From:"Tuan Ba Cao" <tuan.ba.cao@gmail.com>
Date:Wed, Mar 11, 2015 at 6:52 AM
Subject:Lời Sám Hối Muộn Màng
Chẳng lẽ ...NGỦ mãi
Xin mời đọc
CBT
**** Cám ơn ông Nguyễn Văn Nam rất nhiều đã
chuyển cho chúng tôi bài viết rất chân thật ,
rất đúng , rất phải của chính tác giả Lê Quốc Trinh ,
một kỹ sư Việt Nam du học tại Canada
trước năm 1975 đã từng bị Cộng Sản dụ dỗ bán mạng và
hoạt động , kinh tài cho Cộng Sản trong 17 năm ròng rã , đến
nay ông Lê Quốc Trinh đã nhận biết được sự thật độc ác , gian trá ,
xảo quyệt , lọc lừa , nguy hiểm của Cộng Sản Việt Nam từ 1945 đến bây giờ
nhất là sự
kiện Cộng Sản Việt Nam đã buôn bán tất cả giang sơn ,
đất đai , sơn hà , xã tắc , biển đảo VN cho Cộng Sản Trung quốc nên ông Lê
Quốc Trinh đã nhất quyết quay đầu về với Chính
Nghiã Dân Tộc Việt Nam và ông đã chính thức công khai
viết bài Lời Sám Hối Muộn Màng
nầy để gởi đến tất cả các người Việt Nam toàn thế giới
. Chúng tôi hoan hô , hoan hô , ngợi
khen ông đã quay về với Chính Nghiã Quốc Gia Dân Tộc
Việt Nam . Hoan hô , Hoan hô ....
Chúng tôi rất vui mầng mở rộng các vòng tay đoàn kết và
ân tình để đón chào ông và những
người khác giống như ông khi họ nhân biết được các sự
thật hiển nhiện và quay đầu về với
Chính Nghiã Tự Do , Dân Chủ , Nhân Bản , Nhân Quyền ,
Dân Quyền và Bình Đẳng thật sự
của Dân Tộc Việt Nam .... Tổ Quốc Việt Nam trên hết !!!!
Dân Tộc , Dân Chúng Việt Nam trên
hết !!!! Rất vui mầng đón chào tất cả quý vị trong tình
nghiã dân tộc Việt Nam . T. T. Miên .
-
<“Trong-kieu-dung-may-cho-gui-chut-hon-ta-”-635608105046218303.gif>
<images.jpg>
TRỂ CÒN HƠN KHÔNG !
LỜI SÁM HỐI NẦY ĐÁNG TRÂN TRỌNG, KHÔNG MUỘN MÀNG -
Lời sám hối
muộn màng
Lê Quốc Trinh
Lời sám hối muộn màng
“Em muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với
em rằng: ‘Chúng mình là người lớn. Hãy sống thế nào cho ra người lớn.’ Đừng
để con trẻ phải gánh chịu. Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều
đáng nhục. Mình chính là nhân tố thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp
Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân Việt Nam được sống an nhiên hơn.” –
Anna Huyền Trang
Hôm nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám
hối này để dứt khoát với những sai lầm trong quá khứ và nhân dịp chính thức
xin lỗi tất cả người dân miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống) cùng với
hàng triệu người Việt Nam di tản trốn ngục tù cộng sản, đã hy sinh hay đang
sinh sống khắp nơi trên thế giới.
Trước hết tôi xin tự giới thiệu. Tôi tên là Lê Quốc Trinh,
sinh năm 1948 cư ngụ tại Canada từ năm 1967, là kỹ sư cơ khí về hưu, gia
đình gốc Việt Nam, nuôi dưỡng con cái theo truyền thống Việt Nam. Cha mẹ
tôi là người miền Bắc, 1945 di cư vào Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở miền
Nam Việt Nam, tại Saigon thân yêu; tôi được hấp thụ một nền giáo dục cao
thượng, nhân bản, nồng nàn yêu nước dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa; vì
thế, tôi không thể nào quên công ơn của toàn thể nhân dân và chính phủ miền
Nam đã góp phần đào tạo tôi thành một con người lương thiện, biết tư duy và
có tình cảm.
Lời xin lỗi
Trước hết tôi thành thật xin lỗi cố tổng thống Ngô Đình Diệm
vì hành động theo đuôi phong trào Phật giáo xuống đường chống đối chính phủ
trong lúc không hiểu rõ nguồn cơn và sự thật của vấn đề. Năm 1963 tôi còn
là một thanh niên trẻ tuổi bồng bột; là một học sinh trường trung học Võ
Trường Toản, sát cạnh dinh tổng thống nên tôi dễ dàng bị lôi cuốn theo
những đoàn biểu tình một cách thiếu ý thức. Qua đến Canada tôi tìm, hiểu
được thêm nhiều chi tiết lịch sử, được nghe các nhân chứng kể lại về phong
trào Phật giáo, và tôi truy ra được nguồn gốc của sự kiện. Tôi sẽ trình bày
rõ thêm về vấn đề sau này.
Thứ hai, tôi thành thật xin lỗi gần hai triệu người tị nạn
miền Nam Việt Nam đã vượt biển, vượt biên đi tìm tự do(1), vì những hành vi
khi tôi sinh hoạt và đóng góp tích cực cho Hội Việt Kiều Yêu Nước tại
Canada (HVKYNTC), từ năm 1973 đến năm 1990. Tôi đã vô tình tiếp tay cho một
tổ chức ủng hộ và phục vụ cho Đảng Cộng sản và Nhà Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và sau này là CHXHCN Việt Nam, làm những việc góp phần xây dựng
cho một chế độ phi nhân bản, phản khoa học tại quê nhà. Tôi sẽ tiếp tục
trình bày cặn kẽ những sự kiện xảy ra ở trong tổ chức này này để tất cả bạn
đọc có thể thấy rõ bộ mặt thật của một nhóm người gọi là trí thức thân Cộng
trong thời gian Hội còn hoạt động (1969-1990) và cho đến ngày nay.
Thứ ba, tôi thành thật xin lỗi các bác, các anh chị, công
chức chính phủ và toàn thể các chiến sĩ, sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa
đã hy sinh để bảo vệ tự do – trong gần 21 năm, 1954-1975 – và đời sống của
người dân miền Nam Việt Nam. Tôi rời Sài Gòn, du học từ cuối năm 1967, nên
không có công lao gì trong công cuộc chiến đấu đầy xương máu chống cộng sản
xâm lược từ phía Bắc. Có quá nhiều tấm gương hy sinh quả cảm của sĩ quan và
binh sĩ quân lực Việt Nam Cộng hòa mà tôi không biết đến, đó là lỗi lầm và
thiếu sót của tôi. Đến nay nhờ thông tin quảng bá trên mạng lưới Internet
và qua thông tin cặn kẽ từ nhiều trang báo mạng hải ngoại mà tôi mới thực
sự hiểu nỗi thống khổ và hy sinh của các anh chị, các bác trong hàng ngũ
quân cán chính Việt Nam Cộng hòa.
Danh dự -Tổ quốc:
Một chiến sĩ Thủy quân lục chiến VNCH bị thương trong cuộc chiến đấu bảo vệ
người dân Sài Gòn chúng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968. Nguồn:
Angelo Cozzi/Mondadori Portfolio via Getty Images
Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ
Thật tình mà nói, tôi đã hoạt động tích cực ở đủ mọi lĩnh
vực trong một tổ chức thân cộng hơn 17 năm ròng nhưng không hề bị tư tưởng
Mác Lê ảnh hưởng vì những yếu tố sau:
- Là người suy nghĩ độc lập, bướng bỉnh, không a dua và
không quỵ luỵ từ nhỏ;
- Thích đọc sách, truyện, bị lôi cuốn theo lối sống miền Nam
ngày trước, chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hoá miền Nam dân chủ tự do.
- Gần 40 năm hoạt động trong ngành công nghiệp khai khoáng
và hoá dầu của Canada tôi đã học được nhiều điều hay về cách tổ chức, tư
duy, cách làm việc trung thực của hệ thống tư bản Bắc Mỹ. Điều này đã giúp
tôi đã gạn bỏ đi nhiều tàn dư rơi rớt trong lối học từ chương của Việt Nam
thời xưa cũng như tinh thần bảo thủ phương Đông; kinh nghiệm làm việc đã
giúp tôi hiểu rõ xã hội tư bản hơn và tránh được cạm bẫy dụ dỗ của ý thức
hệ cộng sản Mác Lê, và đã giúp cho tôi có cái nhìn chính xác về những con
người trí thức thiên tả tháp ngà trong Hội VKYNTC.
- Tôi cũng có được những tấm gương yêu nước dưới thời thực
dân Pháp từ những bậc tiền bối của gia đình. Ông ngoại tôi, cụ cử Nguyễn
Hữu Cầu, ông bác tôi, cụ Từ Long Lê Đại, là hai trong số những sáng lập
viên Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, đã từng bị thực dân Pháp bắt giam đầy ra
đảo hơn 17 năm trời. Bác tôi, cư sĩ Phật học nổi tiếng Thiều Chửu Nguyễn
Hữu Kha, người soạn ra bộ Hán Việt Tự Điển lừng danh, cũng từng bị Việt
Minh đem ra đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất 1954 khiến ông đã phải trầm
mình tự tử để minh oan. Tôi sẽ có dịp nói nhiều đến những kỷ niệm khó quên
về mặt tâm linh với bác Hai Kha Thiều Chửu cùng con cháu hậu duệ đã giúp
tôi lần dò tìm lại truyền thống yêu nước của giòng giõi nhà Nguyễn Đông Tác
ở Hà Nội.
- Là một trong những thành viên tích cực hoạt động giúp HVKYNTC
vì tôi nghĩ rằng mình đang góp phần giúp ích cho quê hương; với kinh nghiệm
của một kỹ sư cơ khí thích thiết kế và sáng tạo, tôi là người phụ trách
chính về công cuộc cải tạo xây dựng lại Hội quán, số 1450 đường Beaudry,
Montreal, giúp cho Hội đoàn này có cơ sở vật chất vững mạnh để phát triển
thịnh vượng từ năm 1984 đến 1990. Và tôi cũng có một số hiểu biết nhất định
về nhiều vấn đề liên quan đến những công ty kinh doanh do một số nhân vật
trong ban lãnh đạo Hội đứng đầu. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở những bài sau.
1450 Rue Beaudry,
Montréal H2L 3E5: Trụ sở kinh tài của Hôi VKĐK thời Việt Nam bị cấm vận đến
khi tan vỡ (1984-1990). Nguồn: Google Maps.
- Mẹ tôi là một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt
Nam, tận tuỵ tần tảo hy sinh xây dựng gia đình, nuôi nấng con cái. Nhà in
Hưng Long, ở Chợ Cũ Saigon, do mẹ tôi thành lập từ 1960, đã từng in ấn rất
nhiều kinh sách nhà Phật. Tôi là thầy cò, có trách nhiệm kiểm tra văn tự,
lỗi chính tả trước khi lên khuôn. Do đó tôi có cơ duyên tiếp xúc với triết
lý nhà Phật sớm; sau này, qua nhiều tác phẩm của bác Thiều Chửu tôi lại có
dịp tìm hiểu nghiên cứu thâm sâu về đạo Phật. Mạng lưới Internet cùng với
nhiều diễn đàn đã giúp tôi hiểu rõ phong trào Phật giáo thời 1963, cùng với
kinh nghiệm sống trong xã hội tự do dân chủ tư bản ở Bắc Mỹ đã khiến tôi đã
phải tự thay đổi tư duy để có quan điểm đúng đắn về lĩnh vực tôn giáo tâm
linh;
- Tôi là người thích âm nhạc từ nhỏ, tự học thổi sáo, chơi
khẩu cầm, đánh đàn mandoline, và tôi đã đi vào thế giới tân nhạc Việt Nam
với cả trái tim nồng nhiệt. Tôi đã từng mời nhiều em khiếm thị ở trường Mù
Saigon đến nhà giúp tôi học thêm về lý thuyết và thực hành âm nhạc. Tôi
biết đến nhạc tiền chiến rất sớm, thưởng thức nhiều bản nhạc xa xưa ngay
tại miền Nam trong những năm 1960, những tác phẩm mà chính quyền cộng sản
miền Bắc đã nghiêm cấm. Tôi sưu tầm những bản hùng sử ca Việt Nam từ thời
kháng chiến chống thực dân Pháp để hiểu rõ thêm bối cảnh lịch sử và tâm tư
của nhiều nhạc sĩ dân gian nổi tiếng. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ thêm sau này.
Đối tượng của lời sám hối
Tôi biết trước những hậu quả khó tránh khỏi khi viết bài
đăng tải rộng rãi trên các trang báo Mạng. Trước tiên là tình bạn hữu có
thể sẽ bị sứt mẻ trầm trọng với những người tôi từng sát cách sinh hoạt
trong HVKYNTC; sau nữa là những thay đổi có thể có trong quan hệ gia đình
từ Canada cho đến Việt Nam. Tôi chấp nhận tất cả và xem như đó là cái giá
có thể phải trả; tôi sẽ chấp nhận, chịu đựng mọi hệ quả để lương tâm được
thanh thản không còn bị giầy vò.
Tuy nhiên, tôi xin phép có đôi lời nhắn gởi đến với tất cả
các anh chị bạn bè quý mến trong Hội.
Thân gửi các anh chị em quý mến trong Hội,
Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của các anh chị em hơn hai
năm qua, từ khi tôi viết và đăng trên Mạng bài “Sự thật nằm sau bức công
hàm Phạm Văn Đồng 1958”(2). Tôi đã gửi riêng cho các anh chị bài viết đó
qua e-mail để giúp các anh chị tìm hiểu rõ hơn nội dung bức công hàm và bối
cảnh lịch sử xung quanh sự kiện rất quan trọng này. Thế nhưng tôi đã hoài
công và vô cùng thất vọng, vì không được một câu trả lời dù đồng ý hay phản
đối lập luận của tôi. Tôi xin phép được nhắc lại bài viết đó để anh chị đọc
lại và cho cộng đồng người Việt hải ngoại cùng xem và phê phán.
Hai năm trôi qua, những gì xảy ra ở Biển Đông, xung quanh
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã đủ để chứng minh cho những lập luận,
phân tích và nhận định của tôi. Trung Quốc càng ngày càng hung hăng, xâm
lấn ngang ngược. Trong khi đó thì tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam
và Nhà Nước CHXHCN Việt Nam lại càng co vòi, lép vế, ngậm miệng nín khe. Họ
cùng ngồi yên, nhìn ngư dân Việt Nam bị cướp phá uy hiếp. Tất cả đều chứng
tỏ lãnh đạo Việt Nam chỉ là một bè lũ bù nhìn, bán nước. Họ đã lấy giang
san lãnh thổ đem bán – bằng văn tự – cho lũ láng giềng hung tợn phương Bắc,
để nhận được viện trợ vũ khí đạn dược, nhiên liệu thực phẩm, hầu thực hiện
mưu đồ chiếm nốt miền Nam trù phú phì nhiêu. Trong khi đó, ngay sau khi
Trung Quốc đưa Tuyên bố về Lãnh hải ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa, bằng hành động, đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ ở đảo
Quang Hòa(3) và ở quần đảo Hoàng Sa bằng trận hải chiến năm 1974, cũng như
những công văn gởi đến Liên Hiệp Quốc phản đối CHNDTH vi phạm trắng trợn
chủ quyền Việt Nam(4).
Công văn của Đại
sứ Nguyễn Hữu Chí gởi Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ, Gonzalo Facio, phản đối
CHNDTH trắng trợn vi phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, trang 1/5
(New York, 18/01/1974). Nguồn: Wilson Center. Digital Archive,
International History Declassified
Các anh chị theo dõi sát tình hình Biển Đông từ lúc dàn
khoan HD-981 lừng lững đi vào lãnh hải Việt Nam và ngang nhiên cắm sào thăm
dò dầu khí của Việt Nam. Các anh chị cũng đã xuống đường phản đối theo đúng
chỉ thị… rồi sau đó mọi việc, một cách êm thắm, lại đâu vào đó. Trung Quốc
vẫn tiếp tục ngang nhiên xâm phạm biển đảo Việt Nam, và anh chị vẫn im hơi
lặng tiếng. Đó có phải là hành động và tư cách của những con người trí thức
hải ngoại, những người đã từng hấp thụ một nền giáo dục nhân bản, khai
phóng của miền Nam Việt Nam, những người từng vỗ ngực tự xưng là Việt Kiều
Yêu Nước Tại Canada?
Tôi rất mong các anh chị suy nghĩ lại, đặt quyền lợi đất
nước và con người Việt Nam lên trên tất cả mọi quan hệ lợi nhuận riêng tư
với chế độ cộng sản đương quyền, để cùng nhau lên tiếng sám hối vì an nguy
của cơ đồ tổ quốc. Cơ hội để cứu nguy cho đất nước không còn nữa đâu! Hơn
60 năm qua, chủ nghĩa cộng sản ngấm quá sâu vào não trạng người dân miền
Bắc, toàn thể Bộ Chính trị đảng cộng sản và tập đoàn lãnh đạo Nhà Nước Cộng
sản Việt Nam đã và đang bị thế lực từ phương Bắc uy hiếp, mua chuộc, ly
gián. Bài học lịch sử về tình báo, nội gián Trọng Thủy-Mỵ Châu vẫn là tấm
gương lớn cho hậu thế luận cổ suy kim. Giặc bên ngoài và bè lũ tay sai nội
gián bên trong đã và đang gặm nhấm, bào mòn truyền thống yêu nước chống xâm
lược của dân tộc, các anh chị chưa thấy sao? Nếu quả thật văn kiện bí mật
từ Hội Nghị Thành Đô năm 1990(5) có thật, vì Đảng và Nhà Nước Việt Nam vẫn
còn ngậm miệng nín khe trước sức ép dư luận trong nước [xem thêm Kiến Nghị
của 61 vị nhân sĩ tướng tá QĐND Việt Nam năm 2014], thì chúng ta chỉ còn
không tới 5 năm để lên tiếng phản kháng và để nuôi hy vọng dân tộc Việt Nam
sẽ thoát khỏi ách thống trị Đại Hán. Các anh chị không cảm thấy quan tâm,
áy náy và trăn trở trước vấn đề nghiêm trọng này hay sao?
Nguyện vọng tương lai
Nghĩ lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một đời
thanh niên đã bị lừa dối, bị đánh cắp, và cảm thấy rất ăn năn vì đã không
trực tiếp góp phần với cuộc đấu tranh đòi lại công lý cho toàn thể nhân dân
miền Nam. Tôi cảm thấy xấu hổ khi có lúc đã sử dụng ngôn ngữ tuyên truyền
của chủ nghĩa cộng sản một cách vô ý thức. Nay là lúc cần phải phân tích và
tìm hiểu cặn kẽ, nhận định rạch ròi xem ai mới chính là những kẻ “phản
động, phản quốc, bù nhìn, tay sai ngoại bang”. Như thế là một phần nhỏ
góp vào việc viết đúng sự thực lịch sử Việt Nam cận đại, đặt quân cán chính
và người dân miền Nam Việt Nam cũng như hàng triệu người tị nạn cộng sản
khắp nơi vào đúng vị trí trong lịch sử nước nhà. Lời sám hối của chúng ta có
thể là những nhúm lửa nhỏ đốt cháy những ngôn từ tuyên truyền của tập đoàn
cộng sản đang tiếp tục lừa bịp nhân dân Việt Nam và cả những thế hệ tiếp
nối của chúng ta.
Tôi rất mong được đứng nghiêm, chào lá cờ vàng ba sọc đỏ của
Việt Nam Cộng hòa và cất cao tiếng, hát bài Tiếng Gọi Thanh Niên (Quốc Ca
Việt Nam Công hòa) ngày trước. Tôi rất mong được trở về quê hương như một
kỹ sư đã nghỉ hưu, đem 40 năm kinh nghiệm ở xứ người góp phần phục vụ đất
nước trước khi chết.
Đường Hàm Nghi – Sài Gòn 1967, ngày ấy tôi
đi. Photo: Donald Jellema
Montréal, Canada
4 tháng 3, 2015
(1) 1,642,179 người đã rời bỏ Việt Nam (kể cả người gốc Hoa
và người miền núi) đi tị nạn khắp thế giới trong giai đoạn 1975 – 1997.
Canada đã nhận định cư cho 163,415 người. Nguồn: Robinson, W. Courtland,
Terms of Refuge,United Nations High Commissioner for Refugees, London: Zed
Books, 1998 p. 270, 276, Appendix 2; Far Eastern Economic Review, June 23,
1978, p. 20.
(2) Lê Quốc Trinh, Sự thật nằm sau “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”, Dân
Làm báo, 30/04/2013.
(3) Năm 1957, hãng thông tấn Tân Hoa (New China News Agency) của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa đưa tin “quân đội miền Nam Việt Nam của Ngô Đình Diệm”
đã chiếm đóng các đảo Hữu Nhật (Robert), đảo Hoàng Sa (Pattle), đảo Quang
Ánh (Money) thuộc quần đảo Hoàng Sa. (Nguồn: South Vietnam Troops Illegally
Occupied Chinese Island, NCNA, New China News Agency Peking, March 6, 1957
in SCPM, no. 1486 (March 11, 1957), p.22 trích dẫn lại trong Hungdah
Chiu & Choon‐Ho Park (1975):
Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development
& International Law, 3:1, 1-28).
Ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ nước CHNDTH công bố Tuyên bố Lãnh hải 12 hải
lý kể cả các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như Bãi Macclesfield (quần
đảo Trung Sa). Ngày 22 tháng Hai, 1959, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trả
lời Trung Cộng bằng hành động, Hải quân VNCH đã đến đảo Quang Hòa bắt 82
ngư dân Trung Hoa (sau đó đã trả tự do) và một tháng sau đó lại khẳng định
chủ quyền của Việt Nam một lần nữa, cũng tại đảo Quang Hòa.
(Nguồn:Statement of the Ministry of Foreign Affairs on the Encroachment
upon Our Territorial Sovereignty and the Capture of Our Fishermen by the
South Vietnamese Authorities, February 27, 1959, in Chung-hua jen-min
kung-ho-kuo tui-wai kuan-hsi wen-chien-chi, vol. 6, 1959, pp. 27-28;
Further Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the People’s
Republic of China Protesting the Illegal Acts of the South Vietnamese
Authorities on the Encroachment of Our Territorial Sovereignty, Capture and
Mistreatment of Our Fishermen, April 5, 1959, ibid., pp. 37-38 trích dẫn
lại trong Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly
Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28).
(4) Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Gonzlio Facio, Chủ tịch HĐ Bảo an
LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp
Quốc, Số 2142 UN/VN và 2143 UN/VN. Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông
Kurt Waldheim, Tổng thư ký LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt
Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2144 UN/VN.
(5) Nguyễn Trọng Vĩnh – Mặc Lâm (RFA), Hậu quả sau hội nghị Thành Đô? RFA,
2012-10-09
********
Xin đừng quên !
Hội Ngộ Kỳ 6, LK SVSQ/KQ 72 & 73
Ngày 3 & 4 tháng 9, 2016
tại Portland, OR. USA
_____________________________________________________________
"Tuyệt vời của
cuộc đời là sự khác biêt !" Vì
thế nếu quý vị không muốn tiếp tục nhận, xin báo tuan.ba.cao@gmail.com. Thành thật cám ơn.
Thân kính,
Cao Bá Tuấn
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết