On Saturday, April 11, 2015 3:38 PM, Truc Nguyen <> wrote:
---------- Forwarded message ----------
From: <CAMPHAN
From: <CAMPHAN
Xin đừng quên
CBT
DI
TẢN VÀ VƯỢT BIÊN
KÝ
ỨC VỀ NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN
Bùi
Trọng Cường & Nguyễn Phục Hưng
Sau ngày 30-4-1975, một ký giả Tây phương đã viết là ‘Dưới chính sách khắc nghiệt của Cộng sản, nếu cái
cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên’. (Ginetta Sagan). Câu
nói dí dỏm của Sagan đã diễn tả được một thực trạng rất bi hài của dân dộc Việt
Nam trong khoảng thời gian hơn hai mươi năm kể từ Tháng Tư, 1975 cho
đến năm 1996.
Những người chạy trốn chế độ Cộng Sản có
thể chia làm hai đợt chính:
Đợt đầu được mệnh
danh là người Di Tản vì họ rời Việt Nam ngay trong khoảng tháng Tư 1975 và
Đợt thứ hai
thường được mệnh danh là ngưòi Vượt Biên, dù bằng đường bộ hay đường biển.
Di Tản
Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày chính thức
ghi nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà trước làn sóng xâm lăng của cộng quân.
Cuối tháng 4,1975 đã có những đợt rời Việt Nam của các nhân viên và
gia đình các sứ quán, công ty ngoại quốc cũng như nhừng người Việt có phương
tiện riêng hoặc được các cơ quan Hoa Kỳ và các nước đồng minh bảo
trợ.
Ngày 29 tháng tư 1975, Tổng Thống
Hoa Kỳ Gerald Ford chính thức ra lịnh khỏi động chiến dịch “Frequent Wind” để
di tản quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và một số người
Việt đã từng cộng tác hay liên hê với chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa rời khỏi Việt Nam để tránh bị Cộng Sản trả thù.
Cùng thời điểm này, rất nhiều người Việt
Nam cũng đã quyêt đinh di tản. Họ là những người mà đã ít nhất một
lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà, tổ tiên để di cư vào Nam năm
1954, họ là những người đã có ít nhiều hiểu biết, kinh nghiệm về cộng sản, họ
là những người đã may mắn vượt thoát được sau cuộc triệt thoái của Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa khỏi miền Cao nguyên và miền Trung, họ là những người chối bỏ chế độ cộng sản. Ðó là lý do mà
làn sóng người di tản trong tháng Tư 1975 đã làm nhiều người ngạc nhiên với con
số khoảng 300 ngàn người và các cơ quan cứu trợ quốc tế đã phải mất nhiều thời
gian để giúp họ định cư ở các nước tự do nhất là Mỹ, Canada, Úc, Tân Tây Lan và
các trai tạm cư ở Subic Bay (Philippines), Guam, Wake Island, California,
Arkansas, Florida, Pensylvania ãa phải mở mãi cho đến cuối năm 1975.
Chiến dịch ‘Frequent Wind” trên nguyên tắc
chỉ kéo dài từ 3:30 chiều ngày 29 tháng tư và chấm dứt vào đúng 21 giờ ngày 30
tháng tư, 1975 khi người lính Mỹ cuối cùng được trục thăng bốc khỏi Sàigòn và
trụ sở của cơ quan DAO (Defence Attachés Offfice) của Hoa Kỳ được Thủy quân lục
Chiến Hoa kỳ cho phá nổ.
Tuy nhiên với làn sóng
người di tản rầm rộ đổ ra
biển Thái Bình Dương bằng các tàu hải quân, thương thuyền và cả các tàu đánh cá
nhỏ, việc cứư vớt người vẫn được tiếp tục trong nhiều tuần sau đó. Hạm
đội số 7 của Hải quân Hoa Kỳ với các hàng
không mẫu hạm Hancok , Midway và nhiều tàu chiến hạm cũng như
nhiều thương thuyền Hoa kỳ và quôc tế đã tham dự vào chiến dịch cứu vớt người
trên biển rồi chuyển qua các trai ty nạn ở Subic, Guam trước khi phân tán họ đi
tị nạn tai Hoa kỳ và các nước tự do khác như Canada, Uc, Pháp, Anh, vân
vân. Trên thực tế, giai đoan di tản và vượt biên không có sư gián đoạn. Có
chăng chỉ là sự phân chia thời điểm chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt chiến dịch vớt
người trên biển mà thôi, còn sự ra đi của người Việt vần tiếp tục không ngừng.
Những hình ảnh sau đây ghi nhận cảnh hãi
hùng của một cuộc di tản chưa từng có trong lich sử Việt Nam và thế giới.
Đoàn người Di tản từ miền Trung
Helicopter
Evacuation From the American Embassy
Dân
Di Tản Chạy ra Tr ực Thăng tại Trụ sở DAO, Saigon
Dân
Di Tản đến Midway bằng trực thăng Hoa Kỳ
Một
máy bay VNCH chở người di tản đáp xuống Midway
Một
Thuyền Đánh Cá chở người Di Tản được Midway tiếp cứu
Cuộc Di Tản tháng
tư năm 1975 đã có nhiều cảnh đẫm máu và nước mắt
nhưng tình nhân loai cũng đã được biểu lộ rõ rệt từ những quân nhân
và các cơ quan từ thiện. Sau khi đã
đến đựợc Mỹ hay các nước mở vòng tay đón nhân, dân Di Tản còn phải trải qua
nhiều khó khăn như sự khác biệt ngôn ngữ, văn hóa, vân vân để tạo
lại cuộc sống.
Vượt Biên
Họ ra đi mà không biết mình đi đâu, sẽ đến
đâu; đa số không biết gì về đại dương, cùng những nguy hiểm của những
chuyến hải hành cũng như không biết gì về những khó khăn khác đang chờ đợi họ.
Ðó là lý do mà có lúc người ta đã nói “ nếu có
ba người vượt biên thì chỉ có một người đến bến an toàn, một người chết trên
biển vì bảo tố, đói khát và hải tặc và một người sẽ bị bắt lại và đi tù”.
The State of the World’s Refugees 2000:
50 Years of Humanitarian Action
Những Người Vượt
Biên là ai và tai sao họ phải liều mình đi tìm Tự Do?
Họ
chính là những người chậm chân trong giai đoạn Di Tản. Có thể lúc đó họ còn
chút hy vọng là những người Cộng sản cũng còn chút lương tâm và sáng suốt không
nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không đội trời chung và họ
sẵn sàng cộng tác với những người Cộng sản để cùng xây dựng một Đât nước Thông
Nhất trong Hòa Bình. Họ đã lầm sau
bao nhiêu ngày lầm than tôi mọi cho những người Cộng Sản vô lương. Họ
đã mất hết tài sản, tự do và cả phẩm giá con người dưới chánh sách trả thù tàn
bạo của Cọng sản. Họ có thể chịu nghèo khổ để hy vọng vào một tương
lai xán lạn. Nhưng tương lai chỉ có tù đầy, thù hận và dối trá. Thế
hệ của họ coi như bỏ vì họ đã lỡ tin Cộng Sản. Nhưng còn thế hệ con cái họ? Họ
không thể chịu cực khổ nhìn con cái họ trở thành những con vật trong xã hội
Cộng sản Xã hội Việt Nam đã lùi lại hơn 30 năm sau cái ngày gọi là ‘giải
phóng’. Tương lai họ còn gì đâu ngoài một lối đi duy nhất: Vượt Biên. Nếu
may ra thoát được qua bờ Tự Do thì con cái họ còn có hy vọng sống được một cuộc
đời đáng sống. Còn không, đời sống ở Việtnam có khác gì đã chết. Bới
vậy Họ đã quyết chí liều mình Vượt Biên qua Cam-pu-chia, đến Thái
Lan hay Vượt Biển qua Mã Lai, Nam Dưong, Phi Luật Tân nơi nào cũng
được, miễn là ra khỏi điạ ngục Việt Nam bất chấp sự bắt bớ lùng xét của công
an, hiểm nguy của hải tặc, bão tố hãi hùng ngoài biển Đông.
Sau đây là vài trích đoạn từ các tác phẩm
viết về tỵ nạn:
“Người Việt Nam chỉ ra đi trong thế cùng,
không còn cách nào có thể sinh sống tại quê hương của mình. Ðây là một cuộc bỏ
phiếu vĩ đại chống lại chế độ cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình.
Trong số nầy, rất nhiều người mang hoài bảo sẽ có một ngày trở về quang phục quê
hương. Số người tử nạn trên bước đường vượt biên không thể thống kê
chính xác được. Người ta phỏng chừng từ 400.000 đến 500.000 thuyền
nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.
Vượt
biên sau năm 1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ
ngày lập quốc. Ðây là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với Nam
Việt, Bắc Việt, Hoa Kỳ và cả thế giới. Trước đó, không một ai có thể
tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang
bằng với thời gian chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ
đất nước bằng tất cả các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt
biên, lên đến khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam
lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).
Những
Thuyền Nhân nằm la liệt trong khoang tàu
Những
đợt vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống đã làm rúng động lương tâm nhân loại,
và đã phơi trần bản chất độc ác của chế độ Cộng Sản Việt Nam (CSVN) trước công
luận thế giới. Sự kiện nầy là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với nhân
loại về “Thiên Đường Cộng Sản” và trở thành động cơ thúc đẩy các
nước Ðông Âu ly khai chủ nghĩa cộng sản, và dẫn đến sự sụp đổ của
khối cộng sản năm 1990-1991?
Phỏng
theoTrần Gia Phụng
‘‘Bước vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là
một trong các nước chậm tiến trên thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm năng, nhưng vì
sai lầm nghiêm trọng của đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa. Những thảm trạng xẩy ra
trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong đó có hai sự kiện gần
nhất là việc nhà cầm quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù cải tạo
và việc người dân trốn ra ngoại quốc trong những điều kiện bất trắc
đầy nguy hiểm. Giam giữ người vô tội trong các trại tập trung cải tạo, chế
độ cộng sản đã một mặt vi phạm tội ác, một mặt phung phí năng lực quốc gia để
phục vụ mục tiêu đảng phái. Đảng Cộng Sản không chịu thú nhận
rằng chính tàn bạo của họ là nguyên nhân khiến người dân phải bỏ nước ra đi, mà
họ còn lợi dụng cơ hội ra đi đó để cướp đoạt tài sản, thu vàng bán bãi, mặc cho
tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài và biết bao người dân lương thiện đã bị
chết kinh hoàng trên biển cả.
Phạm Hữu Trác – Vàng Máu và Nước Mắt
Trong 2 năm qua, nhất là từ tháng 9 năm
1978, làn sóng người tị nạn từ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
tràn ngập các trại tị nạn ở Ðông Nam Á. Ngoài ra, hàng trăm ngàn
người Việt Nam đã bị chính quyền Hà Nội bắt buộc ra đi trên những con tàu không
thể đi biển được, và đã biến mất trên Biển Ðông đầy bất trắc. Ở một
số bờ biển Thái Lan, các ngư dân đã phải quay tàu về đất liền khi chứng kiến
cảnh hãi hùng như một phần thi thể của người vượt biển vướng vào lưới, vân vân.
Thuyền
Nhân trên đường vượt biển
Vì
sao quá nhiều người liều mạng bỏ trốn khỏi Việt Nam? Ta có thể tìm thấy câu trả
lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến đã được công khai thực hiện:
“tiêu diệt các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ bù nhìn, đánh bại giới tư
bản”
Hiện
tượng thuyền nhân đã phản ảnh được cái đau khổ của người phải rời bỏ quê hương. Họ
không phải chỉ kín đáo đi từ bên này sang bên kia biên giới, chờ đợi cơ hội
quay về khi mọi chuyện đã trở lại bình thường hay theo ý họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết trước mình sẽ đến đâu, không
có viễn ảnh hồi hương, và cam chịu mọi hiểm nguy. Họ phải đang tâm
cắt bỏ những ràng buộc với quê hương và dân tộc.
Vietnamese
refugees http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-08.html
Thuyền
nhân là những người không chịu đựng được chính sách hà khắc của
chính quyền cộng sản Họ là những người mà trước năm 1975, không bao giờ muốn
rời bỏ quê hương. Trớ trêu thay, lịch sử đã đảo lộn, đã thay đổi
cuộc đời ho vượt xa sức họ tưởng tượng, đến mức họ phải quyết định bỏ lại sau
lưng tất cả những người và những gì yêu quý, liều mạng sống của mình cũng như
chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một tương lai bất định, để rời khỏi Việt Nam.
Lesleyanne Hawthorne
- Refugee - The Vietnamese Experience
Những
‘thuyền nhân’, danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi ro lớn
lao, từ rất lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố gắng
tìm cách để thoát được công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận rủi ro bị
bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống
được tàu phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người không thích
hợp để đi vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi đến Thái
Lan hoặc Mã Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Ðại Lợi. Biển
cả cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là bao nhiêu.
Thuyền
chở 162 người vượt biển bị đắm lúc sắp đáp được vào
Tuy
vậy, cuối cùng thì câu chuyện về những người tị nạn Ðông Dương là câu chuyện về
những người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị chính
quyền của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt bởi
các quốc gia lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất là vào lúc
đầu bởi các nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả năng và
tấm lòng cứu vớt thuyền nhân.
Barry Wain - The
refused: The Agony of The Indochina Refugees
“Chúng
tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có
tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc
làm. Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng
tôi có rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện
không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết.”
Refugee:
Thailand, 1978
“Trong
bệnh viện, một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu
họ đã đến đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đã chết
đuối.”
Delegates
of ‘Society of Friends’: Malaysia, 1979
“Các
lính tuần tra phát giác có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước. Họ
chuẩn bị tăng tốc độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao nhựa này đã
được thổi phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết bơi. Người
mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đã không may chết đuối trước
đó.”
Report:
Mekong River Crossing, 1978
Người
mẹ của một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào của
Thái Lan nhảy sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm gì”, cô vừa kể vừa
khóc nức nở. “Tôi van xin chúng đừng làm gì trước mặt con trai tôi. Vì
thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó.”
Refugee:
Malaysia, 1979
Anh
Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở 1 bờ
biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba.
Anh
ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp
thời tiết và gió thuận lợi, và không bị rắc rối gì về máy tàu. Vào
ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu
anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy
đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu
chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô
này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được
kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy
qua tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi
chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải
chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ
tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập
đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp
giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp
nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân
còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ
mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối. 10 người trong số họ sống sót, sau
đó được vớt lên và đưa tới Songkhla.
Toàn
thể thính giả đều nín lặng. Ðó là một câu chuyện thương tâm hơn
những chuyện khác, nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có. Có rất
nhiều tàu tị nạn đã bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần.”
UNHCR:
1979
Bao
nhiêu thuyền nhân đã chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói với chúng tôi rằng
có lẽ 5% các tàu rời Việt Nam đã bị mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có
đến 70% tàu không hề đến được bờ.
Delegates
of ‘Society of Friends’: Pulau Bidong, 1979
Georgina
Ashworth The boat people and the road people
Trong
vài năm đầu những thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử tế bởi dân chúng và chính
phủ các nước láng giềng nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những niềm
nở ban đầu đã bị giảm xuống hoặc tệ hơn đã bị thay bằng thái độ xua đuổi như đã
từng xẩy ra ở Thái Lan, Mã Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị tầu hải quân
Mã kéo trở ra hải phận quốc tế có một số đã bị chìm và làm chết oan một số
người. Do đó nếu như may mắn không bị bắt lại, thoát được gió bão, không
hư máy dọc đường và không gặp hải tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được
các trại tạm cư. Ðó là chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi phương tiện
từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm…nơi các trại tỵ nạn. Thật ra dùng
chữ trại tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không một quốc gia
nào có thể lường được là con số người chạy cộng sản, bỏ nước ra đi sẽ đông đến
như vậy. Do đó chẳng có quốc gia nào đã có những sửa soạn để có thể đón
tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ nạn đã là
những kho xưởng, những trại lính, những chiếc phà cũ, những chiếc phao nổi,
những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm chơ vơ giữa đại dương. Ðặt
được chân trên đất là phải đi tìm cỏ, đốn cây để dựng lều để tạm trú tránh cái
nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….Còn nhiều nhiều nữa, kể sao cho hết những
cái khổ của kiếp lưu vong. Ðến năm 1988 vì quá mệt mỏi với số người tỵ
nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Ủy tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm
cư đã quyết định áp dụng hệ thống thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính
trị của các thuyền nhân nếu họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này
cũng đã gây ra khá nhiều thảm cảnh rất đáng thương như được kể lại dưới
đây.
Sau
đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó.
“0
giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người Việt Nam vượt biển
đến Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người nhập cảnh
bất hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính
trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ ba. Thời điểm phủ
nhận ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển. Thời điểm đánh đổ mọi
luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi tìm chỗ trú, và đồng thời che dấu
luôn sự bất lực của con người trước thảm cảnh của đồng loại, sự hấp hối của
lương tri trước nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn. Như một tấm màng
nhện giăng ra chận bắt những cuộc đời lưu lạc, thời điểm 16-6 dựng nên những
trại giam khổng lồ trên khắp thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh thời
đại.”
Lê
Ðại Lãng - NƯỚC MẮT TRONG TIM
“Ngày
20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã
chết vì phỏng nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự
thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày thì anh qua đời.
Vietnamese
refugees were allowed to come on shore at the Government Dockyard at Canton
Road. A number of water taps were installed for them to take a cold
shower.
Ngày
12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của Nam Việt
Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị
nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để
lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.
Ngày
30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu
sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị.
Hoàng
Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt
Nam. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết
trong ‘trại cải tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất khỏi
nhà, tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi
trường vì ‘lý lịch gia đình xấu’. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn
bị khước từ quy chế tị nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô
cũng bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái
Lan.
Vụ
tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở
trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống
biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.
Trần
Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tị
nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt ‘thanh
lọc’. Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức duyệt xét đòi
hỏi, đơn kháng cáo của anh sau đó cũng bị bác.
Ngày
8/12/1993, Trần Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên
Hiệp Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.
Tháng
2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự
thiêu sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.
Vietnamese
refugees arriving at Hong Kong by junks.
Crowd
of refugees
“Chị
thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng
mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng
sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”
(Thư
tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị,
vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày
16/2/1990.)
“Bản
tường trình của luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy
tôi vào chỗ chết.”
(Trịnh
Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tị nạn LHQ ở Galang,
Nam Dương, ngày 27/8/1992.)
“Tôi
chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự
sống cho nhiều người khác.”
(Vài
hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm vào
tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tị nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mã
Lai.)
Living
in the Refugee Camp
VIETNAMESE
BOAT PEOPLE – A CRY TO HUMANITY
Inside
the Refugee Camp
Boat
people were waiting for medical checks before transferring to refugee camps
Lời Kết
Cuộc
Di Tản và Vượt Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản án muôn đời đối
với chính sách vô nhân đạo của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh tượng đau thương,
kinh hoàng mà người Di Tản và Vượt Biên phải gánh chịu thật không
bút nào ta hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy bất hạnh đó, cũng không
thiếu những tấm lòng bao dung, thể hiện rõ tình người, của binh sĩ
và dân chúng Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong thế giới tự do, nhất
là các nước vùng Đông Nam Á đã bao dung chúng ta tại các trai tị nạn.
Chúng
ta mang ơn dân chúng và chính phủ các quốc gia đã cưu mang người
Việt tỵ nạn, giúp chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc đã cứu vớt tầu tỵ nạn khi
lạc lối, hết lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự thành
công của thế hệ thứ hai trong Cộng Ðồng Người Việt Hải Ngoại, sẽ không bao giờ
xảy ra nếu không có sự cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới Tự
Do vào thời điểm đen tối đó.
Ngày
hôm nay, sau hơn 30 năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ trong những nỗi khổ đau
của dân tộc để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử không phải là của
riêng Việt Nam, mà là của thế giới, trong đó chính chúng ta vừa là tác nhân,
vừa là nhân chứng.
Các
em tới Trại Tỵ Nạn . . . và thành
công trên quê hương thứ hai
Hơn
40 năm sống lưu vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có ngày trở về để
góp phần xây dựng lại quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm được sống
trong không khí Tự Do, Dân Chủ đích thực mà dân ta chưa bao giờ được hưởng.
Ðiều
này chỉ có thể xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật tâm đặt quyền lợi
của Tổ Quốc lên trên mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự chi phối của các
thế lực chính trị quốc tế.
--
********
Xin đừng quên !
Xin đừng quên !
Hội Ngộ Kỳ 6, LK SVSQ/KQ 72
& 73
Ngày 3 & 4
tháng 9, 2016
tại Portland, OR.
USA
_____________________________________________________________
"Tuyệt vời
của cuộc đời là sự khác biêt !" Vì
thế nếu quý vị không muốn tiếp tục nhận, xin báo tuan.ba.cao@gmail.com.
Thành thật cám ơn.
Thân
kính,
Cao
Bá Tuấn
"Bạc lòng nhưng chẳng
cam lòng
mang theo nhục nước vào
trong mộ phần" HHC
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết