--
Kính
Chuyển
MG
THĂM
ÐÀI TƯỞNG NIỆM NGƯỜI VƯỢT BIỂN,
NHỚ LẠI
NHỮNG NGÀY TRƠ XƯƠNG, MẮT TRẮNG
SAU
THÁNG 5-1975.
MƯỜNG
GIANG
Sau khi VNCH bị sụp đổ,chẳng những tất cả Quân,Công, Cán, Cảnh của Miền Nam bị
trả thù, cọng sản Hà Nội còn tận tuyệt hủy diệt các tầng lớp tư sản qua tội
danh gán ghép, chụp mũ, bịa đặt cho mọi người là bóc lột, phồn vinh giả tạo,
nguy dân.. Tại Ðại Hội đảng lần thứ IV vào tháng 5-1975, Lê Duẩn đã vênh váo
tuyên bố rằng, từ nay người VN sẽ đi trên thảm vàng, đồng thời đuổi kịp rồi qua
mặt Nhật Bản trong vòng 15 năm tới. Trên thực tế ai cũng biết trước tháng
4-1975, Bắc Việt chỉ có hai công trình vĩ đại nhất là Lăng Hồ Chí Minh tại Ba
Ðình Hà Nội và Khách sạn quốc tế trên bờ Hồ Tây, do Fidel Castro của Cu Ba xây
tặng. Trong lúc đó tại VNCH, đâu đâu cũng có những cơ sở kỹ nghệ nặng và nhẹ, đều
được trang bị máy móc mới và tối tân, nhất là các ngành dệt, điện, lắp ráp các
loại hàng sản xuất tiêu thụ. Khi VC vào, đã tận tình vơ vét máy móc đem về Bắc,
ra lệnh cho nhiều nhà máy ngưng hoạt động hay biến thành quốc doanh, hữu danh
vô thực.
Song song với kế hoạch trả thù và tận diệt các tầng lớp trên, VC còn bày thêm
quốc sách kinh tế mới vào cuối năm 1975, để đuổi hết số gia đình có liên hệ tới
chế độ VNCH, đang sống tại Sài Gòn và các tỉnh thành, đi lao động canh tác tại
rừng sâu, núi cao, ma thiêng nước độc. Kế hoạch thâm độc này, vừa tống khứ được
những thành phần còn lại mà VC đã xếp loại nguy hiểm, sau khi chồng con thân
nhân của họ đã bi đảng gạt vào tù. Có như vậy, VC mới chiếm được nhà cửa ruộng
vườn và các tiện nghi của Miền Nam, để phân phối cho cán bộ miền Bắc, lúc đó chỉ
có súng đạn, tăng pháo và mớ lý thuyết của Mác-Lê-Mao-Hồ mà thôi.
Ai đã từng là tù nhân của VC dù có ở trong các trại tù tại miền Nam hay bị đầy ải
ra vùng biên giới Việt Bắc, đã bị giặc cầm giam lâu hay mau, chắc hẳn sẽ chẳng
bao giờ quên nổi những đau đớn về vật chất và nhất là sự tủi nhục tinh thần,
khi bị bọn VC gọi chúng ta là ngụy quân, ngụy quyền, là những đống rác bẩn thỉu,
cặn bã của xã hội, đánh giặc thuê cho Mỹ, Pháp, Nhật..
Ai đã từng bị VC cướp của, cướp nhà, đày đoạ lên tận miền rừng núi để phát triển
kinh tế mới. Ða số đã ngã quỵ vì không chịu nổi mưa nắng, cùng cảnh ma thiêng
nước độc, bệnh sốt rét rừng, ghẻ lở, kiết lỵ.. mà không có thuốc uống. Cuối
cùng những người còn sống, kiệt sức vì đói bệnh, nên đã bỏ rừng chạy ngược về
thành. Họ đã trở nên vô gia cư và ở bất cừ nơi nào, kể cả nghĩa địa, gầm cầu,
chùa miễu.. ăn sống, phó mặc cho định mệnh và bọn công an, tới hốt bắt, đưa lên
lại vùng kinh tế mới, rồi họ lại về.Rốt cục huề cả làng, và càng ngày càng có
nhiều người vô gia cư sống khắp mọi nẻo đường đất nước, trong xã nghĩa thiên đường.
Chắn chắn những thành phần trên, nếu may mắn bằng mọi lý do gì, nay tới được bến
bờ tự do và được sống tạm trên mọi nẽo đường thế giới, chẳng ai có thể vô tâm để
quên kiếp đời ‘ Tị Nạn Việt Cộng ‘ trăm đắng ngàn cay, biển hờn trời hận, chỉ
có thể đầu thai lần khác , họa chăng mới xóa nổi vết nhơ của Dân Tộc VN trong
giòng lịch sử cận đại. Bởi vậy, mấy năm trước đây VC đã dùng quyền lợi để yêu cầu
chính quyền Mã Lai, Nam Dương.. phá bỏ các Tượng Ðài kỷ niệm Thuyền Nhân VN, bỏ
mình trên biển Ðông, khi trốn chạy khỏi thiên đàng xã nghĩa, tại các trại Tị
nam Việt Cộng. Hành động dã man này của bọn đầu sõ Bắc Bộ Phủ, chẳng những
không làm ai khiếp sợ, trái lại còn bị Cộng đồng Người Việt Tị Nạn Cọng Sản khắp
thế giới thêm khinh ghét , khiến chúng đi tới đâu cũng bị mọi người tẩy chay và
biểu tình đã đảo.
Mặc cho thói đời đen bạc,suốt thời gian qua, năm nào cũng vậy, Thượng Tọa Thích
Quảng Thanh,Viện trưởng Chùa Bảo Quang ở Santa Ana, miền Nam CA-Hoa Kỳ, cũng đều
có tổ chức Lễ Cầu Siêu Vong Linh Những Thuyền Nhân VN, đã bỏ mình trên biển
Ðông, khi đi tìm tự do, vì bảo tố, hải tặc và sự truy sát của VC. Mới đây, Ông
lại cùng với một số ân nhân người Việt tại hải ngoại, thực hiện Ðài Tượng Niệm
Thuyền Nhân Tị Nạn Cọng Sản VN, ngay trong khuông viên của chùa. Giống như các
Ðài Tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH vị quốc vong thân, Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân
TNCS, cũng là một biểu tượng cao quí của Cộng Ðồng người Việt TNCH tại hải ngoại,
nhắc nhớ cho chúng ta và con cháu, cùng với người ngoại quốc, một thời đại đau
thương của Dân Tộc VN, đang quằn quại dưới gông cùm của chế độ tàn bạo bất nhân
khủng bố cọng sản. Hai chữ ‘ Tị Nan’ chỉ được xóa bỏ khi đất nước vĩnh viễn
không còn bóng ma và hiểm họa VC, dù mang một thứ mặt nạ nào.
Ðầu tháng 4-1975, Người Mỷ đã bắt đầu chạy khỏi Nam VN bằng chuyến bay định mệnh,
đưa 250 trẻ mồ côi và 37 nhân viên của Dao đi theo săn sóc. Nhưng chiếc C5 đó
đã bị tai nạn, chỉ còn 175 em sống sót với một số người lớn may mắn. Tai nạn
này đã báo trước những thảm kịch sắp tới cho làn sóng người bỏ nước ra đi vì
không muốn sống chung với rợ Hồ, giết người cướp của.
Ngày 15-4-1975, thượng viên Hoa Kỳ thông qua đạo luật, cho phép 200.000 dân tị
nạn Ðông Dương, được vào sống trên đất Mỹ. Song song, chính phủ Mỹ cũng mở
chién dịch Frequent Wind tại Sài Gòn, để di tản các công dân Mỹ và 17.000 người
Việt có liên hệ. Máu lệ và thảm kịch VN đã khơi nguồn từ đó, vào những ngày cuối
tháng 4-1975, khi ngàn ngàn vạn vạn người với đủ mọi phương tiện, tiến ra biển
Ðông, để mong được Ðệ Thất Hạm Ðội cứu vớt những chỉ tới ngày 2-5-1975 thì chấm
dứt. Tóm lại từ tháng 5-1975 tới bây giờ, người Việt bỏ nước ra đi để tìm tự do
và đất sống, hoàn toàn chấp nhận may rủi “ một sống chín chết “, trong hoàn cảnh
bơ vơ tự cứu. Do trên hầu hết những người đến được bờ đất hứa, đã phải trả một
giá thật đắt, trong đó một dạo có hằng trăm ngàn câu chuyện, bi thảm não nùng của
thuyền nhân VN, bị HẢI TẶC THÁI LAN cướp giết, trôi giạt vào hoang đảo và đã ĂN
THỊT NGƯỜI lẫn nhau để mà sống.
Sau khi cưỡng chiếm xong VN, đảng Hồ và đảng Mao trở mặt, nên VC đã quy tội cho
Ba Tàu Sài Gòn-Chợ Lớn là mối đe dọa, rồi đòi Trung Cộng phải qua hốt hết 1,2
triệu người Việt gốc Hoa về nước. Sự kiện được Tàu Cộng chấp nhận, phái hai chiến
hạm tới các hải cảng VN để nhận người. Nhưng đến cho có mặt, chứ Tàu Cộng đâu
có ngu, lãnh đám dân nghèo này về nước đê nuôi ăn, vì vậy nửa đêm nhổ neo rút cầu,
âm thầm về nước. Sáng ngày 24-3-1978 trên khắp các nẻo đường Sai Gòn-Chợ Lớn, bổng
xuất hiện rất nhiều xe vận tải, chở công an, bộ đội và hằng ngàn thanh niên nam
nữ đeo băng đỏ trên tay áo. Theo đài phát thanh của VC thông báo, thì đây là
chiến dịch “ Ðánh Tư Bản ố Diệt Thương Gia “.Trước đây vào sáng ngày 20-3-1978,
tại Chợ Lớn, cũng đã có một cuộc xô xát, giữa trăm người Hoa và công An VC ph3n
đối bắt bắt lính, bắt đi kinh tế mới và đòi được trở về Tàu, sống với Trung Cộng.
Nhưng lần này, cuộc bố ráp qui mô không phải để bắt người Hoa chống đối hôm trước,
mà là xộc vào từng nhà,cùng các cửa tiệm, để kiếm tiền đôla và vàng cất dấu,
cũng như kiểm kê tất cả hàng hóa kể cả cây chổi, ngoại trừ hình “ bác “ và lá cờ
“ đảng “, máu đỏ sao vàng. Nghe nói lần đó, đảng đã hốt của Người Hoa gần 7 tấn
vàng và cả mấy chục bao bố tiền đô Mỹ, khiến cho mấy chục người uất hận phải tự
tử chết. Vậy là đảng đã ba bước nhảy vọt, chiến thắng tư bản chủ nghĩa, bước
lên thiên đàng xã nghĩa ưu việt. Cũng từ đó đã có trên 250.000 Hoa kiều phải bỏ
nước ra đi và theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn năm 1983, trong số này có trên
50.000 đã chết trên biển vì sóng gío và hải tặc Thái Lan.
Sau ngày 30-4-1975 khi Miền Nam bị VC Hà Nội cưởng chiếm, thì Biển Ðông đã trở
thành cửa ngỏ để đồng bào vượt thoát tìm tự do. Nhưng đồng thời biển cũng đã biến
thành hỏa ngục và trên hết, đảng VC đã thưc hiện được công trình vĩ đại nhất
trong Việt Sử. Ðó là KỸ NGHỆ XUẤT CẢNG NGƯỜI, từ cho thuyền nhân vượt biển
chính thức, tới các chương trình ra đi có trật tự (ODP), hồi hương con Mỹ Lai
và Mua Vợ Bán Chồng giả. Tất cả các nghiệp vụ trên, đều giúp cho tập thể lãnh đạo
đảng giàu to nhờ thu vào được nhiều vàng, tính tới cuối năm 1989, đảng thu vào
chừng 3.000 triệu mỹ kim, con số nhìn vào thấy rởn tóc gáy nhưng lại là sự thật.
Bởi vậy đâu có ngạc nhiên, khi biết xã nghĩa VN, là một trong những quốc gia
nghèo nhất thế giới, lại có nhiều tỷ phú đứng hàng đầu nhân loại (như mới đây
chân dung quyền lực đã rao hàng).
Theo sử liệu thì năm 1978 là năm VC chính thức trục xuất người Hoa ra biển. Ðây
cũng là thời gian đảng xuất cảng người nhiều nhất, mà theo thống kê của Cao Uỷ
Tị Nạn, số người tạm trú tại các Trại khắp Ðông Nam Á, lên tới 292.315 người.
Cũng theo tài liệu của Hồng Thập Tự Quốc Tế, thì từ năm 1977-1983 đã có khoảng
290.000 người đã chết hay mất tích trên biển Ðông.
Ngày 15-1-1990 khi mà Mỹ chuẩn bị bãi bỏ lệnh cấm vận và lập bang giao với VC,
thì tại vùng biển Nakhon Si Thammarat, có 11 thi thể PHỤ NỮ VIỆT NAM, tất cả đều
trần tuồng thê thảm, trôi tắp vào bờ. Theo Thiếu tá cảnh sát Thái Chumphol, người
có trách nhiệm lập biên bản khám nghiệm, cho báo chí biết, thì tất cả các nạn
nhân, có tuổi từ 18-20. Họ bị giết sau khi bị hải tặc Thái Lan hãm bức nhiều
làn. Ðây cũng chỉ là một trong ngàn muôn thảm kịch máu lệ của thân phận VN, từ
khi VC cưỡng chiếm được đất nước. Ðã có hằng triệu người chết trong lòng biển,
khi tìm tới những địa danh Songkhia,, Pulau Tanga, Pulau Bidong, Galang.. Có
nhiều cái chết của thuyền nhân thật tức tưởi và oan khiên, mà không bút mực nào
viết cho nổi, chẳng hạn như Tàu của Chủ Khách Sạn “ Lộc Hotel “ ở An Ðông, chở
trên 500 người, đi bán chính thức nhưng khi tới Gò Công thì bị gài bom nổ, chết
sạch chỉ có tài công và 3 người may mắn sống sót. Tàu Lập Xương di bán chính thức
ngày 22-1-1979, chở 200 người, cũng bị gài bom nổ ngoài biển, chỉ còn một vài
người may mắn sống sót được Tàu Panama cứu đem vào trại Tị Nạn. Ðây cũng chỉ là
một vài chuyện nhỏ trong ngàn muôn thảm kịch mà thuyền nhân, đã chịu từ khi
phong trào vượt biển bùng nổ vào d0ầu năm 1977-1989.
Người vượt biển tìm tự do, ngoài sóng gió bão tố bất thường không biết trước,
còn chịu thêm cảnh săn đuổi của công an, bộ đội biên phòng và ghe tàu đánh cá
quốc doanh có trang bị súng máy và súng cá nhân. Nhưng hãi hùng nhất vẫn là Nạn
Hải Tặc Thái Lan. Bọn này rất hung ác, tàn bạo, sau khi chận bắt thuyền vượt biển,
chúng cướp giựt hết tất cả tài sản, đánh đập mọi người, hãm hiếp phụ nữ và bắn
bỏ những ai muốn trốn hay chống lại. Sau đó để phi tang, chúng đốt thuyền cho
chìm, giết hết đàn ông và bắt đem theo phụ nữ, hành lạc cho tàn tạ và đem về đất
liền bán cho các động đĩ.
Câu chuyện của một chiếc tàu vượt biển lênh đênh sau 32 ngày bị hải tặc Thái
Lan đánh cướp, chỉ còn có 52 người sống sót, thì gặp được Chiến Hạm
USN.Dubuque, do Ðại Tá Alexander chỉ huy, nhưng bị từ chối không cứu vớt, khiến
cho số người trên chết gần hết. Những người sống sót phải ăn thịt bạn bè để cầu
sinh. Viên Ðại Tá Mỹ vô nhân đạo trên, bị Bộ Hải Quân Mỹ lột chức và truy tố ra
Tòa Quân Sự.
Cũng do hằng ngàn câu chuyện đứt ruột của người vượt biển tìm tự do, mà nhân loại
ngày nay có thêm một danh từ độc đáo “ Boat People “, giống như trước kia người
Do Thái, qua cuộc hành trình tìm đường về đất hứa, cũng đã làm nảy sinh danh từ
“ Holocaust “.Tuy nhiên, nếu đem so sánh, kể cả chuyện người Do Thái bị Ðức Quốc
Xã tàn sát trong thế chiến 2, thì thảm kịch vượt biển của người VN trên biển
Ðông, vẫn bi đát hơn nhiều.
Năm 1945, VC núp trong Mặt Trận Việt Minh, lợi dụng nạn đói năm Ất Dậu, để
tuyên truyền và cướp chính quyền từ trong tay người Quốc Gia, nhờ vào súng đạn
của người Mỹ. Từ năm 1955-1975 VC gây nên cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, và
đã cưỡng chiếm được VNCH, nhờ Nixon-Kissinger dàn dựng lên Hiệp định ngưng bắn
1973, hợp thức hóa sự chiếm đóng của cọng sản Hà Nội trên lãnh thổ Miền Nam.
Ngày nay, VC lại đem tình thương nhớ quê hương VN ra khuyến dụ người tị nạn,
mong mọi người hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận nước thù nhà. Nhưng VC đã lầm, cho
dù đã có nhiều người tị nạn trở về VN nhưng thực tế hầu hết chỉ vì gia đình.
Sau đó ai cũng quay lại miền đất tự do, để chờ một ngày chính thức được theo
sau gót voi của Quang Trung Ðại Ðế về giải phóng Thủ Ðo Sài Gòn-Huế-Hà Nội.
Ngày đó chắc không xa, vì hiện nay cả nước đều biết chế độ cọng sản đã sụp đổ
toàn diện, từ ý thức hệ, lãnh đạo, kể cả huyền thoại Hồ Chí Minh, cho tới đời sống
tinh thần, kinh tế, xã hôi. Chính sự xét lại của đảng, đã minh chứng sự sụp đổ
trên.
Thân phận người Thuyền Nhân VN là thế đó, tại sao ngày nay la.i có một số người
đòi bỏ danh từ ‘ Ti Na.n Việt Cộng ‘ ? , để đồng hóa chúng ta thành kẻ di dân
vì miếng cơm manh áo, trong lúc đó thật sự chúng ta chỉ bỏ nước ra đi để tị nạn
chính trị, vì không thể nào sống nổi dưới chế độ cầm thú bất nhân vô tổ quốc của
VC.
Người Bình Thuận đã bỏ xứ mà đi ngay khi giặc về
đêm 18-4-1975, đa số là người Bắc di cư ở các phường ven biển như Thanh Hải,
Phan Rí, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú và nhất là Bình Tuy. Từ những năm 1977 tới 1980, đảng
Cộng Sản qua công an và hải quan ‘bán chính thức’ tổ chức vượt biển để lấy
vàng, dù trước đó, luật pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, luật
hình sự, điều 85, mục 2 và điều 88, xử phạt nặng kể cả công an, cán bộ cưỡng
ép, xúi giục người trốn ra nước ngoài. Năm 1977 khởi đầu thử nghiệm chuyện xuất
cảng người, mà đối tượng là giới tài phiệt Việt-Hoa, theo thời giá mỗi đầu người
10 lạng vàng y, trị giá 4000 đô la Mỹ. Cũng trong năm này, Phan Thiết có tổ chức
đi bán công khai nhưng sau đó dẹp luôn vì ai cũng muốn đi chui, vừa rẽ lại an
toàn.
Có một điều tréo cẳng ngỏng là Bình Thuận là nơi có nhiều cửa sông, bến cảng,
ghe thuyền lớn và rất nhiều, nhưng hầu như có ít tầu ghe vượt biên, ngoại trừ số
ra đi năm 1975. Tại trại Pulau Bidong, từ năm 1977 cho tới 1980, có tới mấy
trăm tàu vượt biên, nhưng ghe Bình Thuận chỉ có chừng 5 chiếc, một là tàu đi
bán công khai năm 1977, số còn lại là chiếc giã Nùng Phan Rí, I chiếc khác mang
số Phan Rí là tàu quốc doanh và chiếc duy nhất có 32 người Phan Thiết, đi ngày
31-10-1978 tại bãi Thương Chánh, mang số PT1109, là tàu số 100 của trại Bidong,
Mã Lai Á. Vào tháng 9/1978, lợi dụng Việt Cộng Bình Thuận no say ăn mừng, một
chiếc tàu đánh cá hạng trung tại Bình Hưng, chở trên 200 người, công khai ra biển
vào ban ngày. Chiếc tàu vượt biên may mắn trên lại gặp may mắn lần nữa khi tiếp
cận với một chiếc tầu dầu Mỹ, tất cả được vớt và gởi tạm thời tại một trại tị nạn
ở thủ đô Jakarta, Nam Dương.
Sau này, nhiều người Phan Thiết vượt biển kể rằng sở dĩ họ không dám vượt biên ở
tỉnh nhà vì hầu hết những người có tàu thuyền tại địa phương rất gian xảo, đồng
ý tổ chức lấy vàng, rồi đi báo công an, sau đó tiếp tục làm lại từ đầu. Nhưng
theo dân biển, thì họ cũng bị người đi vượt biên gạt bằng cách chung vàng giả,
chỉ có lớp vàng mạ ở bên ngoài, bên trong là chì, bạc hay là đồng. Tóm lại ai
thật ai giả, không biết đâu mà mò. Nhưng có điều chắc chắn là từ sau năm 1980,
gần 90% các chủ ghe tàu Bình Thuận đã đem tàu thuyền của họ ra đi không trở lại,
mãi tới đầu năm 1990, khi Ðông Âu, Liên Xô giã từ thiên đàng xã nghĩa, Việt Cộng
đói quá chịu mở cửa đón Việt kiều khúc ruột xa khơi trở về, các chương trình
đoàn tụ gia đình, diện con lai, HO.. và trên hết quốc tế chấm dứt nhận người vượt
biển, người Bình Thuận mới chịu chấm dứt mộng du học ngoại quốc bằng đường biển.
Bổng thấy thấm thía vô cùng, khi nhớ lại câu nói của nhà cách mạng vĩ đại trong
thế kỷ XX là Phan Bội Châu “ Tòng Lai Quốc Dân Sở Dĩ Suy Ðồi, Chỉ vì Hai Nguyên
Nhân : BỤNG ÐÓI VÀ ÓC ÐÓI “ . Từ năm 1930 đến nay, cọng sản VN đã đấu tranh đẫm
máu, giết hại triệu triệu người, cũng chỉ muốn đạt cho được mục đích là đưa Dân
Tộc vào con đường cách mạng vô sản, bằng thống trị ngục tù, bằng gầy mòn đói
khát., bằng áp chế dối gian. Nhưng tất cả ngày nay đã trở thành những chiếc
đinh rỉ, đóng cứng chiếc quan tài đỏ, trong đó có chứa bao triệu oan hồn VN,kể
cả những người đã chết đói năm Ất Dậu 1945,những người sinh bắc tử nam, những
thuyền nhân chết trên biển. Tất cả là những nhân chứng, bia miệng ngàn đời bôi
đen VC trong dòng sử dân tộc.
Lúc nào cũng hô hào hòa hợp hòa giải dân tộc nhưng kể cả người chết cũng bị dầy
mồ, phá bia kỹ niệm, thì thử hỏi người sống làm sao yên được khi phải đối mặt với
VC ? -/-
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Giêng 2015
MƯỜNG GIANG
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết