế hay chế ngự xã hội các nước ngoài bằng quân sự. Một thành tựu kiến trúc ấn tượng nhất của Trung Quốc là Vạn lý Trường thành kéo dài với khoảng hơn năm ngàn dặm do Hoàng đế Tần Thủy Hoàng khởi công. Ông là người đánh bại tất cả các đối thủ bằng quân sự, kết thúc thời Chiến Quốc và thống nhất Trung Quốc. Đó là một di chúc huy hoàng về một chiến thắng quân sự, nhưng cũng có những giới hạn cố hữu của nó trong việc biểu thị quyền lực rộng lớn, cùng gắn liền với ý thức về khả năng bị tổn thương.

 Từ ngàn năm nay, Trung Quốc cố tìm cách thu hút và lôi kéo những kẻ đối nghịch nhiều hơn là cố đánh bại họ bằng những sức mạnh quân sự. Dù có những phân tích cơ bản cho thấy là Trung Quốc là một cường quốc có ưu thế quân sự, một vị quan thượng thư thời nhà Hán (206 B. C- A.D. 220) đã mô tả “năm miếng mồi“ mà ông đề nghị để quản lý các bộ lạc từ Hung Nô cho đến biên thùy Tây Bắc Trung Quốc:

“Tặng cho họ … quần áo và xe ngựa để làm mờ mắt họ, tặng cho họ cao lương mỹ vị để làm câm miệng họ, tặng nhạc và dâng gái cho họ để làm bùi tai họ, cho họ nhà cao cửa rộng, kho thóc và gia nhân để lo cho đầy dạ dày của họ … và  đối với kẻ đến hàng phục, nhà vua (nên) bày tỏ ân huệ cho họ bằng cách bày ra yến tiệc tiếp đãi, đích thân nhà vua phải hầu rượu và thực phẩm cho họ để làm họ mềm lòng. Những cách này có thể được gọi chung là năm miếng mồi ngon.“

Một đặc điểm nổi bật trong những nghi lễ ngoại giao của Trung Quốc là lễ khấu đầu,  - qùy gối và đê đầu chạm đất để công nhận quyền tối thượng của Hoàng đế – đó là một sự hạ mình, điểm chắc chắn là nghi thức này là một bước cản trở cho việc bang giao với các nước tân tiến phương Tây. Nhưngkhấu đầu là hành vi tự nguyện có tính cách tượng trưng: Đó là lòng tôn trọng biểu lộ của một người không bị chinh phục khi khiếp sợ. Trong những trường hợp như thế, giá trị triều cống cho Trung Quốc thường vượt quá mức, nếu so với giá trị các quà đáp lễ của nhà vua.

Theo truyền thống, Trung Quốc cố tìm cách chế ngự về phương diện tâm lý bằng những thành quả hay thái độ ứng xử của mình, – thảng hoặc có xen kẻ qua những cuộc hành quân nhằm dạy cho kẻ man rợ ngoan cố một “bài học“ và khiến họ phải tôn kính. Cả hai mục tiêu chiến lược và phương cách cơ  bản để thu phục tâm lý qua một cuộc xung đột có vũ trang này đã được minh chứng gần đây trong chiến cuộc giữa Trung Quốc với Ấn Độ năm 1962 và với Việt Nam năm 1979, cũng như những phương cách mà Trung Quốc xác nhận những quyền lợi cốt lõi của họ đối với các lân quốc.

Mãi cho đến nay, Trung Quốc không là một xã hội mang sứ mệnh truyền giáo theo như nghiã của phương Tây về thuật ngữ này. Trung Quốc cố tìm cách tạo ra sự khâm phục, không tạo sự thay đổi, họ không bao giờ làm sai đường lối tinh tế này. Nhiệm vụ của họ là tạo thành quả mà họ kỳ vọng là ngoại bang sẽ hiểu ra và thừa nhận. Đối với một nước khác thì việc trở thành một người bạn, kể cả là bạn vong niên, đó là chuyện khả thi, nhưng họ sẽ không bao giờ được coi là bạn đồng đẳng với Trung Quốc. 

Chuyện trớ trêu là chỉ có hai nước ngoại gần đạt được một tình trạng tương tự này lại là những kẻ đi chinh phục. Một trong những đặc điểm kỳ diệu của đế quốc văn hoá trong lịch sử là có hai dân tộc chinh phụcTrung Quốc; đó là Mông Cổ vào thế kỷ XIII và Mãn Châu vào thế kỷ XVII; – cả hai bị thuyết phục phải chấp nhận đặc điểm chủ yếu về văn hoá Trung Quốc, vì để làm cho việc cai trị dễ dàng một dân tộc quá đông và quá cương ngạnh, trong khi Trung Quốc giả định về tính ưu việt văn hoá của mình.

 Xã hội Trung Quốc, dù bị đánh bại, những đã đồng hoá được những kẻ đi chinh phục đến mức độ mà các phần lớn trong lãnh thổ nhà bị coi như là theo Trung Quốc từ truyền thống. Trung Quốc không cố tìm cách xuất khẩu hệ thống chính trị của mình, đúng hơn, Trung Quốc nhìn thấy các nước khác tìm đến họ. Theo ý nghĩa này, Trung Quốc mở rộng không bằng chinh phục mà do sự thẩm thấu.

Trong kỷ nguyên hiện đại, vì theo quan điểm về tính ưu việt văn hoá của mình, nên những đại biểu của phương Tây đã bày tỏ việc đưa Trung Quốc tham gia vào hệ thống thế giới thuộc về châu Âu, mà hệ thống này trở thành một cấu trúc cơ bản cho một trật tự cho thế giới. Họ gây áp lực với Trung Quốc nên vun bồi mối quan hệ với các nơi khác trên thế giới bằng cách trao đổi sứ thần, cho tự do mậu dịch và mang lại nhiều hạnh phúc hơn cho dân chúng với việc hiện đại hoá nền kinh tế và mở cửa xã hội để chấp nhận tín ngưỡng Thiên Chúa giáo.

Những gì mà phương Tây quan niệm như một tiến trình khai sáng và kết ước thì được Trung Quốc xem là một cuộc tấn công. Trước tiên, Trung Quốc cố  tìm cách lẫn tránh rồi sau đó chống đối triệt để. Khi George Macartney, đặc sứ Anh Quốc đầu tiên đến Trung Quốc vào cuối thế kỷ XVIII, ông có mang theo một vài phẩm vật đầu tiên của cuộc Cách mạng Công nghiệp và bức thư của Hoàng đế Georg III đề nghị cho tự do mậu dịch và thiết lập sứ quán thường trú cho hai nước tại Bắc Kinh và Luân Đôn. Chiếc tàu của Trung Quốc đưa vị sứ thần này đi từ Quảng Châu đến Bắc Kinh kết đầy hoa có mang biểu ngữ đề chữ xem ông như  là “Sứ thần Anh quốc triều cống cho Hoàng đế Trung Quốc”. 

Vị sứ thần bị thải hồi kèm theo một lá thư gởi cho Hoàng đế nước Anh để giải thích rằng không có vị sứ thần nào được phép lưu trú tại Bắc Kinh, bởi vì “châu Âu gồm có nhiều nước khác ngoài qúy quốc, nếu từng nước một và tất cả các nước cùng xin được có đại biểu tại triều đinh, thì làm sao hoàng triều có thể chấp thuận được? Đó là chuyện bất khả thi.“ Hoàng đế không thấy có nhu cầu cho việc mua bán nào vượt qua giới hạn số lượng nhỏ bé đã được quy định, bởi vì Anh quốc không có mặt hàng gì được Trung Quốc ưa chuộng:

“Dù xoay chuyển trong một thế giới rộng lớn, nhưng trước mắt cụ thể, Trẩm có một mục tiêu là duy trì sự cai trị tốt đẹp và hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước, các mục tiêu xa lạ và tốn kếm đều không làm cho Trẩm quan tâm. Nếu Trẩm ra lệnh cho tiếp nhận các phẩm vật triều cống do qúy quốc gởi tới, đó chỉ là vì Trẩm chiếu cố với tinh thần là những phẩm vật này từ xa gởi tới . . . Như sứ thần của qúy quốc cũng có thể tự thấy được là Trung Quốc có tất cả mọi thứ hàng.“

Sau khi Napoleon bại trận, khi từng bước mở rộng ngoại thương, nước Anh thử tìm một cách khác để mở cửa giao dịch, phái một đặc sứ thứ nhì cùng với những đề xuất tương tự. Phô diễn hải lực của Anh quốc trong chiến tranh với Napoléon đã không làm thay đổi được cách đánh giá của Trung Quốc về sự mong muốn trong quan hệ ngoại giao. Trong khi sứ thần William Amherst không chịu tham dự lễ khấu đầu, xin lỗi vì lấy cớ là ông chưa có bộ phẩm phục dự chầu, nhiệm vụ của ông bị thải hồi, và nước Anh không còn thiết tha gì về bất cứ một nỗ lực ngoại giao nào khác. Nhà vua gởi một thông điệp cho Hoàng tử Nhiếp chính của Anh quốc để giải thích với giọng như là “Đại chuá tể trong thiên hạ”, Trung Quốc không thể bị phiền nhiễu bởi vì phải đưa mỗi vị sứ thần man rợ đi vào trong một nghi lễ trang nghiêm. Sử liệu của hoàng gia ghi nhận là  “Qúy quốc từ đại dương xa xôi đến để đề xuất lòng trung thành của mình và ao ước đạt được trình độ văn minh, “nhưng, (như một ấn phẩm của cơ quan truyền giáo của phương Tây vào thế kỷ XIX đã dịch lại sắc chỉ này):

“Từ nay trở đi, không cần gởi thêm một đặc sứ nào từ phương xa tới, mà kết quả chỉ là phí sức cho chuyến đi. Nếu Qúy quốc có thể, nhưng tâm cókhuynh hướng là tùng phục, thì Qúy quốc được phép gởi sứ bộ đến hoàng triều vào bất cứ lúc nào; đó là cách đích thực để tiến tới văn minh. ĐểQúy quốc có thể tuân phục vĩnh viễn, nay Trẩm ban chiếu chỉ này.”    

Nếu so với chuẩn mực cuả ngày nay thì những lời cảnh báo này dường như là quá kiêu ngạo – và xúc phạm quá mức đối với một nước đã duy trì tình trạng quân bình tại châu Âu và có thể tự xem mình là cường quốc tiên tiến về công nghiệp, kinh tế và hải quân – Hoàng đế tự biểu lộ với cung cách theo như lý tưởng về vị thế của mình trong thế giới mà mình đã chinh phục từ ngàn năm nay và các dân tộc láng giềng bị khiến tối thiểu là phải tuân chiều.

Các cường quốc phương Tây, trong sự xấu hổ của mình, đã mang những vấn đề lên trên vấn đề tự do mậu dịch, khi họ kiên quyết lập luận dựa theo quyền nhập khẩu không bị hạn chế – như là thành quả của tiến bộ phương Tây -, để họ bán bạch phiến, một sản phẩm gây tác hại hiển nhiên nhất. Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh đã xao lãng về một nền công nghệ quốc phòng, một phần là vì họ không bị ai thách thức trong một thời kỳ dài, mà chủ yếu vì quân đội chiếm vị thế thứ yếu theo quan niệm trật tự xã hội của Khổng giáo, như họ diễn đạt qua câu nói: “Sắt tốt không dùng để làm móng tay, người tốt không trở thành lính giỏi”. Ngay khi bị các cường quốc phương Tây tấn công, nhà Thanh xuất tiền trong ngân quỹ quốc phòng vào năm 1893 để trùng tu một chiếc tàu làm bằng cẫm thạch rực rỡ trong cung điện muà hè của hoàng gia.

Do lúc đang bị áp lực quân sự nặng nề nhất thời vào năm 1842, Trung Quốc ký các thoả ước tương nhượng các yêu sách của phương Tây. Nhưng Trung Quốc không từ bỏ ý thức độc tôn của mình và chiến đấu triệt thoái trong ngoan cường. Sau khi ghi được một chiến công có tính cách định đoạt trong chiến tranh 1856-58 (chống lại việc một chiếc tàu có đăng ký tại Anh, bị cáo giác là tịch thu trái phép tại Quảng Châu), Anh kiên quyết theo một thoả ước quy định về một quyền mà họ tranh đấu từ lâu, đó là quyền cho sứ thần được lưu ngụ tại Bắc Kinh. Năm sau, khi đến nhậm chức với đoàn tùy tùng trong khí thế khải hoàn, vị sứ thần Anh nhận ra trên các tuyến đường sông chính hướng về thủ đô bị phong toả bởi những xích và kẽm gai.

 Ông ra lệnh cho lực lượng thủy quân lục chiến Anh dẹp chướng ngại, quân đội Trung Quốc khai hoả, 519 lính Anh chết và 456 người khác bị thương trong trận đánh kế tiếp. Anh liền gởi một lực lượng dưới sự chỉ huy của Lord Elgin đột kích Bắc Kinh và tiêu huỷ cung điện muà hè khi triều đình nhà Thanh bỏ chạy. Việc can thiệp thô bạo này buộc triều đình miễn cưỡng chấp nhận lập một khu vực làm toà công sứ cho các đại biểu ngoại giao lưu ngụ. Sự tùng phục của Trung Quốc trong khái niệm của một chính sách ngoại giao hỗ tương theo hệ thống Westphalian thuộc các quốc gia có chủ quyền là miễn cưỡng và phẫn uất.

Trọng tâm của các tranh chấp này là một vấn đề rộng lớn hơn: Có phải Trung Quốc là một trật tự cho toàn bộ thế giới không, hay chỉ là một nước như những nước khác và là một thành phần trong hệ thống thế giới rộng hơn? Trung Quốc bám chặt vào tiền đề truyền thống. Vào cuối năm 1863, sau hai lần thất trận do cường quốc man rợ và nội loạn tràn lan (loạn Thái Bình) dập tắt được là do lời kêu gọi lực lượng ngoại quốc, Hoàng đế đã gởi một thư tới Abraham Lincoln để đảm bảo với ông về một đặc ân của Trung Quốc: “Vì nhận được mệnh trời để cai trị thế gian, nên Trẩm xem Trung Quốc và các nước khác bên ngoài như là tạo thành một gia đình mà không có phân biệt.”

Năm 1872, James Legge, người Tô Cách Lan, là một nhà Trung Quốc học nổi danh, ông đã nói rõ vấn đề và niềm tin về tính ưu thế hiển nhiên của khái niệm ở phương Tây về một trật tự của thế giới vào thời của ông ta:

“Trong suốt 40 năm qua, vị thế của Trung Quốc trong vấn đề đối với các nước tiên tiến hơn của thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Trung Quốc đã kết ước với họ trong những điều kiện bình đẳng; nhưng nhìn từ bề ngoài bằng một cách công bình, thì tôi không nghĩ là các quan thượng thư và dân chúng của họ vẫn chưa nhìn thấy sự thực này phải đối diện, để họ hình dung một sự thực là Trung Quốc chỉ là một trong số những quốc gia độc lập trên thế giới, và “trong thiên hạ“, Hoàng đế của họ là có quyền cai trị, nhưng không phải là cai trị thiên hạ trong mọi bầu trời, nhưng chỉ là một phần trong bầu trời, như được định nghiã trong bề mặt của trái đất và có thể được chứng minh trên bản đồ.“  

Khi nền công nghệ và trào lưu mậu dịch buộc các hệ thống tương phản tiếp xúc nhau nhiều hơn, thì quy luật của một trật tự thế giới nào sẽ chiếm ưu thế?

Tại châu Âu, hệ thống Westphalia là kết quả tự nhiên của một loạt các quốc gia độc lập trong thực tế sau khi chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc. Châu Á bước vào kỷ nguyên hiện đại mà không có một cơ cấu đặc biệt nào về tổ chức quốc gia và quốc tế. Hệ thống này bao gồm nhiều trung tâm văn minh, được bao bọc bởi các vương quốc nhỏ hơn, với một tập hợp các cơ chế tương tác lẫn nhau trong tinh tế và luôn thay đổi.

Tài nguyên phì nhiêu của vùng đồng bằng Trung Quốc, một nền văn hoá về tinh thần kiên cường lạ thường và sự nhạy bén chính trị tạo khả năng cho Trung Quốc duy trì được một thời kỳ hơn hai ngàn năm và gây ảnh hưởng đáng kể về các mặt văn hoá, kinh tế và chính trị – ngay cả khi Trung Quốc có điểm yếu về quân sự theo chuẩn mực thông thường. Lợi điểm tương đối nằm ngay trong sự thịnh vượng của nền kinh tế, nó sản xuất những sản phẩm mà tất cả các lân quốc mơ ước. Định hình theo những yếu tố này, tư tưởng của Trung quốc về một trật tự của thế giới hoàn toàn khác biệt với kinh nghiệm của châu Âu, khi họ dựa trên đa số của các nước bình đẳng.

Vở kịch của Trung Quốc phải đương đầu với thế giới phương Tây phát triển và Nhật Bản là ảnh hưởng của các đại cường quốc, mà họ có tổ chức như là các quốc gia có chủ trướng bành trướng văn minh. Thoạt đầu, Trung Quốc thấy cạm bẩy của một nhà nước hiện đại như là một sự hạ mình cho họ. Sự trổi dậy của Trung Quốc về đặc điểm ưu việt trong thế kỷ XXI không là chuyện mới, nhưng là tái lập lại một khuôn mẫu lịch sử. Điểm đặc sắc là Trung Quốc trở thành một người thừa kế một nền văn minh xa xưa  và còn là một siêu cường hiện đại theo mô hình của hoà ước Westphalian. Trung Quốc kết hợp những di sản của khái niệm “Gồm thâu Thiên hạ”, hiện đại hoá kỹ trị, và một mưu cầu để tổng hợp hai nhiệm vụ này cho đất nước trong thế kỷ XX đầy những biến động bất thường.

Trung Quốc và Một Trật tự Của Thế Giới
Chế độ hoàng triều sụp đổ vào năm 1911. Sự thành lập chế độ Cộng hoà Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên vào năm 1912 đã để lại cho Trung Quốc một chính quyền trung ương yếu kém và mở đầu một một thập niên của các sứ quân. Vào năm 1928 dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, một chính quyền trung ương mạnh hơn được thành lập và cố tạo điều kiện cho Trung Quốc đảm nhiệm một vị thế trong khái niệm theo hoà ước Westphalian về một trật tự của thế giới và trong một hệ thống kinh tế toàn cầu. Nỗ lực để trở thành một Trung Quốc vừa hiện đại vừa giữ được truyền thống, Trung Quốc cố thích nghi vào trong một hệ thống quốc tế, mà hệ thống này tự nó đang nằm trong biến động. Tuy nhiên, tại thời điểm này, Nhật Bản đã tiến hành chương trình hiện đại hoá sớm hơn nửa thế kỷ, nay đã nỗ lực dành quyền bá chủ châu Á.

 Theo sau hành vi chiếm đóng Mãn châu vào năm 1931 là hàng loạt các cuộc xâm chiếm của Nhật Bản trải dài từ vùng Trung nguyên và phía Đông Trung Quốc vào năm 1937. Chính phủ Quốc Dân Đảng bị ngăn trở trong việc củng cố vị thế, và loạn quân Cộng sản có được phạm vi hoạt động. Dù trổi dậy như một cường quốc của Đồng minh thắng trận với sự kết thúc của thế chiến thứ hai vào năm 1945, Trung Quốc bị phân hoá do nội chiến và hỗn loạn cách mạng mà nó gây thách thức cho tất cả các mối quan hệ và các di sản.

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949 tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản thắng trận, tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc với với các lời lẽ: “Nhân dân Trung Quốc đã đứng dậy”. Mao đề ra khẩu hiệu này khi Trung Quốc thanh lọc và tự lực tăng cường qua giáo điều của “cuộc cách mạng liên tục“ và tiến hành loại bỏ các khái niệm đã thành hình trước đây về trật tự quốc nội và quốc tế. Toàn bộ của các phạm vi thuộc về thể chế đều bị công kích: nền dân chủ phương Tây, sự lãnh đạo của Liên Xô trong thế giới Cộng sản và một di sản về quá khứ của Trung Quốc. Nghệ thuật và các lăng tẩm, các ngày lễ hội và truyền thống, ngôn ngữ và y phục bị cấm đoán qua nhiều hình thức khác nhau, tất cả bị cáo buộc là gây ra tinh thần thụ động khiến cho Trung Quốc không chuẩn bị đối phó ngoại xâm. 

Trong khái niệm của Mao về một trật tự, điểm mà ông gọi là một “sự hoà hợp vĩ đại“, có âm hưởng triết học cổ điển của Trung Quốc – một Trung Quốc hiện đại sẽ vươn lên thoát khỏi sự hủy diệt của truyền thống văn hoá Nho giáo mà nó nhấn mạnh đến sự hài hoà. Ông tuyên bố rằng mỗi đợt sóng của nỗ lực cách mạng sẽ phục vụ như người đi tiên phong cho các đợt sóng cách mạng theo sau. Mao lập luận là tiến trình cách mạng phải được tăng tốc, vì sợ rằng những nhà cách mạng sẽ tự mãn và lười biếng: “Tình trạng bất quân bình là một qui luật tổng quát và khách quan.” Mao viết:

Chu kỳ này không kết thúc, nó phát triển từ tình trạng bất quân bình sang tình trạng quân bình rồi thì từ quân bình lại sang bất quân bình. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ mang đến cho chúng ta một trình độ phát triển cao hơn. Tình trạng bất quân bình là bình thường và tuyệt đối trong khi tình trạng quân bình là tạm thời và tương đối. 

Kết cuộc, biến động này nhằm để mang lại một loại thành quả theo truyền thống Trung Quốc: một hình thức của chủ nghĩa Cộng sản thuộc về đặc thù nội tại cho Trung Quốc, tự đặt tách ra cho mình một hình thức độc tôn của hành vi ứng xử mà nó thay đổi là do thành tựu của mình, trước kia Trung Quốc có độc quyền về luân lý, nay độc quyền này mang tính đạo đức cách mạng, một lần nữa nó làm xoay trong khái niệm về “Gồm thu Thiên hạ”

Mao chỉ đạo các vấn đề quốc tế bằng cách đặt nhiều tin cậy tương tự vào tính độc tôn của Trung Quốc. Về mặt khách quan, dù Trung Quốc là yếu, nếu đo với sức mạnh của các nơi khác trên thế giới, Mao kiên quyết nhấn mạnh về vai trò trọng yếu của Trung Quốc qua tính ưu việt về mặt tâm lý và ý thức hệ, nó được biểu hiện qua việc thách thức nhiều hơn là hoà hợp với thế giới, một thế giới đang nhấn mạnh đến uy quyền kinh tế tối thượng. Khi phát biểu trong một hội nghị quốc tế của các lãnh tụ Đảng Cộng Sản tại Mạc Tư Khoa vào năm 1957, Mao gây chấn động cho các đại biểu tham dự bằng cách tiên đoán là trong trường hợp có biến cố với chiến tranh hạt nhân, là quốc gia đông dân nhất và có nền văn hoá kiên cường, Trung Quốc sẽ là người chiến thắng sau cùng, và Trung Quốc không thay đổi tiến trình cách mạng ngay cả khi hằng trăm triệu dân bị thương vong. 

Trong khi lời tuyên bố này có phần nào là đánh lừa các nước có những công xưởng vũ khí hạt nhân rộng lớn nản lòng, Mao muốn thế giới tin là Mao nhìn vấn đề chiến tranh hạt nhân với lòng bình thản. Vào tháng 7 năm 1971 – trong chuyến viếng thăm bí mật của tôi tại Bắc Kinh – Chu Ân Lai đã đúc kết khái niệm về trật tự thế giới của Mao bằng cách viện dẫn lời của Mao Chủ tịch về tầm nhìn của các vị hoàng đế Trung Quốc với gịong điệu miã mai: “Cả trong thiên hạ đang hỗn loạn, tình hình là tuyệt vời”. Từ trong một thế giới nhiễu nhương, Cộng Hoà Nhân Dân, được rèn luyện qua nhiều năm tranh đấu, cuối cùng sẽ đứng lên đạt chiến thắng, không phải chỉ ở Trung Quốc, mà còn khắp mọi nơi “trong thiên hạ”. Trật tự thế giới theo thuyết Cộng sản sẽ hoà quyện với quan điểm truyền thống của hoàng triều.

Giống như nhà sáng lập triều đại đầu tiên hùng cường nhất của Trung Quốc (221-207 trước Công nguyên) là Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, Mao cố gắng thống nhất Trung Quốc, trong khi ông cũng tìm cách phá hoại truyền thống xa xưa mà ông cáo buộc là làm cho Trung Quốc bị suy yếu và sĩ nhục. Ông trị vì theo một phương cách từ xa giống như cách của bất cứ vị Hoàng đế nào (dù các vị Hoàng đế không cần triệu tập quảng đại quần chúng), ông kết hợp cách này với những cách áp dụng của Lenin và Stalin. Cách cai trị của Mao thể hiện nhiều khó khăn trong việc tiến thoái của đấu tranh cách mạng. 

Những thay đổi do cách mạng càng càn quét bao nhiêu, thì Mao càng gặp chống đối bấy nhiêu. Sự chống đối này không nhất thiết là do giới đối kháng thuộc về ý thức hệ hay chính trị, nhưng còn do sự trì trệ của người trong Đảng. Nhà tiên tri cách mạng đã đem cái chết của mình ra để thách thức nhằm tăng tốc cho lịch trình hành động và nhân rộng hơn về những phương tiện để thực hiện viễn kiến của mình. 

Mao tung ra chiến dịch Bước Tiến Nhãy Vọt đầy tai hoạ vào năm 1958 để buộc phải công nghiệp hoá nhanh chóng và Cách mạng Văn hoá vào năm 1966 để thanh trừng giới lãnh đạo, tất cả nhằm ngăn ngưà tiến trình thể chế hoá trong một chiến dịch ý thức hệ dài cả hằng chục năm, lưu đày một thế hệ trẻ có trình độ học vấn lui về nông thôn. Hàng chục triệu người chết trong khi theo đuổi mục tiêu của Mao – hầu hết bị loại trừ mà không kể thương hay ghét, buộc phải kết liễu cuộc đời, những gì mà đến nay được xem là một quá trình lịch sử.

Những cuộc cách mạng thắng lợi khi thành quả cách mạng được bảo đảm và cái giá phải trả cho thành quả này được xem như không thể tránh được. Một số nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đã chịu đựng những tổn thất khá nặng nề trong thời Cách mạng Văn hoá, nhưng hiện nay, họ trình bày rằng đau khổ đem lại cho họ sức mạnh và khám phá chính mình để tự rèn luyện cho các nhiệm vụ khó khăn về lãnh đạo một thời kỳ khác của sự chuyển hoá toàn diện. Và dân chúng Trung Quốc, đặc biệt giới trẻ đã trực tiếp trải nghiệm gian lao, dường như họ chấp nhận sự mô tả Mao chủ yếu như là một mẫu người kết hợp nhân danh phẩm giá Trung Quốc. 

Khiá cạnh nào của di sản này là có ưu thế – thách thức của chủ nghĩa Mao trêu chọc cho thế giới hay sự kiên cường trong thầm lặng, mà đặc điểm này đạt được qua thời kỳ biến động của Mao – và sẽ đóng vai trò quyết định mối quan hệ của Trung Quốc về một trật tự của thế giới trong thế kỷ XXI.

Trong thời kỳ đầu tiên của cuộc Cách mạng Văn hoá, Trung Quốc tự chọn có bốn vị đại sứ trên toàn thế giới và đối đầu với hai siêu cường có hạt nhân là Hoa Kỳ và Liên Xô. Vào cuối thập niên 1960, Mao thừa nhận Cách mạng Văn hoá đã làm cạn kiệt khả năng chịu đựng của người Hoa mà họ đã được thử thách qua hàng ngàn năm trước và sự cô lập của Trung Quốc gây thu hút cho ngoại quốc can thiệp. Mao cố tìm cách khắc phục bằng một tinh thần ngoan cố theo ý thức hệ lẫn sự thách thức. 

Năm 1969, Liên Xô dường như đang sắp tấn công Trung Quốc khiến cho Mao phải sơ tán các Bộ về các tỉnh, và chỉ có Thủ tướng Chu Ân Lai còn ở lại Bắc Kinh. Để đối phó với cuộc khủng hoảng này, Mao phản ứng lại với cách chuyển chiều hướng bất ngờ thật đặc biệt. Ông chấm dứt mọi khía cạnh vô chính phủ nhất của Cách mạng Văn hoá bằng cách dùng quân đội dẹp tan Hồng Vệ Binh, lực lựợng đã gây tai biến – đưa họ về nông thôn, nơi mà họ lần đầu tiên tham gia chung với các nạn nhân thuở trước của họ, mà kỳ thực, là làm trong các trại lao động cưỡng bách. Và ông cố trấn áp Liên Xô bằng cách chuyển hướng về một đối thủ mà từ trước đến nay ông luôn phỉ báng, đó là Hoa Kỳ.

Mao ước tính rằng việc mở cửa cho Hoa Kỳ sẽ chấm dứt sự cô lập của Trung Quốc và các nước khác có được một sự biện minh để công nhận Công Hoà Nhân Dân Trung Quốc. (Một điểm thú vị là khi tôi đang chuẩn bị chuyến đi lần đầu tiên, một bản phân tích của CIA cho là những xung đột Liên Xô và Trung Quốc đang căng thẳng, nên dễ làm cho sự xích lại của Hoa Kỳ và Trung Quốc thành khả thi, nhưng sự cuồng nhiệt về ý thức hệ của Mao sẽ ngăn trở tiến trình này trong suốt cả đời ông)

Những cuộc cách mạng, cho dù có sức càn quét đến đâu chăng nữa, cần phải được cũng cố, rút cuộc, các lúc sôi nổi cần phải thích ứng cho những gì có thể duy trì được qua thời gian. Đó chính là vai trò lịch sử mà Đặng Tiểu Bình đã đóng. Dù ông đã hai lần bị Mao thanh trừng, hai năm sau khi Mao chết vào năm 1976, ông trở thành nhà lãnh đạo có hiệu năng. Ông nhanh chóng tiến hành cải cải cách kinh tế và mở cửa xã hội. Theo đuổi những gì mà ông gọi là “Xã hội chũ nghiã với đặc trưng Trung Quốc”, ông cởi trói những năng lực tiềm tàng của người dân Trung Quốc. Không đầy trong vòng một thế hệ, Trung Quốc thăng tiến để trở thành một nền kinh tế mạnh hàng thứ nhì trên thế giới. Để tăng tốc sự chuyển hoá đầy ngoạn mục này, – nếu không nhất thiết là do niềm tin – Trung Quốc hoà nhập trong các thể chế quốc tế và chấp nhận những quy luật đã được quy định cho một trật tự thế giới.

Tuy nhiên, sự tham gia của Trung Quốc theo những đặc điểm của cấu trúc của hoà ước Westphalia mang đến cho họ một sự mâu thuẩn đã phát sinh trong lòng lịch sử. Trung Quốc đem khía cạnh này khi tham gia vào hệ thống nhà nước trên chính trường quốc tế. Trung Quốc không quên rằng từ ban đầu họ bị buộc phải kết ước với một trật tự quốc tế sẳn có theo cách hoàn toàn trái ngược với hình ảnh lịch sử của họ, hoặc đối với những nguyên tắc của hệ thống Westphalia đã được thừa nhận, họ cũng chiụ y như vậy. Khi bị thúc dục tham gia vào “quy luật của cuộc chơi” và “trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế, các phản ứng nội tại của số đông người Trung Quốc – kể cả các giới lãnh đạo cao cấp – họ đã bị ảnh hưởng cực kỳ sâu đậm bởi nhận thức rằng Trung Quốc đã không tham gia trong tiến trình lập pháp cho hệ thống. 

Khi họ được yêu cầu – và, như là một vấn đề thận trọng, họ đồng ý – tuân thủ luật pháp mà họ đã không tham gia trong việc lập pháp. Nhưng họ kỳ vọng rằng – và sớm muộn gì họ sẽ hành động đúng theo ước vọng này – một trật tự quốc tế phát triển theo cách tạo điều kiện cho Trung Quốc trở nên là người tham gia chủ động trong công tác lập pháp, ngay cả việc duyệt xét lại một số các luật lệ đang hiện áp dụng.

Trong khi chờ đợi việc này thành hình, Bắc Kinh ngày càng tích cực hơn trên chính trường thế giới. Với sự trổi dậy của Trung Quốc là cường quốc kinh tế có tiềm năng mạnh nhất trên thế giới; hiện nay, trong từng diễn dàn quốc tế, người ta tìm kiếm các quan điểm và hỗ trợ của Trung Quốc.

 Trung Quốc đã tham gia  một vài khía cạnh có tính cách phô trương uy thế trong những hoạt động của phương Tây trong thế kỷ XIX và XX: thí dụ như đăng cai tổ chức Thế Vận hội, các nhà lãnh đạo đọc diễn văn trước diễn đàn Liên hiệp quốc, thăm viếng hỗ tương giữa các nguyên thủ quốc gia và các chính quyền của các cường quốc khắp thế giới. Dù theo chuẩn mực nào, thì Trung Quốc cũng đã lấy lại được một tư thế đã nổi danh trong nhiều thế kỷ với những ảnh hưởng sâu rộng nhất của mình. Vấn đề đặt ra trước mắt là Trung Quốc sẽ ứng xử với một trật tự thế giới như thế nào trong sự tìm kiếm hiện nay, đặc biệt nhất là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ.


Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai trụ cốt thiết yếu cho một trật tự của thế giới. Điểm đáng chú ý là cả hai nước cùng thể hiện trong lịch sử một thái độ nước đôi để hướng tới một hệ thống quốc tế mà hiện nay họ đem lại sự ổn định, bằng cách là họ xác định những kết ước cho hệ thống này, ngay cả khi họ dành quyền xét đoán những khiá cạnh của việc phác thảo. Khi Trung Quốc được yêu cầu phải đóng một vai trò như là một quốc gia chủ chốt trong số các quốc gia khác cho một trật tự của thế kỷ XXI, họ không có tiền lệ cho vai trò này như một quốc gia quan trọng trong số các quốc gia khác. Hoa Kỳ cũng không có kinh nghiệm trong việc tương tác với Trung Quốc dựa trên cơ sở lâu dài, một nước  có cùng trong một tầm vóc tương tự, khả năng gây ảnh hưởng và thánh tựu kinh tế, mà Trung Quốc có những mô hình về trật tự quốc nội hoàn toàn dị biệt.

Các nền tảng chính trị và văn hoá của hai phiá khác biệt nhau trong các khía cạnh quan trọng. Đường lối của Hoa Kỳ hướng về chính sách là thực tiển; phương sách của Trung Quốc dựa theo khái niệm. Hoa Kỳ không hề có một lân quốc hùng mạnh nào đe doạ; Trung Quốc không hề có một kẻ nghịch thù hùng mạnh nào ngay biên giới. Người Mỹ cho là mỗi một vấn đề đều có giải pháp; người Hoa nghĩ rằng mỗi một giải pháp là một cơ hội mở ra thêm một loạt vấn đề mới.

Người Mỹ tìm kết quả đáp ứng với tình hình trước mắt; người Hoa tập trung giải quyết trên sự thay đổi tuần tự tiến hoá. Người Mỹ phác thảo một chương trình nghị sự với các đề mục thực tiễn “có thế chuyển giao được“ cho đối tác; Người Hoa đề ra những nguyên tắc tổng quát và phân tích tìm ra ở đâu họ sẽ lãnh đạo. Suy nghĩ của nguời Hoa một phần định hình do chủ nghĩa Cộng sản, nhưng bao gồm cả cách suy nghĩ theo truyển thống của Trung Quốc đến một mức độ mà nó ngày một gia tăng. Cả hai điểm này không nằm trong trực giác quen thuộc của người Mỹ.

Trong lịch sử của hai nước, chỉ mới gần đây, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tham gia toàn diện trong một hệ thống quốc tế của các quốc gia có chủ quyền. Trung Quốc tin rằng mình là độc tôn và hàm chứa chủ yếu là có một thực tại riêng biệt. Hoa Kỳ cũng thế, cũng tự coi mình là độc nhất – có nghĩa là “một ngoại lệ“ -. nhưng với một nghĩa vụ đạo đức để hỗ trợ cho giá trị này khắp thế giới với nhiều lý do ngoài phạm vi biện luận vì nhân danh chính nghĩa quốc gia là thể diện. Hai xã hội to lớn với những nền văn hoá dị biệt và với những cơ sở làm tiền đề khác nhau, cả hai đang tiến hành điều chỉnh những vấn đề nền tảng thuộc phạm vi quốc nội, cho dù liệu rằng hành vi này được chuyển sang thành cạnh tranh hay là đem lại một hình thức mới của quan hệ đối tác hay không, chủ yếu nó sẽ định hình cho một triển vọng về trật tự của thế giới của thế kỷ XXI.

Kể từ khi có cuộc cách mạng, thì hiện nay thế hệ thứ năm đang lãnh đạo Trung Quốc. Mỗi nhà lãnh đạo trước đây đã đãi lọc những tầm nhìn đặc biệt của thế hệ về nhu cầu của Trung Quốc. Mao Trach Đông kiên quyết bứng tận gốc các thể chế đã hình thành, kể cả thể chế mà ông đã xây dựng trong gia đoạn đầu của chiến thắng, vì ông e rằng thể chế sẽ gây trì trệ do các chiều hướng quan liêu của Trung Quốc. 

Đặng Tiểu Bỉnh nhận ra rằng Trung Quốc không thể đãm nhận vai trò lịch sử của mình, trừ khi Trung Quốc dấn thân trong các vấn đề quốc tế. Phong cách của Đặng là tập trung mạnh vào chủ điểm: không phô trương uy thế, vì sợ rằng các nước ngoài sẽ lo âu – không yêu sách làm lãnh đạo, nhưng mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách hiện đại hoá cả xã hội lẫn nền kinh tế. 

Dựa trên cơ sở này, Giang Trạch Dân, người được bổ nhiệm trong cuộc khủng hoảng Thiên An Môn, đã khởi động vào năm 1989 một chính sách ngoại giao cá nhân của mình trong tầm vóc quốc tế và mở rộng cơ sở của Đảng Cộng Sản trong phạm vi quốc nội để khắc phục hậu quả. Ông ta lãnh đạo Trung Quốc tham gia vào một hệ thống quốc tế và mậu dịch quốc tế như là một thành viên toàn phần. Là người do Đặng tuyển chọn, Hồ Cẩm Đào khéo léo xoa dịu những quan tâm về quyền lực của Trung Quốc ngày một tăng lên và gây dựng cơ sở cho một khái niệm về khuôn mẫu mới của mối quan hệ giữa các siêu cường, do Tập Cận Bình đề xuất.

Dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình, ông cố xây dựng các di sản này bằng cách thực hiện chương trình cải cách rộng lớn theo quy mô của Đặng. Trong khi từ bỏ dân chủ, ông ta dự phóng một hệ thống sẽ hình thành với nhiều minh bạch mà kết quả được xác định bởi thủ tục pháp lý nhiều hơn là do một khuôn mẫu theo những mối quan hệ cá nhân và gia đình đã có. Việc này đưa ra những thách thức đối với một vài thể chế đã hình thành và  hoạt động – thí dụ như thuộc về xí nghiệp quốc doanh, dựa thế vào các quan chức địa phương, và tham nhũng tràn lan – bằng cách ông kết hợp viễn kiến với lòng can đảm, nhưng chắc chắn mang lại cho cải cách một thời kỳ có nhiều phương tiện dồi dào và bất trắc.

Thành phần của giới lãnh đạo Trung Quốc phản ảnh sự tiến triển của Trung Quốc nhằm hướng tới việc tham gia và ngay cả việc định hình trong các vấn đề quốc tế. Năm 1982, không có một thành viên nào của Bộ Chính trị có trình độ đại học. Lúc tôi viết sách này thì hầu hết những người này đã có trình độ đại học, một số nhân vật quan trọng đã có trình độ cao học. Văn bằng đại học ở Trung Quốc dựa theo giáo trình theo kiểu của phương Tây, không phải là di sản của hệ thống quan lại củ, (hoặc là giáo trình theo Đảng Cộng Sản mà họ áp đặt nhồi nhét trí thức theo hình thức của họ). 

Việc này biểu hiện một sự thanh toán triệt để với quá khứ của Trung Quốc, trong khi người Hoa đã bị buộc chặt và tự hào về những nhận thức của họ về thế giới ngoài những phạm vi gần gũi. Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay bị ảnh hưởng bởi những kiến thức của họ về lịch sử Trung Quốc, nhưng họ không bị giam hãm trong hoàn cảnh của lịch sử.

Một Triển Vọng Lâu Dài
Nhưng xung đột tiềm tàng giữa một cường quốc đã thành hình và một cường quốc đang nổi lên không phải là chuyện mới. Điều không thể tránh được là cường quốc đang trổi dậy chạm phải một số lĩnh vực mà từ trước đến nay được xem là dành độc quyền cho cường quốc đã thành hình. Cũng tương tự như vậy, cường quốc đang trổi dậy nghi ngờ đối thủ của mình có thể dẹp tan sự tăng trưởng của mình trước khi quá trể. Một công trình nghiên cứu của Đại học Harvard chứng minh rằng có 15 trường hợp trong lịch sử, khi cường quốc đã thành hình và đang trổi dậy va chạm nhau, thì có đến 10 trường hợp là kết thúc bằng chiến tranh.

Chính vì thế mà không ngạc nhiên gì khi thấy những nhà tư tưởng chiến lược có tầm vóc của cả hai phiá đề xuất những quy cách ứng xử và kinh nghiệm lịch sử để tiên đoán những xung đột không thể tránh được giữa hai xã hội. Về phiá Trung Quốc, một vài hành động của Hoa Kỳ được giải thích như là một phác thảo một mô hình nhằm ngăn chận sự trổi dậy của Trung Quốc, và sự cổ vũ của Hoa Kỳ trong lĩnh vực nhân quyền được xem như là một đề án làm suy yếu cấu trúc chính trị quốc nội của Trung Quốc. Một vài nhân vật chủ yếu mô tả cái gọi là chính sách chuyển trục của Hoa Kỳ như là khúc dạo đầu trong màn trình diển chót để đọ sức nhằm buộc Trung Quốc phải chịu vị thế thứ yếu thường trực – một thái độ để càng đáng được chú ý nhiều hơn, bởi vì Hoa Kỳ không liên hệ đến bất cứ một cuộc tái phối trí quân sự nào đáng kể vào lúc mà tôi viết tác phẩm này.

Về phiá Hoa Kỳ, có nỗi lo sợ là Trung Quốc càng lớn mạnh sẽ làm suy yếu tính ưu việt của Hoa Kỳ một cách có hệ thống và chính vì thế ảnh hưởng đến tình hình an ninh của Hoa Kỳ. Khi so sánh tình trạng tương tự như Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các phe nhóm chủ chốt nhìn ra rằng khi Trung Quốc quyết tâm đạt được việc chế ngự quân sự cũng như kinh tế trong tất cả những vùng lân cận, vàcuối cùng thì từ đó họ kết luận Trung Quốc là bá quyền.

Cả hai phiá đều tăng cường những cuộc thao diễn quân sự và chương trình quốc phòng trong khi có những ngờ vực nhau. Trong tình trạng bình thường, ngay khi cả hai nước có những biện pháp bảo vệ quyền lợi quốc gia một cách hợp lý, – khi sự bảo vệ này được hiểu một cách đại thể – thì họ giải thích theo những điều kiện của những kịch bản tồi tệ nhất. Mỗi phiá phải có trách nhiệm cho vấn đề bảo vệ, vì e rằng những huy động và ứng xử đơn phương của họ làm leo thang thành một cuộc chạy đua vũ trang.  

Hai phiá cần hấp thụ từ trong lịch sử của thập niên trước thế chiến thứ nhất, khi một bầu không khí ngờ vực ngày càng hiện dần và đối đầu tiềm ẩn gia tăng đến độ thành thảm hoạ. Các nhà lãnh đạo của châu Âu bị sập trong một cái bẩy do cách lập kế hoạch quân sự của mình và họ không có khả năng để tách các khó khăn của chiến thuật ra khỏi kế hoạch của chiến lược.

Có hai vấn đề khác đang góp phần cho sự căng thẳng trong mối quan hệ Trung Quốc và Hoa Kỳ. Trung Quốc từ bỏ một đề nghị mà trong đó một trật tự quốc tế được thúc đẩy do sự lan toả của nền dân chủ tự do và cộng đồng thế giới phải có nghĩa vụ thực hiện, và đặc biệt nhất là nó sẽ đạt được một tình trạng nhận thức về nhân quyền bởi các tác động quốc tế. Hoa Kỳ có thể điều chỉnh cách áp dụng quan điểm của mình về các vấn đề nhân quyền trong mối quan hệ với những ưu tiên thuộc về chiến lược. Nhưng trong ánh sáng của lịch sử và niềm tin của dân chúng, Hoa Kỳ không bao giờ từ bỏ tất cả những nguyên tắc chung này. Về phiá Trung Quốc, giới lãnh đạo nhìn chủ đề này đúng theo như lời của Đặng Tiểu Bình phát biểu:

Thực ra, chủ quyền tối thượng của quốc gia là quan trọng hơn các vấn đề nhân quyền, nhưng nhóm Bảy hay Tám cường quốc thường vi phạm quyền tối thượng của các quốc gia nghèo và yếu của thế giới thứ Ba. Những thuơng thảo của họ về các vấn đề nhân quyền, tự do và dân chủ chỉ nhằm đặt ra để bảo vệ quyền lợi của các quốc gia giàu mạnh. Họ tận dụng sức mạnh của mình để dọa nạt nước yếu hầu theo đuổi bá quyền và thực hiện chính trị theo quyền lực.   

Không một thỏa hiệp chính thức nào có thể đạt được giữa các quan điểm này; giử sao cho những bất hoà tránh thành xung đột gia tăng là một trong những nghiã vụ chính của các nhà lãnh đạo của cả hai phiá.

Một vấn đề trước mắt quan hệ đến Bắc Hàn, mà một câu cách ngôn của Bismarck từ thế kỷ XIX chắc chắn là áp dụng được: “Chúng ta đang sống trong thời gian kỳ diệu mà kẻ mạnh là kẻ yếu vì sự thận trọng, và kẻ yếu thành kẻ mạnh do sự táo bạo.“ Bắc Hàn cai trị không theo nguyên tác chính thống được chuẩn nhận, thậm chí cũng không theo nguyên tắc của Cộng Sản như họ tuyên bố. Thành tựu chính của họ là xây dựng một vài thiết bị hạt nhân. Bắc Hàn không có khả năng quân sự để gây chiến với Hoa Kỳ. Những sự tồn tại các vũ khí này có ảnh hưởng chính trị vượt xa hơn những tiện ích quân sự.

 Họ gây khích lệ tác động cho Nhật Bản và Nam Hàn tạo khả năng hạt nhân quân sự. Họ khuyến khích Bình Nhưỡng chấp nhận rủi ro không cân xứng với khả năng của mình, gây thêm nguy hiểm cho một cuốn chiến khác trên bán đảo Triều Tiên.

Đối với Trung Quốc, Bắc Hàn là hiện thân của các di sản phức tạp. Trong nhãn quan của một vài người Hoa, chiến tranh Hàn quốc được xem là một biểu tượng về lòng quyết tâm của Trung Quốc nhằm kết thúc “một thế kỷ bị sĩ nhục“ và “trổi dậy“ trên chính trường thế giới, nhưng cũng là một lời cảnh báo chống lại các việc tham chiến mà về nguồn gốc thì Trung Quốc không thể kiểm soát được và các hậu quả có thể kéo dài nghiêm trọng và ngoài dự kiến.

 Đó là lý do tại sao Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng một quan điểm tại Đại Hội Đồng Bảo An LHQ trong việc đòi hỏi Bắc Hàn từ bỏ – không cắt giảm – chương trình hạt nhân.

Đối với chế độ Bình Nhưỡng, từ bỏ vụ khí hạt nhân có thể liên hệ đến tình trạng phân hoá chính trị. Nhưng từ bỏ là chuyện rõ ràng, đó là những gì mà Hoa Kỳ và Trung Quốc công khai đòi hỏi trong các Nghị Quyết của LHQ mà họ đã hỗ trợ. Hai nước cần phối hợp các chính sách của mình để dự phóng trong trường hợp mà các mục tiêu đề ra được thực hiện. Liệu việc này có thể kết hợp các quan tâm và các mục tiêu của hai phía về vấn đề Hàn quốc? 

Liệu Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể tiến hành một chiến lược hợp tác cho một Hàn Quốc giải giới vũ khí hạt nhân và thống nhất, để cho tất cả các phe phái sống trong an bình và tự do hơn không? Đây là một biện pháp quy mô nhằm hướng tới “một khuôn mẫu mới cho các mối quan hệ của cường quốc”, một sách lược thường được đề cập nhưng việc hình thành còn quá chậm.

Những nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ nhận ra rằng họ không tài nào biết được phản ứng của dân chúng Trung Quốc đối vối chương trình nghị sự quá rộng lớn, họ đang chèo chống trong một vùng biển lạ. Họ không muốn tìm kiếm những cuộc phiêu lưu ở nước ngoài, nhưng họ sẽ chống lại mọi sự thâm nhập vào những lĩnh vực mà họ định nghĩa như là quyền lợi cốt lõi, có lẽ với tinh thần quyết liệt hơn các vị tiền nhiệm; nói một cách chính xác hơn, bởi vì họ cảm thấy có trách nhiệm giải thích các điều chỉnh không thể tách rời khỏi chương trình cải cách qua việc nhấn mạnh về quyền lợi quốc gia. Bất cứ một trật tự quốc tế nào bao gồm cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều phải có liên hệ đến tình trạng quân bình của cán cân quyền lực, nhưng việc điều hành xưa củ của việc quân bình cần phải được giảm nhẹ bằng cách thoả thuận dựa trên luật lệ và thúc đẩy bởi các yếu tố của hợp tác.

Những nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và Trung Quốc đã thừa nhận công khai là quyền lợi chung của hai quốc gia đang phác hoạ một kết quả xây dựng. Hai vị Tổng Thống của Hoa Kỳ (Barack Obama và George W. Bush) đã thoả thuận với hai vị tương nhiệm Trung Quốc (Tập Cận Bình và Hồ Cẩm Đào) để tạo ra một quan hệ đối tác chiến lược tại khu vực Thái Bình Dương, làm thành một cách cho việc duy trì tình trạng quân bình trong khi giảm bớt đe doạ quân sự cố hữu trong vấn đề. Tính đến nay, các bảng tuyên bố về ýđịnh chung không phù hợp với các bước cụ thể trong chiều hướng đã thỏa thuận.

Quan hệ đối tác không thể nào thành tựu do bảng tuyên cáo. Không một thoả ước nào có thể bảo đảm cho một quy chế đặc biệt cho Hoa Kỳ. Nếu Hoa Kỳ đến lúc cảm nhận mình là một cường quốc đang suy vi – một vấn đề có do chọn lựa, không phải là chuyện định mệnh – Trung Quốc và các nước khác sẽ thành công trong việc lãnh đạo thế giới, một tình trạng mà Hoa Kỷ đã hành sử hầu như trong suốt một thời kỳ sau thế chiến thứ hai sau một thời kỳ giữa hỗn loạn và biến động

Nhiều người Hoa có thể thấy Hoa Kỳ là một siêu cường vượt qua đĩnh cao của mình. Tuy nhiên, trong giới lãnh đạo của Trung Quốc, họ cũng công nhận là Hoa Kỳ sẽ duy trì khả năng lãnh đạo quan trọng trong tương lai gần. Nền tảng cho việc xây dựng một trật tự cho thế giới tốt đẹp không phải là do một quốc gia duy nhất, không phải là do Hoa Kỳ mà cũng không phải là do Trung Quốc có đủ tư thế tự mình đảm nhận vai trò lãnh đạo thế giới theo cách mà Hoa Kỳ đã thực hiện thời kỳ ngay sau khi Chiến tranh Lạnh, khi mà Hoa Kỳ còn có những ưu điểm nổi bật cả về kinh tế lẫn tâm lý.

Tại Đông Á, Hoa Kỳ không hẳn là một cán cân, một thành phần không thể thiếu để đạt tới tình trạng quân bình. Những chương trước đây đã chứng minh được của tình trạng quân bình là mong manh, vì số lượng các thành phần tham gia là các nước nhỏ và thay đổi lòng trung thành có thể trở thành yếu tố quyết định. Một phương sách thuần túy về quân sự cho tình trạng quân bình tại Đông Á dường như sẽ dẫn đến việc liên kết, thậm chí nó còn cứng rắn hơn so v ới sự liên kết đã gây ra thế chiến thứ nhất.

Tại Đông Á, có một cái gì đó đang tiến gần tới tình trạng quân bình trong cán cân quyền lực giữa Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, và Hoa Kỳ, với những thảnh viên ngoại vi là Liên Xô và Việt Nam. Nhưng tinh trạng này khác biệt với tình trạng quân bình trong cán cân quyền lực thuộc về lịch sử mà nó có một thành viên chủ yếu là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có trọng tâm hấp lực của mình, nằm xa với trọng tâm điạ lý của Đông Á – và trên hết, dù lực lượng quân sự của hai nước tự cảm nhận là kẻ thù thông qua các tạp chí quân sự và trong các lời tuyên bố cũng nói về về mối quan hệ đối tác như là một mục tiêu của các vấn đề chính trị và kinh tế.

 Vì vậy, việc xãy ra là Hoa Kỳ là một đồng minh của Nhật Bản và tuyên dương xem Trung Quốc như một bạn đối tác,  - một tình trạng tương tự như dưới thời Bismarck khi ông liên minh với Áo để tạo quân bình với Liên Xô do một thoả ước. Nghịch lý rõ ràng vì tình trạng mơ hồ duy trì được tính cách mềm dẻo cho tình trạng quân bình tại châu Âu. Và sự từ bỏ này – khi nhân danh sự minh bạch – tạo nên hằng loạt các cuộc đối đầu ngày càng gia tăng, mà cao điểm là thế chiến thứ nhất.

Trong hơn một thế kỷ, – kể từ khi có chính sách Mở Cửa và trung gian hoà giải của Theodore Rossevelt về chiến tranh giữa Liên Xô và Nhật Bản – đã có một chính sách cố định của Hoa Kỳ để ngăn ngừa tình trạng bá quyền tại châu Á. Trong tình trạng hiện nay, Trung Quốc có một chính sách không thể tránh được để kiềm chế các lực lượng có tiềm năng đối đầu là làm tìm cách cho nó càng xa biên giới càng tốt. Cả hai nước di động trong phạm vi này. 

Duy trì hoà bình tùy thuộc vào mức kiềm chế mà hai quốc gia theo đuổi những mục tiêu và trong khả năng đảm bảo là có tình trạng cạnh tranh trong phạm vi chính trị và ngoại giao.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, lằn ranh phân định được định nghiã qua các lực lượng quân sự. Trong thời kỳ hiện đại, lằn ranh không nên được định nghiã chủ yếu là do sự  phối trí bằng quân sự. Thành tố quân sự không nên được quan niệm như là một định nghiã duy nhất hay chính yếu cho tình trạng quân bình. Chuyện nghịch lý là khái niệm về quan hệ đối tác cần có một thành tố của tình trạngquân bình mới cho cán cân của quyền lực, đặc biệt là tại châu Á, – một đường lối nếu áp dụng như nguyên tắc bao quát -, sẽ là khái niệm quan trọng như chưa từng có trước đây.

 Sự kết hợp về một chiến lược nhằm đem lại tình trạng quân bình trong cán cân quyền lực với một sách lược ngoại giao về quan hệ đối tác sẽ không thể thay đổi các khiá cạnh thù nghịch, nhưng nó có thể lảm giảm nhẹ tác động này. Trên hết, sự kết hợp này sẽ đem lại cho những nhà lãnh đạo của Trung Quốc và Hoa Kỳ những kinh nghiệm trong sự hợp tác xây dựng và mang đến cho hai xã hội một đường lối xây dựng hướng tới một tương lai bình ổn hơn.

Một trật tự luôn đòi hỏi về một tình trạng quân bình trong sự kiềm chế, sức mạnh và tính chính thống với tất cả tinh tế. Tại châu Á, cần phải có sự kết hợp một tình trạng quân bình trong cán cân quyền lực với một khái niệm về quan hệ đối tác. Một định nghiã của tình trạng quân bình thuần túy về mặt quân sự sẽ chuyển dần sang một tình trạng đối đầu. Một khảo hướng thuần túy về mặt tâm lý cho quan hệ đối tác sẽ gây thêm lo sợ về nạn bá quyền. Giới lãnh đạo khôn ngoan phải cố tìm cách đạt được tình trạng quân bình này. Ngoài tình trạng quân bình này ra, thì tai họa tất sẽ đến.
Đỗ Kim Thêm dịch


Từ Staline Tới Putin

2015 JAN 15 joseph-staline.jpg V3002015 JAN 15 Vladimir_Putin_-V300
Joseph Staline
Nước Nga, một giải đất rộng mênh mông bát ngát chiếm 1/6 diện tích thế giới, một đất nước vĩ đại vô cùng lạnh lẽo, một dân tộc bất hạnh chịu nhiều tang thương đau khổ bị dầy vò xâu xé vì chiến tranh cách mạng, chịu nhiều thảm kịch núi xương sông máu qua những thập niên dài đằng đẵng.

Mùa đông nước Nga lạnh nhất thế giới, thường là bốn, năm chục độ dưới số không. Họ có một nền văn chương giầu vào bậc nhất trên thế giới với nhiều nhà văn hào, thi hào vĩ đại như Léon Tolstoi, Dostoievsky, Pouchkine, Sholokhov… đã được cả thế giới nhất là Tây phương vô cùng ngưỡng mộ.

Thời Nga hoàng, đất nước, xã hội không văn minh bằng Anh, Pháp,  cuộc cách mạng tháng 2-1917 nhà lãnh đạo Kerensky lật đổ Nga Hoàng, từ tháng 3 tới tháng 5 ông làm Bộ trưởng tư pháp và chiến tranh, tháng 7 làm Thủ tướng một chính phủ tư sản. Tháng mười 1917 Kerensky bị Lénine cướp chính quyền lật đổ. Người ta thường hiểu lầm cuộc cách mạng vô sản hay cách mạng Bolshevik lật đổ Nga hoàng, thực ra chính quyền tư sản lật đổ chế độ phong kiến (tháng 2) sau đó nhóm Marxist mới cướp lại chính quyền từ tay tư sản (tháng 10).

Mới đầu các lý thuyết gia Mác xít tưởng cách mạng vô sản sẽ nổ ra tại Đức, một nước công nghiệp, nơi phát sinh lý thuyết Marx Engels. Đúng lý thuyết một nước muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa phải là một nước tư bản công nghiệp vì họ có sắn nhiều xưởng máy có khả năng sản xuất nhiều của cải vật chất tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế cách mạng lại diễn ra tại Nga một nước nông nghiệp lạc hậu, sau đó nó cũng phát sinh tại Trung Hoa, Việt Nam … những nước lạc hậu nông vi bản. Những nước nghèo đói, xã hội thối nát là những miếng mồi ngon của Cách mạng, có người nói.

“Con vi trùng Cộng Sản chỉ sinh sôi nẩy nở trong những đống rác xã hội hôi thối”
Lý thuyết vô sản chỉ sống được trong những môi trường dơ bẩn thối tha, những nước Nga, Tầu, ViệtNam, Cuba… nghèo nàn đói rách, xã hội đầy bất công là môi trường thuận lợi nhất cho cách mạng. Những nước này tiến lên Xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn tư bản.

Sau cách mạng 1917 nước Nga lâm vào một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài từ 1917 cho tới 1922 giữa khoảng 4 triệu lính Hồng quân và 2 triệu rưỡi Bạch Vệ. Khi cuộc chiến kết thúc Hồng quân có một triệu hai và Bạch vệ một triệu rưỡi người tử trận.

Joseph Stalin được cử làm Tổng bí thư Trung ương đảng từ 1922, ông củng cố địa vị mạnh sau khi Lénine chết năm 1924, xóa bỏ những lời kết tội của Lénine. Di chúc Lénine được soạn đầu năm 1923 trong đó có đề nghị truất Staline ra khỏi chức Tổng bí thư Trung ương đảng. Tháng 3-1923 Lénine bị liệt, cuối cùng bản di chúc không loại được Staline khi Lénine mất tháng 1 năm 2014, vợ Lénine muốn di chúc phải được đọc trước Đại hội đảng lần thứ 13, tháng 5 năm 1924. 

Năm 1926 Staline bị áp lực phải cho đọc bản di chúc trước kỳ họp của Trung ương đảng. Staline đã củng cố địa vị của ông ta những năm cuối thập niên 20, kết án những ai trích dẫn di chúc này coi như phản động.

Sau khi Nikita Khrushchev hạ bệ Staline tại Đại hội đảng kỳ 20 năm 1956, chính phủ cho chính thức in lại di chúc. Từ 1926 bản di chúc đã được đăng đầy đủ trên báo New York Times, trong bộ Lénine tuyển tập, bản dịch tiếng Việt do Hà Nội ấn hành thập niên 70 có ghi lời Lénine;
“Chúng ta không dùng đồng chí Staline nữa, đồng chí Staline là một người thô bạo”

Sau năm 1924 Staline cho xóa bỏ những chỉ trích kết án của Lénine, Staline làm Tổng bí thư cho tới 1952 khi chức này bị bỏ vào năm 1952, ông ta đồng thời làm Thủ tướng từ 1941. Dưới thời Staline, lý thuyết chủ trương chỉ thực hiện xã hội chủ nghĩa trong nước thôi được chấp nhận từ 1924, trái ngược với Léon Trosky chủ trương tiến lên vô sản hóa toàn thế giới.

 Staline thay đổi chính sách kinh tế mới của Lénine bằng chính sách kinh tế chỉ huy tối đa, xúc tiến một giai đoạn công nghiệp hóa và hợp tác xã để biến nước Nga thành một cường quốc kỹ nghệ. Staline đã đưa nước Nga phong kiến lạc hậu lên hàng cường quốc kỹ nghệ nhưng phải trả giá quá đắt, ông đã làm đổ máu khoảng 10 triệu người.

Thập niên 1930, một thập niên đẫm máu ghê tởm nhất của lịch sử nước Nga khi Staline tiến hành thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể tiến lên  làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Staline cho lệnh tiêu diệt những thành phần ăn bám, chống đối, lừng khừng, phản động …Đây là giai đoạn đoạn bắn giết tập thể theo kế họach của Staline. 

Sau này Tổng thống Nga Gorbachov tố cáo Staline tắm trong máu, ông cho biết đã thấy danh sách tử hình dài do Staline ký hàng loạt, trong khoảng 1937-1941 có tới 11 triệu người bị giết.

Churchill viếng Kremlin năm 1942,  Staline thú thực với ông đã có 10 triệu người bị đổ máu trong giai thực hiện Hợp tác xã, ông nói không thể làm khác hơn được. Phim The Soviet Story nói trong khi ấy tại Đức Hitler theo dõi và khâm phục Staline, trong một khoảng thời gian không dài lắm đã giết được nhiều người như thế.

Năm 1932-33 Staline đã gây nạn đói tại Ukraine khiến 7 triệu người chết. Từ 1934-1939 Staline mớ những cuộc thanh trừng vĩ đại, đẫm máu trong đảng, trong chính phủ, quân đội, ngành tình báo….nhiều triệu người bị coi là kẻ thù của nhân dân bị tù đầy bắn giết trong các trại tập trung từ 1936-1939. Ông ta mở chiến dịch chống kẻ thù trong các khuôn mặt lớn của Đảng CS như các Bolsheviks lão thành, Léon Trosky và phần lớn các Tướng lãnh Hồng quân. Họ bị xử tử với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền, Trosky trốn sang Mễ Tây Cơ bị Staline cho ngưòi tới ám sát năm 1940.

Năm 1939 Staline đàm phán với Anh Pháp để lập liên minh chống Đức Quốc Xã nhưng thất bại, ông ký hòa ước với Đức tháng 8-1939. tháng sau Staline cho chiếm đông Ba Lan trong khi Đức chiếm phía tây Ba Lan.

Hitler trở mặt  mở chiến dịch Barbarossa  tấn công Sô Viết ngày 22-6-1941 với đạo quân khổng lồ 180 Sư đoàn bộ binh và cơ giới (70% lực lượng) nhưng Staline lại thờ ơ không tin mấy. Quân Nga mặc dù đông nhưng trang bị lỗi thời đã bị Đức đè bẹp ngay từ đầu. Khởi đầu chiến dịch cho tới những ngày gần chót khi quân Đức đã tiến sát Mạc Tư Khoa trong gần nửa năm, họ đã bắt được khoảng 3 triệu tù binh Nga.

Đầu tháng 12-1941, quân Đức  chỉ còn cách Mạc Tư Khoa 18 dặm Anh (30km), cả thành phố hốt hoảng tưởng như địch sắp vào tới nơi, Hitler đắc thắng tuyên bố “Cộng Sản Nga đang dẫy chết”. Thế giới nín thở, người ta cho rằng nước Nga đã thua trận, khoảng hơn 200 Sư đoàn chủ lực đã bị đánh tan rã. Nhờ tin tình báo của Tiến Sĩ Sorge cho biết quân Nhật ở Mãn Châu sẽ không tấn Nga như đã dự trù. Staline cho rút 40 sư đoàn tại đây về tăng cường cứu nguy Mạc Tư Khoa, chuyển bại thành thắng, đẩy lui được quân Đức ra xa hằng 100km. Trận Moscow kéo dài từ tháng 10-1941 cho tới tháng 1-1942 Hitler cho tiến xuống chiếm Stalingrad phía nam, vì tiến quá xa thiếu tiếp tế, bị Nga bao vây từ tháng 8-1942 tới đầu tháng 2-1943 quân Đức đầu hàng, Staline thắng một trận lớn nhưng thiệt hại quá nặng, khoảng nửa triệu lính tử trận, nhiều hơn toàn bộ số binh sĩ tử trận của Mỹ trong suốt Thê chiến (400 ngàn). Những năm 1942, 1943 đất nước trở thành bãi chiến trường đẫm máu cho các trận đánh long trời lở đất giữa hàng trăm sư đoàn Nga-Đức.

Những tháng đầu 1944, quân Đức phải rút về phía tây vì thiệt hại nặng, thiếu tiếp liệu, Staline đã đuổi được quân thù ra khỏi đất nước.

Không ai ngoài Staline có thể lãnh đạo thắng lợi trận chiến mà họ gọi là Cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại, Great Patriotic War nhưng với cái giá quá cao. Theo tài liệu do Liên Xô đưa ra là 20 triệu người trong đó một nửa là dân, một nửa là lính (sách báo Liên xô tại Saigon sau 1975) nhưng theo Tây phương tổng cộng có 27 triệu người Nga bị giết trong cuộc Thế chiến (phim Anh-Mỹ: World War II Behind Closed Doors). Ngoài ra (theo tài liệu Nga) có hơn 1,000 tỉnh, thị xã, quận huyện Nga bị phá hủy.  Sự lãnh đạo sắt máu tàn bạo của Staline không kể gì tới sinh mạng người dân mà chỉ cần tiến tới mục tiêu chiến thắng.

Thế chiến thứ hai gần kết thúc, Staline họp với Roosevelt, Churchill tại hội nghị Yalta, Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để nhờ phụ Mỹ đánh quân Nhật tại Á châu vì địch còn mạnh.  Staline truy kích Đức Quốc Xã đầu năm 1944 và chiếm luôn các nước Đông Âu như Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức… tại những nước này quân Nga lấy hết vàng bạc, quí kim, ngoại tệ trong các ngân hàng đem về.

Staline chủ trương chỉ tiến lên xã hội trong một nước nhưng cuối Thế chiến nhân đánh đuổi quân Đức rồi chiếm các nước Đông Âu dựng lên nhiều chính quyền Cộng Sản. Nhân dịp này ông ta tiến lên vô sản hóa thế giới không bằng đấu tranh giai cấp mà bằng họng súng đẻ ra chính quyền. Cuộc Thế chiến là cơ hội nghìn vàng cho CS bành trướng rất nhanh mà chính họ cũng không ngờ.

Ngày 6 và 9 tháng 8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở Nhật, ngay sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại Mãn Châu. Sự thực Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử, khoảng một triệu quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể cả xe tăng thiết giáp giao cho Mao Trạch Đông, thật là giáo vào tay giặc. Nga cũng tháo gỡ hết các nhà máy tại đây đem về nước.

Giữa năm 1946 cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông nổ ra, Mỹ giúp Tưởng, Nga giúp Mao.. sau mấy năm chinh chiến, Mao thắng trận, Tưởng đại bại. Ngày 1-10-1949, Mao tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoathủ đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Cuối năm 1949 Tưởng và khoảng 2 triệu Quốc Dân Đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan.

Thế là Staline lập được một đế quốc CS mênh mông từ Âu sang Á y như đế quốc Mông cổ của Thành Cát Tư Hãn bẩy thế kỷ trước, nước Tầu rơi vào tay CS làm lệch cán cân giữa Thế giới tự do và Xã hội chủ nghĩa Sô viết. Mặc dù bị Đức Quốc Xã đánh cho một trận nên thân, Nga vẫn không ngừng bành trướng.
Cuối tháng 8-1949, Nga thí nghiệm thành công bom nguyên tử lần đầu nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ. Giữa năm 1950 Staline giúp Bắc Hàn tấn công chiếm Nam Hàn, Mỹ vào can thiệp, sau mấy năm chiến tranh tàn khốc, hai bên ký đình chiến tháng 7-1953

Staline mất ngày 5-3-1953 sau gần 30 năm cầm quyền.

Nikita Khrushchev
Ông là người kế vị Staline, giữ chức Bí thư thứ nhất đảng CS Nga từ 1953 tới 1964, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng hay Thủ tướng từ 1958 tới 1964. Khrushchev là người hạ bệ Staline và yểm trợ chương trình không gian Nga và có một số cải cách trong nội trị, chú trọng nâng cao đời sống nhân dân. Năm 1964 ông bị Bộ chính trị đảng lật đổ và đưa Leonid Brezhnev lên thay, xuất thân công nhân kim loại thời trẻ tuổi, thời nội chiến ông là Ủy viên chính trị, ủng hộ cuộc thanh trừng của Staline. Năm 1939 Khrushchev được Staline gửi tới Ukraine tiếp tục thanh trừng tại đó, ông làm chính ủy thời Thế chiến, sau 1945 ông về Ukraine và được  Staline gọi về làm cố vấn.

Sau 1953 ông ta dành được quyền. Khi đã diệt hết tay chân của Staline, năm 1956 trong kỳ Đại hội đảng lần thứ 20 ông ta tố cáo cuộc thanh trừng, tố cáo tội ác của Staline và bắt đầu một chính sách cai trị ít đàn áp hơn. Khruschev cải thiện cuộc sống ngưòi dân nhưng ít kết quả nhất là nông nghiệp. Từ 23-10-1956 cho tới 10-11-1956 cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi tại Budapest đòi tự do  bị Khrushchev cho xe tăng đàn áp dã man có khoảng 2,500 người Hung bị thiệt mạng, quân Nga có 700 người chết

Ông hy vọng nhiều ở hỏa tiễn và giảm bớt lực lượng thuộc chiến tranh qui ước, tuy cắt giảm nhưng ông cũng gặp nhiều căng thẳng trong chiến tranh lạnh nhất là vụ khủng hoảng hỏa tiễn tại Cuba trong 13 ngày căng thẳng tháng 10-1962 Mỹ-Nga về hỏa tiễn Sô viết đặt tại Cuba đã được đưa lên truyền hình trên toàn thế giới và đã suýt đưa tới chiến tranh nguyên tử toàn diện.

    Để trả đũa vụ Mỹ xâm lược Vịnh Con Heo năm 1961 và Mỹ đặt hỏa tiễn tại  Thổ Nhĩ Kỳ, Ý mà Moscow nằm trong tầm, Khrushchev theo yêu cầu của Cuba đặt hỏa tiễn mang đầu đầu đạn hạt nhân tại đây để ngăn ngừa Mỹ xâm phạm như vụ Vịnh Con Heo sau khi ông ta họp mật với Fidel Castro tháng 7.

Tháng 10-1963 Mỹ đang có tranh cử Tổng thống, máy bay do thám U-2  khám phá  ra hỏa tiễn tầm trung nguyên tử tại Cuba, TT Kennedy làm dữ cho ngăn chận tầu Nga mang hỏa tiễn tới và buộc phải tháo gỡ hỏa tiễn đã gắn tại Cuba mang về Nga. Sau cuộc thương thuyết căng thẳng đạt tới thỏa thuận giữa Kennedy và Khrushchev, Nga tháo gỡ hỏa tiễn tại Cuba mang về có Liên Hiệp Quốc giám sát, ngược lại Mỹ sẽ phải thỏa thuận không được xâm lược Cuba mà không tuyến chiến. Mỹ cũng bí mật tháo gỡ hỏa tiễn tại Ý, Thổ Nhĩ Kỳ đem về nhưng không tuyên bố cho dân biết.

Sau đó Mỹ-Nga thỏa thuận thiết lập đường giây điện thoại nóng giữa Moscow và Washington để ngăn ngừa Thề chiến mà cả hai bên cùng sợ, tình hình đã dịu sau đó. 

Năm 1949 Nga thỏa thuận sẽ giúp Trung Cộng chế tạo bom nguyên tử, sau 1956 khi Khrushchev hạ bệ Staline khiến Nga-Hoa lạnh nhạt rồi căng thẳng, Mao tức giận vì Khrushchev không hỏi ý kiến Mao trước, ông này  âm mưu phá Khrushchev đang muốn hòa hoãn với Mỹ. Nga cho rút các chuyên viên nguyên tử về nước 1959. Năm 1960 hai bên công khai chỉ trích, xỉ vả nhau ngày càng dữ dội, Trung Cộng chỉ trích Nga là xét lại sự va chạm hai bên gia tăng.
Ngày 16-10-1964 Trung Cộng thành công cho nổ trái bom nguyên tử đầu tiên nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ, cùng năm đó Khrushchev bị Leonid Brezhnev và Trung ương đảng lật đổ tháng 10 khi ông vắng mặt, người ta cũng cho là Mao lật đổ Khrushchev và cho nổ bom nguyên tử.

Leonid Brezhnev
Ông giữ chức Tổng bí thư Trung ương đảng Sô Viết từ tháng 10-1964 cho tới khi chết tháng 11-1982, tổng cộng 18 năm, làm Tổng bí thư lâu nhất sau Staline, ông giữ chức Chủ tịch Liên Bang Sô viết từ tháng 6-1977 tới tháng 11-1982. Dưới thời Brezhnev ảnh hưởng Nga trên thế giới sút giảm mạnh phần vì phát triển quân sự đánh dấu thời kỳ sự trì trệ xã hội, kinh tế của Liên bang Sô viết.

Tốt nghiệp kỹ sư ngành luyện kim tại Ukraine, ông tham gia Thanh niên xung phong năm 1923, sau đó vào quân đội tham gia Thế chiến Thứ hai. Năm 1946 giải ngũ khi mang cấp bậc Trung tướng, năm 1952 ông trở  thành Ủy viên Trung ương đảng, năm 1964 kế vị Khrushchev trong chức Bí thư   thứ nhất trong khi Kosygin  kế vị chức Thủ tướng

Ông thường hỏi ý kiến các cộng sự trước khi hành động nhưng lế lối cầm quyền thiếu cải cách kinh tế khiến đưa tới suy thoái giữa thập niên 1970, thời kỳ bị đình trễ. Chi phí quốc phòng lên cao vì chạy đua vũ trang khoảng 12.5% tổng sản lượng, các nhà lãnh đạo Nga giai đoạn này nói chung già nua thiếu khả năng khiến Tổng sản lượng kinh tế sút giảm so với Tây phương. Theo lượng giá CIA, từ 1960-1965 tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Nga là 4.8, từ 1970-1975 tụt hậu còn 3.00, từ 1980-85 tụt xuống còn 1.8. Kinh tế gia Samuelson nói trong cuốn Economics trang 830 (in 1970)

“Thập niên 1970 cũng như thập niên 1960 Tổng sản lượng kinh tế của Nga vào khoảng một nửa Tổng sản lượng Mỹ”
(In the 1970s, as in the 1960s, U.S.S.R real GNP is about one-half  United States real GNP)

Brezhnev thúc đẩy hòa hoãn với Tây phương theo lời kể của Henry Kissinger trong White House Years (chương 8, The Agony of Vietnam tr. 276-311) , năm 1969 Nga muốn đàm phán với Mỹ về tài giảm binh bị. Cuối tháng 5-1972 TT Nixon sang Moscow ký với Brezhnev hiệp ước tài giảm binh bị vũ khí hạt nhân.
Tuy thế năm 1968 ông ra Thuyết Brezhnev cương quyết trấn áp một nước trong khối xã hội chủ nghĩa một khi có ý muốn chuyển qua tư bản, nó không chỉ liên quan tới nước đó nhưng liên hệ tới cả khối CS. 

Cuối năm 1979 Nga đưa quân qua Afghanistan để giúp chính phủ thân Nga chống lại cuộc nổi dậy, cuộc chiến sa lầy 9 năm cho tới đầu năm 1989 đã khiến 14,453 lính Nga bị giết. Trong No More Vienams trang 214 (in 1985) Cựu Tổng thống Nixon khâm phục Nga nói trừ Afghanistan họ đưa quân đàn áp phong trào chống chính phủ bù nhìn Nga, Moscow đã thống trị được 9 nước kể từ 1974 mà không phải gửi quân vào. Thật vậy Sô viết chỉ đứng ngoài dựt giây đã chiếm được nhiều nước.

Thuyết Brezhnev được tuyên bố để biện minh cho việc Nga đưa quân sang Tiệp Khắc tháng 8-1968 đàn áp cuộc nổi dậy tại Prague cũng như sự đàn áp tại Hung gia Lợi từ năm 1956 Khrushchev bị lật đổ phần lớn vì ông không quan tâm tới các Ủy viên cao cấp trong đảng và chính phủ, thời Brezhnev nước Nga do một tập thể cai trị từ thập niên 60 cho tới 70

Quan hệ với Trung Cộng ngày càng xuống, hai bên đã chạm súng nhau tại biên giới tháng 3-1969, Nga có 59 người Thiệt mạng, Trung Cộng từ 200 tới 800 người, cả hai bên đều dấu kín chuyện này.

Khrushchev mới đầu trợ giúp Bắc Việt trong tình đồng chí nhưng khi chiến cuộc leo thang ông kêu gọi các lãnh đạo BV từ bỏ con đường giải phóng miền Nam. Ông từ chối giúp BV và bảo họ thương thuyết với Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau khi Khrushchev bị lật đổ, Brezhnev tiếp tục giúp CSVN dấn thân vào cuộc chiến đẫm máu, nhất là thập niên 70, Nga viện trợ quân sự cho BV rất nhiều để chiếm cho được miền nam VN và toàn cõi Đông dương.

Yuri Andropov
Hai ngày sau khi Brezhnev chết, Andropov được bầu làm Tổng bí thư đảng CS Sô viết từ tháng 11-1982 cho tới khi chết 14 tháng sau đó. Từ 1967 Andropov làm Giám đốc KGB, đây là lần đầu tiên một Giám đốc KGB được bầu làm Tổng bí thư. Trong thời gian tại chức, ông đã cách chức 18 bộ trưởng, lần đầu tiên những sự kiện trì trệ kinh tế  hoặc khoa học trở ngại tiến bộ được cho phổ biến và chỉ trích.

Mặc dù nhận thấy chiến tranh Afghanistan có thể là sai lầm nhưng ông không thành tâm nghĩ tới thương thuyết để rút quân. Dưới thời Andropov quan hệ Nga-Mỹ xấu đi, họ không muốn hoà hoãn, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan coi Sô Viết là một Đế quốc xấu, nguy hiểm.

Một việc đáng lưu ý trong thời gian làm Tổng bí thư, ông đã trả lời thư một cô gái Mỹ 10 tuổi ở Maine, mời cô sang chơi với trẻ con Nga tại Moscow. Trong khi đó đàm phán tài giảm binh bị hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu bị Nga hủy bỏ.
Chiến tranh lạnh lại căng thẳng khi chiến đấu cơ Nga bắn rơi một máy bay hàng không Đaị Hàn từAnchorage, Alaska Mỹ tới Hán Thành ngày 1-9-1983 bay lạc vào không phận Nga khiến 269 hành khách tử nạn. Chính Nga đã tìm được hộp đen nhưng giả vờ nói không biết cho tới 1992 Yeltsin công bố bí mật này   

Konstantin Chernenko
Andropov chết tháng 2-1984 sau 15 tháng cầm quyền, bốn ngày sau Chernenko được bầu làm Tổng bí thư lên thay trái với ý của Andropov muốn Gorbachev thay ông. Chernenko là Tổng bí thư thứ năm của Sô viết, Gorbachev là nhân vật thứ hai sau Chernenko, thường chủ toạ các phiên họp Bộ chính trị khi Chernenko bị bệnh, về sau sức khỏe suy yếu, Gorbachev luôn thay thế ông.

Chernenko được coi là người trở lại chính sách thời Brezhnev, ông thực hiện một thay đổi nhân vật dưới quyền là cất chức Tổng tham mưu trưởng Thống chế Ogarkov, ông này cổ võ tiết giảm tiêu xài để tăng chi phí  nghiên cứu và phát triển quân sự và thay bằng Thống chế Akhromeyev. Về đối ngoại ông ký hiệp thương với Trung Cộng, mặc dù kêu gọi hòa hoãn nhưng ông ta không giảm chiến tranh lạnh với Mỹ 

Chernenko chết bệnh 10-3-1985 sau 13 tháng cầm quyền

Mikhail Gorbachev
Lên thay Chernenko năm 1985, Gorbachev  là người lãnh đạo Liên Bang Sô Viết cuối cùng, ông giữ chức Tổng bí thư đảng CS Nga từ 1985-1991, ngưởi đứng đầu nhà nước từ 1988 cho tới khi giải thể năm 1991. Gorbachev sinh năm 1931 là Tổng bí thư duy nhất sinh sau Cách mạng tháng mười.
Tốt nghiệp đaị học luật, chính sách của ông gồm Mở rộng và Tái cấu trúc  (Đổi mới) và họp Thượng đỉnh với TT Ronald Reagan của Mỹ với khuynh hướng tài giảm binh bị chấm dứt chiến tranh lạnh. Ông chủ trương bỏ vai trò đảng cai trị đất nước đưa tới giải thể Liên bang Sô viết. Gorbachev được giải Nobel hòa bình năm 1990 và nhiều giải thưởng hoà bình, tiến sĩ danh dự.

Ông cải tổ đảng trì trệ và kinh tế bằng cởi mở, tái cấu trúc, đổi mới, dân chủ hóa và đẩy mạnh tiến bộ kinh tế tại Đại hội đảng thứ 27 năm 1986, mục đích làm sống lại kinh tế Nga sau những năm trì trệ thời Brezhnev. Gorbachev nói kinh tế trì trệ cần tái tổ chức, cải cách chính gồm:

Cải cách trong nước
Mục đích làm sống lại nền kinh tế, ông chủ trương cải tiến kỹ thuật cấp tốc, tăng sản xuất kỹ nghệ, canh nông, cải tiến chính trị Sô viết cho hữu hiệu hơn. Theo ông muốn cải tổ kinh tế  phải cải tổ chính trị xã hội, tháng 5-1985 ông cổ võ canh tân, thay ngoại trưởng Andrei Gromyko  người đã giữ chức vụ này 28 năm qua.

Tái cấu trúc (perestroika)
Người ta cũng thường gọi là đổi mới, nó là cơ bản để canh tân giải quyết kinh tế trì trệ, năm 1986 được phác họa tại Đại hội đảng kỳ 27, phát huy dân chủ, chính quyền tự chủ, chỉ trích, phê bình mọi cơ cấu xã hội
Tháng 1-1987 Gorbachev đề nghị cho nhiều ứng cử viên tham gia bầu cử, những viên chức chính phủ không cần có đảng tịch, không cần phải là đảng viên (CS)

Cởi mở
Gorbachev chủ trương cho người dân quyền tự do ngôn luận, bãi bỏ kiểm duyệt, thả tù chính trị, tù bất đồng chính kiến, ông chấp nhận cho người dân được quyền chỉ trích ông và chính phủ . Năm 1988 ông thực hiện một cải cách lớn nhất từ thời Lenine, đó là chính sách kinh tế mới ra luật cho tư nhân được quyền sản xuất, buôn bán, hoạt động ngoại thương. Mới đầu luật cho đánh thuế cao và hạn chế thuê nhân viên về sau có xét lại để tránh gây trở ngại cho lãnh vực kinh tế tư. Từ đó cửa hàng, cửa tiệm tư, hãng xưởng bắt đầu hoạt động, cho tổ chức nghiệp đoàn. Hoạt động dịch vụ tự trị được khuyến khích để mong đầu tư nước ngoài vào làm ăn. 

Tháng 6-1988 Gorbachev cho cải cách cấp tiến cắt giảm quyền kiểm soát của đảng CS trong chính phủ, tháng 3-1989 cho bầu cử Quốc hội tự do trên toàn liên bang, đây là cuộc bầu cự tự do lần đầu tiên kể từ 1917 tại Liên bang Sô viết.

Ngày 25-3-1990 Gorbachev được các Đại biểu bầu làm Tổng thống  liên bang Sô viết với 59% phiếu bầu, Quốc hội họp lần đầu ngày 25-5 được đưa lên truyền hình bị chỉ trích, người dân muốn cải tổ nhanh hơn nữa. Trong cuộc bầu cử nhiều ứng cử viên của đảng CS thất cử, Yeltsin được bầu ở Moscow và trở thành chính khách nổi luôn chỉ trích Gorbachev   

Đối ngoại.

Gorbachev cải thiện bang giao, thương mại với Tây phương , giảm cường độ chiến tranh lạnh. Năm 1986 ông tiến xa trong quan hệ quốc tế, đề nghị hủy bỏ hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu và chiến lược của ông để hủy bỏ vũ khí nguyên tử vào năm 2000. Ngày 11-10-1988 Gorbachev và TT Mỹ Reagan họp tại Icelandbàn về tài giảm vũ khí nguyên tử tầm trung. Họ thỏa thuận rời bỏ 100 hỏa tiễn tầm trung khỏi  Âu châu, sẽ loại bỏ tất cả vũ khí nguyên tử trong vòng 10 năm vào 1996 thay vì 2000 như Gorbachev lần đầu đề nghị, thực hiện ký kết Thỏa ước hỏa tiễn tầm trung năm 1987.

Tháng 2-1988 ông cho rút khỏi Afghanistan, tổng cộng có 28,000 người Nga bị giết từ 1979-1989. Một sự kiện vô cùng quan trọng là Gorbachev tuyên bố bãi bỏ học thuyết Brezhnev (nêu trên) cho phép các nước Đông Âu tự do lựa chọn số phận của họ. Ngày 4-6-1989 Ba Lan cho bầu cử tự do, chính phủ CS bị hạ bệ, Nga bỏ thuyết Brezhnev khiến dân Đông Âu nổi dậy suốt năm 1989 khiến cho chủ nghĩa CS bị hủy bỏ. Cuối năm 1989 cuộc nổi dậy tại thủ đô các nước  Đông Âu từ nước này  sang nước khác vứt bỏ chế độ CS xây dựng tại đây từ sau Thê chiến thứ hai.

 Cuộc cách mạng dân chủ tự do bắt đầu từ Ba Lan và sau đó Hung Gia Lợi, Đông Đức, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, chỉ có Lỗ Ma Ni (Roumanie) là nước duy nhất dùng bạo lực lật đổ chính quyền Cộng sản, biến cố Thiên an Môn năm 1989 ở Bắc kinh thất bại. Thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, Gorbachev được cấp giải Nobel hòa bình 15-10-1989 và nhiều giải thưởng của các nước, nhiều tổ chức trên thế giới. Ngày 9-11 dân Đông Bá Linh tràn qua Tây Bá Linh

Giải thể Liên bang Sô viết
Mặc dù Gorbachev cải tổ tự do dân chủ cho Sô Viết và Đông Âu nhưng kinh tế đi gần tới khủng hoảng , cuối thập nên 80 thực phẩm khan hiếm phải dùng tem phiếu như như thời chiến. So với 1985 khiếm ngạch từ 0 lên 109 tỷ rúp, dự trữ vàng giảm  từ 2,000 xuống còn 200 tấn, nợ bên ngoài từ zero tới 120 tỷ đô la.
Vả lại việc dân chủ hóa Sô viết và Đông Âu phá hủy quyền lực của Đảng CS Nga cũng như của Gorbachev, các nước thuộc địa đòi trả độc lập nhất là ba nước Lithuania, Latvia, và Estoniađã bị Staline sáp nhập vào Nga năm 1940. Năm 1989 người Tây phương gọi là cuộc Cách mạng 1989 (Revolutions of 1989) các nước đông Âu từ bỏ chế độ CS và trở lại chế độ dân chủ tự do của họ trước 1945. 

Ngoài ra các nước trong Liên bang, thuộc địa cũ từ thời Nga Hoàng tuyên bố độc lập, Liên Bang Sô viết tan như xác pháo cuối năm 1991. Mười lăm (15) nước tuyên bố độc lập tách khỏi Liên bang Sô viết là ArmeniaAzerbaijan,BelarusEstoniaGeorgiaKazakhstanKyrgyzstanLatviaLithuaniaMoldovaRussiaTajikistan,TurkmenistanUkraine, và Uzbekistan. Sự ly khai này đã khiến Nga mất một nửa dân số, trước là 290 triệu nay chỉ còn 145 riệu

Cách đây 72 năm Lenine đem lý thuyết Marx Engels về thực hiện cuộc Cách mạng vô sản long trời lở đất năm 1917 và bây giờ Gorbachev thực hiện cuộc Cách mạng 1989, giải tỏa xiềng xích chế độ CS áp bức, đem lại dân chủ tự do cho Nga, cho các nước Đông Âu và các nước thuộc địa cũ của Nga từ thuở xa xưa. Gorbachev là người có công lớn với nhân loại,  ông đã cứu nước Nga, các nước Đông Âu, các thuộc địa cũ của Liên bang, đem lại tự do bác ái cho nhân dân. 

Gorbachev người có ảnh hưởng nhất thế giới thập niên 80, đã thay đổi cả một kỷ nguyên, một vĩ nhân của thế kỷ. Chính ông ta đã đào huyệt chôn vùi chế độ CS tại Nga, Đông Âu và cả trên thế giới mặc dù nay các nước CS da vàng còn thoi thóp thở nhưng chúng cũng đang từ từ dẫy chết.

Tháng 8-1991, Ủy ban nhà nước tình trạng khân trương đưa quân nhẩy về  Moscow làm đảo chính theo kiểu Nguyễn Chính Thi năm 1960 tại Sài Gòn để lật đổ Gorbachev, ông này bị giam ba ngày tại Crimea. Yeltsin, Tối cao liên bang (Chủ tịch quốc hội)  đã đứng trên  một chiếc xe tăng hô hào nhân dân chống đảo chính, ông đã dẹp được cuộc phản loạn, nhân dân biểu tình chống quân đảo chính, Gorbachev được cứu tại Crimea.

Cuộc đảo chính của nhóm CS bảo thủ thất bại, người dân không muốn trở lại chế độ hà khắc, tàn bạo, đây là cái quẫy mình cuối cùng của bọn tàn dư CS Nga trước khi chết

Boris Yeltsin
Sự nghiệp chính trị Gorbachev suy thoái, Yeltsin dần dần nắm được quyền hành từ bộ này sang bộ khác kể cả điện Cẩm Linh. Ngày 6-11-1991 ông ra nghị quyết bãi bỏ tất cả mọi hoạt động của Đảng CS trên đất Nga. Mới đầu ông là người ủng hộ Gorbachev, Yeltsin nổi lên khi thực hiện Tái cấu trúc, đổi mới, ông thành đối thủ chính trị mạnh nhất của Gorbachev. 

Ngày 29-5-1990 Yeltsin được bầu Chủ tịch Tối cao Sô viết (Chủ tịch Quốc hội). Ngày 12-6-1991 Yeltin được bầu theo phổ thông đầu phiếu làm Tổng thống Cộng hòa Xã hội liên bang Sô Viết Nga (Russian Soviet Russian Soviet Federative Socialist Republic), lúc đó là một nước trong liên bang 15 nước. Khi Gorbachev từ chức và Liên bang Số viết giải tán ngày 25-12-1991, Yeltsin giữ chức Tổng thống liên bang Nga, năm 1996 ông tái đắc cử.

Ông chủ trương cải tổ kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa tới một nền kinh tế thị trường tự do, dưới thời Yeltsin, nhiều suy thoái như lạm phát, tham nhũng, kinh tế khủng hoảng và nhiều vấn đề chính trị xã hội ảnh hưởng nặng nước Nga. Năm 1992 vật giá tăng vọt, thập niên 90 tổng sản lượng suy giảm còn một nửa, thất nghiệp dữ dội, lạm phát phi mã khiến bao nhiếu người mất hết tiền tiết kiệm, mười triệu người Nga lâm vào cảnh bần hàn.  
    
Ông tiếp tục giữ chức Tông thống cho tới 31-12-1999, tỷ lệ ủng hộ xuống không còn gì trong những ngày cuối cùng, một loạt những khủng hoảng kinh tế chính trị khiến Yeltsin không lấy lại được uy tín lúc ban đầu. Ông từ chức ngày 31-12-1999,  Thủ tướng Vladimir Putin trở thành tổng thống lâm thời cho tới khi cuộc bầu cử mới được tổ chức ngày 26 tháng 32000.

Vladimir Putin
Ông giữ chức Thủ tướng Nga từ tháng 8-1999 tới tháng 12-1999, sau đó làm Tổng thống lâm thời do Yeltsin trao lại từ cuối 1999 tới tháng 3-2000. Putin đắc cử Tổng thống 26-3-2000 với 53% số phiếu nhiệm kỳ đầu 2000-2004 và tái đắc cử nhiệm kỳ hai 2004-2008 đồng thời với hai nhiệm kỳ của TT Mỹ Bush con. Ông lại làm Thủ tứớng từ 2008-2012 trong khi Dmitry Medvedev, Thủ tướng của ông lên làm Tổng thống. Putin cũng là chủ tịch đảng Thống nhất Nga, đã phục vụ cho KGB 16 năm, lên tới trung tá trước khi hoạt động chính trị. Ông tham gia chính phủ Yeltsin và lên rất nhanh.  Vì hiến pháp chỉ cho làm Tổng thống hai nhiệm kỳ ông không thể ra ứng cử tiếp năm 2008.

Dmitry Medvedev, Thủ tướng của Putin đắc cử Tổng thống 2008 và cử Putin làm Thủ tướng. tháng 9-2011 sau khi luật thay đổi tăng nhiệm kỳ Tổng thống từ 4 lên 6 năm, Putin cho biết ông sẽ ứng cử lần thứ ba (2012) khiến nhân dân biểu tình chống đối tại nhiều thành phố Nga. Ông lại thắng cử Tổng thống năm 2012 (63.6% số phiếu) và sẽ cầm quyến 6 năm, cử Dmitry Medvedev làm Thủ tướng. Đây chỉ là một trò hề bầu cử, ông Tổng thống xuống làm Thủ tướng rồi ông Thủ tướng lên làm Tổng thống, nước Nga trở thành một hí trường cho hai anh hề diễn tuồng bầu bán ma mãnh.

Putin bị trong nước chống đối, bị thế giới coi là dân chủ giả hiệu, người ta cho là nền dân chủ lai căng này sẽ từ từ đưa tới độc tài, năm 2014 Nga bị truất khỏi G-8 vì sáp nhập bán đảo Crimea vào nước họ.Ngày 21-2-2014 Quốc hội Ukraine lật đổ Tổng thống thân Nga Yanukovych và cử TT lâm thời Turchynov lên thay. Mỹ và Tây phương công nhận chính phủ mới, Nga phủ nhận. Hai ngày sau Putin đưa vũ khí lén giúp bọn gốc Nga chiếm bán đảo Crimea, cuối tháng 3 họ tổ chức bầu cử ma mãnh dưới sự yểm trợ xe tăng để sáp nhập bán đảo này vào Nga.

Kinh tế tốt đẹp trong thời kỳ Putin làm Thủ tướng và Tồng thống lần đầu 1999-2008 lợi tức thực sự tăng 2.5 (hai lần rưỡi), lương bổng thực sự tăng gấp ba, thất nghiệp, nghèo nàn giảm một nửa, nhân dân mãn nguyện. Nhiệm kỳ trước của Putin được đánh dấu kinh tế tăng trưởng, kinh tế Nga tiến một mạch 8 năm, Tổng sản lượng tăng 600% , chính phủ giảm thuế. Chính sách năng lượng khiến Nga trở thành siêu cường năng lượng. Putin trợ giúp kỹ nghệ high tech như Quốc phòng, nguyên tử, đầu tư ngoại quốc gia tăng khiến kỹ nghệ xe hơi tăng trưởng. Nay đầu tư vừa giảm 2.5% vì Ukraine khủng hoảng, nước Nga khác thường trong số những nền kinh tế lớn  ở chỗ họ dựa vào lợi tức năng lượng dầu, khí để tăng trưởng

Đất nước được thiên nhiên ưu đãi có đầy tài nguyên thiên nhiên gồm dầu, khí đốt thiên nhiên, kim loại quí…chiếm phần lớn hàng xuất khẩu Nga. Những thập niên 2000 năng lượng nhiên liệu đã thay đổi bộ mặt nước Nga trở thành siêu cường năng lượng như năm 2012 dầu và khí đốt chiếm 16% Tổng sản lượng, chiếm 52% lợi tức  ngân sách liên bang và chiếm hơn 70% hàng xuất cảng. Kỹ nghệ quân sự Nga rất cao, năm 2013 vũ khí xuất cảng là 15 tỷ (Mỹ kim) đứng thứ hai sau Mỹ gồm máy bay chiến đấu, phòng không, tầu chiến, tiềm thủy đĩnh …

Từ 2000-2012 xuất cảng dầu khí khiến đời sống người dân tăng, lợi tức tăng 160% nhưng lợi tức phân phối không đều trong khi 110 nhà tỷ phú chiếm giữ 35% tiến của trong nước. Nga cũng bị nạn tiền thất thoát ra ngoại quốc, từ 2000-2012 mất 880 tỷ Mỹ kim.

Nay kinh tế Nga bị suy thoái từ khi sáp nhập bán đảo Crimea, bị Mỹ và Tây phương trừng phạt kinh tế, thị trường chứng khoán lao xuống vực thẳm,  đồng Rúp mất giá gần một nửa. Nay giá dầu thô tụt xuống dưới 50 đô so với trên 100 đô nửa năm trước khiến kinh tế Nga càng khốn đốn vì họ sống bằng bán dầu, năng lượng.

Nga hoàn toàn trái ngược với nước Nhật, diện tích Nga nay 17 triệu Km vuông gấp 44 lần nước Nhật (337 ngàn Km2), Nga có rừng vàng biển bạc trong khi Nhật bị thiên nhiên bạc đãi, không có tài nguyên nhưng nhờ trí thông minh, tài năng họ đã chế tạo được các hàng xuất khẩu tuyệt hảo bán khắp năm châu.

 Kỹ nghệ đã đưa Nhật lên hàng kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới thập niên 80, 90 và 2000, chỉ mới xuống hàng thứ ba những năm gần đây. Putin có công đào xới cái “của trời cho” đem xuất cảng đưa đất nước lên hàng cường quốc kinh tế thứ 8 mà trước đó đứng hàng thứ mấy chục.

Cuối thập niên 90 sau khi Liên bang Sô viết sụp đổ, 15 nước trong Liên bang đòi trả độc lập, Đông Âu từ bỏ chế độ CS, nưóc Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, Tổng sản lượng suy giảm còn 50%, lạm phát gia tăng.

Thời mà đế quốc Sô viết đã từng chọc trời khuấy nước nay còn đâu?

Dậu đổ thì bìm bìm leo, nhiều nước nhất là Mỹ, Tây phương khinh rẻ nước Nga hết thời, có người nói đừng coi thường Nga họ vẫn còn cả một kho vũ khí cũ. Đó cũng là lý do thúc đẩy Putin vùng vẫy để lấy lại chút hào quang quá khứ mà nhân dân cũng đồng ý để ông quậy cho đỡ tủi. Ông dật dây dựng lên một chính quyền thân Nga tại Ukraine trước đây để từ từ kéo họ về Nga nhưng thất bại, người Ukraine ác cảm với Nga vì họ đã từng bị Staline giết bẩy triệu người năm 1933. Họ lật đổ Tổng thống thân Nga khiến Putin nổi giận sáp nhập bán đảo Crimea vào Nga trắng trợn

Khi bị Tây phương trừng phạt kinh tế, Putin quá giận mất khôn tuyên bố Nga là nước duy nhất có thể biến Hoa Kỳ thành tro bụi. Nay bất lực trước đòn kinh tế Putin chỉ còn nước hù dọa cho đỡ tủi. Đe dọa chỉ là vũ khí của kẻ yếu, nay kho vũ khí cũ đã quá lỗi thời chẳng dọa được ai, cũng chẳng đánh được ai. 

Ngay cả những tay trùm CS như Staline, Khrushchev, Brehnev .. đã từng hét ra lửa cũng không nói thế. Putin lợi dụng chính sách đối ngoại mềm yếu của Obama để lộng hành, nhưng hai năm nữa, Cộng hòa sẽ lên nắm quyền, khi ấy ông sẽ không dại gì mà vuốt râu hùm.

Có vài người nịnh Putin, thổi ông lên hàng người có nhiều quyền lực nhất thế giới nhưng quyền lực ở chỗ nào? Nay dân số Nga chỉ còn một nửa (145 triệu, List of countries by population Wiki) sau khi Liên bang Sô viết tan rã đứng hàng thứ 9 trên thế giới. Tổng sản lượng Nga thập niên 60, 70 bằng nửa của Mỹ như Samuelson đã nói trên, nay TSL Nga (2,000 tỷ) đứng hàng thứ 9, chỉ bằng gần 1/8 của TSL Mỹ (16,7 68,000). Ngân sách quốc phòng Nga (88 tỷ) hiện đứng thứ ba trên thế giới nhưng chỉ bằng 1/7 của Mỹ (640 tỷ), diện tích Nga từ 24 triệu Km2 còn 17 triệu Km2.

 Nhiều người cho rằng Putin muốn trở lại thời chọc trời khuấy nước của Liên bang Sô viết xa xưa nhưng than ôi thời oanh liệt nay còn đâu? Muốn vậy trước hết phải chiếm lại 15 nước thuộc địa cũ để đưa dân số từ 145 triệu trở lại 290 triệu và Tổng sản lượng lên hàng thứ hai, thứ ba, sau đó chiếm lại Đông Âu để tái lập giang sơn nhưng chỉ có những người bị tâm thần mới mang ảo tưởng như vậy, làm sao có thể quay ngược bánh xe lịch sử?

Liên bang Sô viết, cái nôi của CS đầu hôm sớm mai tan như xác pháo, nhà Phật gọi là vô thường, chẳng có gì là thường còn, có sinh thì có diệt.

Có lẽ ông Putin nên nghĩ tới kế hoạch phục hưng nền kinh tế đang suy thoái thì hay hơn là đào xới “của trời cho” đem bán, miệng ăn núi lở, ăn mãi nó cũng phải hết. Các nước Nhật, Nam Hàn không có nguyên liệu, họ có tài năng làm ra của cải vật chất không phải phụ thuộc vào thị trường năng lượng như Nga.

Tương lai kinh tế nước Nga thật là ảm đạm, một ngày nào Putin cũng sẽ trở lại chính sách xét lại con đường sai lầm mà ông hằng theo đuổi một cách vô ích
Trọng Đạt



No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List