TRƯỜNG XUÂN - TRƯỜNG XUÂN
Giao Chỉ - San Jose
Giao Chỉ - San Jose
Tàu Trường Xuân.
Tháng 4 năm 1975 Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng: Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 40 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 40 năm sau (1975-2015 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).Chuyện này tôi kể đi kể lại. 10 năm trước. 5 năm trước và bây giờ. Trăm năm sau biết ai còn kể lại ...
* * *
Có con tầu nằm trên bến đỗ...
Ông Trần Đình Trường, Chủ nhân Vishipco Line
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipco Line của chủ nhân Trần đình Trường. Ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước. Ông qua đời và dường như sắp giỗ lần thứ ba...
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.
Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila.
Một chuyến đi vô thưởng vô phạt.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy
lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường
ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong được dùng Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn.
Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người.
Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian
nan phức tạp vào tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới
29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh.
Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.
VISHIPCO LINE TRƯỜNG XUÂN RA KHƠI
Thông thường thủy
thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300
hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào. Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến
Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.
Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cả 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.
Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cả 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.
Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ
đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp
bàn về việc bỏ súng và bàn giao.
Ðài phát thanh Saigon chuẩn
bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người
anh em phía bên kia, xin mời vào nói chuyện.
Thủ tướng Vũ văn Mẫu
kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.
Giữa mùa hè chói chang,
radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc
trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt
vọng. Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng
đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên
kho đạn Thành Tuy Hạ.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai. Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay chuyến cuối cùng không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình bà tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai. Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay chuyến cuối cùng không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình bà tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.
Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã
thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường
Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 40 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 40 năm sau.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 40 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 40 năm sau.
Trở lại với Trường Xuân
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.
TẦU TRƯỜNG XUÂN TRƯỚC KHI RỜI KHO NĂM SÀI GÒN
Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba
thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba
ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam
phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào
chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những
tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người
đi tìm tự do đến được bến tự do.
TẦU KÉO SONG AN
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy
đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An.
Song An là ai ?
Ðây chỉ là tên con
tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Ông già Trường
Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra
đến hải phận, cho đến lúc ông già Trường Xuân tự chạy được, bác cháu mới
chia tay.
Lẽ dĩ nhiên câu chuyện
hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời
Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài
nhất của cuộc đời Trường Xuân.
Khi ông già Trường
Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho
Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua.
Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu: “ Thôi! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.
Trong đời chúng ta hiếm
khi nào nghe được những lời nói đó. Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ
giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào. Có
vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon.
Trên 3,600 khách Trường
Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy
vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly. Rồi
con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có
thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu.
Con người tuyệt vọng ở trên boong.Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá
hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia. Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi.
Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải
dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy...
Chợt có tiếng kêu : “Có người
rớt xuống biển.”. Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người
bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh
quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định
sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành
khách nói. Captain điên rồi. Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1
người để cứu 4,000 người. Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là
một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại
tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của
toàn thể con tàu.
Có thể Thượng Ðế
trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại
vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên
đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa?
Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà, trẻ con.”
Quang cảnh tầu TRƯỜNG XUÂN nhìn từ tầu CLARA MAERSK (ĐAN MẠCH)
Leo thang dây và lưới để sang tầu CLARA MAERSK
Ra đời giữa trời biển mênh mông
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo. Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi. Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo. Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi. Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.
Trường Xuân Ôi, Trường Xuân !
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám (3.628) người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám (3.628) người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.
Thoạt tiên tất cả được
đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về
Việt Nam.
Đồng
bào đang lảnh đồ cứu trợ tại trại Sai Kung, Hong Kong.
Lãnh
cơm có những người lính Népal, thuộc quân đội Hoàng Gia Anh quốc, kiểm soát
Trước khi rời
con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động
sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên
khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ
qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy
dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.
Khi vị thuyền trưởng
rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác
1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu. Nhưng sau này được biết, khi người lên hết
tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về
Hồng Kông, đi theo hành khách của nó. Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân
đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong
A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con
tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.
Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó. Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ.
Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó. Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ.
Trong một bản văn tự
thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau:
“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống xót. Khi Sài Gòn thất
thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong
cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là
giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở.
Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt
bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay.
Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và
đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công
dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định
cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình
tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để
xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và
tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris,
New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các
đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời
trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống xót, một
Trường Xuân Baby.”
40 năm nhìn lại
Kể từ tháng 4-1975 cho đến tháng 4-2015 chúng ta có 40 năm nhìn lại. Nhưng 5 năm trước chúng tôi đã chọn nhiều nhân vật hay sự kiện để giới thiệu. Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.
TẦU TRƯỜNG XUÂN - CÔ CHIÊU ANH - THUYỀN TRƯỞNG PHẠM
NGỌC LŨY
Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ
Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường
Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Bây giờ lại nhắc lại. Mãi mãi không quên
Chuyến đi của Trường Xuân
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Bây giờ lại nhắc lại. Mãi mãi không quên
Chuyến đi của Trường Xuân
Trường Xuân ơi, Trường
Xuân! Saigon tháng 4 đen. Bốn ngàn
người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định. Trường Xuân, ơi
Trường Xuân. 40 năm nhìn lại. Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn
phương trời thế giới. Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.Với
ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển. Trường Xuân, ơi
Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua...Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại...Trường
Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi...
Nhân dịp 40 năm, tôi viết
chuyện Trường Xuân. Phần tiếp theo là cụ Lũy kể lại.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Phạm Ngọc Lũy
Tháng
11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc
thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh, khiến những ghe nhỏ không thể cặp
vào tầu để vợi muối. Số muối dự định chở sang Singapore phải bỏ lại đến 1 phần
3.Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng 6/75 mới có thể trở về Việt Nam. Tôi thật sự lo lắng miền Nam không thể đứng vững, vì đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc quân có cả một hậu phương rộng lớn: Trung Cộng và các nước trong khối Liên Xô.
Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok, rồi đi Phi Luật Tân... Hết Cebu đến Manila, qua Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc Borneo. Trong khi đó coi trên TV thấy tình hình đất nước ngày một khẩn trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm. Những sà lan, những ghe thuyền chở đồng bào tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển, không lương thực, không nước uống.
Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ con đem từ các sà lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng hoàng và xúc động mãnh liêt.
Tôi không phải là một sĩ
quan trong quân đội cầm súng chống quân thù. Tôi là một nhà hàng hải, có thể
giúp được gì cho Quê Hương, cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này? Tôi
rất muốn được giúp đồng bào tôi, được cùng chia xẻ với đồng bào trong giờ phút
đau thương này. Ngồi trên con tàu cách xa quê hương ngàn dặm mà lòng tôi bồn chồn
như lửa đốt...
Tôi cố hồi tưởng và viết
lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng
nhau vượt biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng Sản và đi tìm Tự Do. Sau đây
là diễn tiến của nhiều việc đã đưa đến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân.
Những sự kiện mà sau này lúc ngẫm nghĩ lại thì tôi thấy dường như đã được sắp đặt
một cách huyền diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi, để thử thách mọi người trên
tàu phải phấn đấu để đạt được niềm ước vọng quí giá là hai chữ Tự Do.
Bến
Kho 5, Khánh Hội, Saigon, 30/4/1975 |
Tàu Trường Xuân rời bến
Kho Năm, Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975 sau khi Tướng
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, và quân Cộng sản tiến chiếm Saigon hồi 10 giờ
sáng...Diễn tiến lịch trình của Trường Xuân như sau.
(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số và đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.
(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số và đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.
(2) Lúc ghé Singapore, Cơ khí trưởng tàu Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu
say, khi về đến cổng thương cảng thì bị vấp ngã, bị thương ở đầu bất tỉnh nhân
sự. Cảnh sát phải chở đi nhà thương điều trị. Tàu Trường Xuân về đến Saigon, Cơ
khí trưởng xin tạm nghỉ việc để điều trị vết thương. Vị Cơ khí trưởng này thường
phát biểu ý tưởng có nhiều thiện cảm với phe bên kia cho nên tôi nghĩ rằng nếu
anh ta không gặp tai nạn thì đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu xuống tàu để
di tản và đến giờ phút cuối cùng thì không dễ gì tìm được một người Cơ khí trưởng.
(3) Tàu Trường Xuân về đến
Saigon ngày 17/4/75, cặp
bến Thương cảng Khánh Hội gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau tàu)
ra biển. Tàu đã đến hạn lên ụ để tu sửa đại kỳ hàng năm. Vì công xưởng hải quân
bận việc nên tàu chỉ tu sửa những bộ phận cần thiết ngay tại bến thay vì nằm ụ
cả tháng trời. Tàu lấy hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100 tấn nước ngọt
và 10 bao gạo để chuẩn bị đi Manila. Tàu có thể khởi hành ngày 24/4/75 nhưng
tôi nấn ná chưa khởi hành vì tình hình đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng...
(4) Tôi xin Công Ty
Vishipco tuyển dụng Cơ khí trưởng
Lê Hồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công Ty mới chấp thuận cho Cơ khí trưởng
Phi nhận việc.
(5) 5 giờ chiều ngày
29/4/75, tôi xuống tàu không gặp
Cơ khí trưởng Phi, và sĩ quan phụ tá cho biết là Phi đã về nhà đưa gia đình ra
bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen
cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75 hồi 11:30 sáng.”
(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên chở tôi ra tàu cùng với Phạm
Trúc Lâm. Đường sang thương cảng Khánh Hội bị chắn nhiều khu phố. Sau khi quan
sát tàu, Thuyên đưa tôi về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở khoảng 200 người gồm
gia đình, thân nhân và bà con lối xóm, ra thương cảng...
(7) Bình thường trước khi
tàu khởi hành, sĩ quan phụ tá phải cho
thử tay lái trên đài chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, và chính tôi cũng thân hành tự
kiểm soát lại. Tuy nhiên sáng 30/4/75, tôi nhớ là đã tự nhủ phải đi kiểm soát lại
tay lái xem có gì trục trặc không, nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái
vì bụng bảo dạ: “Giờ này mà còn đi lo những việc nhỏ... Cộng quân đã tiến vào
Saigon rồi... Việc thử tay lái đã có sĩ quan phụ tá lo...” Rồi tôi lại tự trách
sao lại đi lo những chuyện không đáng lo. Và thực ra không hiểu vì sao chính sĩ
quan phụ tá lần đó cũng quên thử tay lái trước khi nhổ neo, vì nếu được biết
trước tay lái đã bị hỏng hay bị phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến.
(8) 9 giờ sáng 30/4/75, Sĩ quan Vô tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình... Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được... (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định cư ở vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)
Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc. Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.)
(8) 9 giờ sáng 30/4/75, Sĩ quan Vô tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình... Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được... (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định cư ở vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)
Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc. Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.)
(9) Khoảng 12 giờ trưa
30/4/75 , dân cũng như quân ào
ào đổ xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị gãy. Cơ khí trưởng Phi báo tin
tàu có thể khởi hành và tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho tàu tiến nhẹ,
bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu chạy thẳng. Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy,
cặp lại bến. Tôi mới nhận ra là tay lái đã bị hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu
ép để điều khiển bánh lái, nhưng sau được biết hệ thống điều khiển bánh lái đã
bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra và cho nước vào. Thật là một sự kiện kinh hoàng
đến choáng óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ chuyến đi... Cơ khí trưởng
sau khi xem xét lại hệ thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng được.
Trong suốt cuộc đời làm Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử dụng tay lái
phòng hờ, mà bây giờ lại không có lấy được một người thủy thủ biết lái. Chưa biết
đối phó với tình huống nan giải thì một người đứng gần đó tự nguyện nhận điều
khiển tay lái phụ...
(10) Khoảng 13 giờ, (1 giờ
chiều 30 tháng tư-75) nước bắt đầu lớn - thủy
triều lên. Tôi cho mở giây ở phía lái tàu để tàu tự động xoay 180 độ trên sông,
hướng mũi ra khơi... Ngay lúc tàu vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi từ bờ đẩy tầu
ra giữa sông. 13 giờ 25 tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu qua
một ống loa dài chừng 20 thước dẫn đến người bẻ bánh lái ngồi trong một cái
chòi ở phía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang phải 10 độ thì tàu lại hướng sang
phía trái. Tôi chợt nhận ra ngay là núm điều khiển tay lái phụ chỉ ngược chiều
với hướng tàu chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên phải thì tôi lại ra lệnh
ngược lại. Cứ thế mà đi trên sông.
(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng Cơ khí trưởng hét
lên qua ống loa: “Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay! Phải ngừng máy đèn!” Ai bỏ neo
bây giờ? Bỏ neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy ngon trớn.
Đầu óc rối như tơ vò!
Nhưng lúc này cần phải bình tĩnh, không thể làm một quyết định sai lầm. Tôi biết
rằng không thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng và sẽ không dùng
máy để kéo neo lên được. Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc bờ sông vì khi
nước triều xuống thì tàu sẽ mắc cạn và tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại
duy nhất mà tàu có thể tự cứu vãn là tìm cách cho tàu lên cạn, mũi ghếch lên bờ,
chân vịt chìm dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ tự rút ra được.
Chiều xuống, tàu vẫn đâm
mũi vào bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản mừng thắng trận nổ vang rền, sáng
rực khu Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được vì không còn hơi ép cho nổ máy. Cái
nguy căn bản nhất là không còn hơi ép để cho chạy máy đèn. Máy đèn chạy mới có
thể có hơi ép làm nổ máy cái. Cơ khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã
tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn... Đây có thể là một hành động vô ý thức
hay là phá hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc xét xử và điều tra mà
phải làm sao cứu vãn được con tàu.
Tàu Trường Xuân chờ tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975
|
Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã
phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu nằm mắc cạn ở đây chắc chắn Cộng sản sẽ
bắt hết mọi người. Cùng lắm chúng xử bắn mình là cùng...” Tự nhủ như thế để tâm
trí không bị rối loạn vì nếu làm những điều sai lầm trong giờ phút này là mất hết.
Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi
ngang vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy
thẳng. Trong lúc đó có một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy từ hướng Saigon đến. Tàu
Hải quân thấy vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ ầm vang chấn dội lồng
ngực, Song An phải quay trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu Trường Xuân giây
kéo đều bị đứt. Đến gần tối thì nước lớn, Song An mới kéo được tàu Trường Xuân
ra sông, rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày 1/5/75 mới tới Vũng Tàu.
(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền Trung đã có bạo động trên những xà lan, cho nên tàu vừa
rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập Ban Trật tự và Ban Cứu thương. Nhờ
sự tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã có
em bé sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được mẹ tròn con vuông.
(13) Vừa tới hải phận quốc tế, (ngày 1 tháng 5-75) lệnh hạ khí giới được triệt để tôn trọng.
Tàu khởi hành ra khơi mà tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và nhiều người có thể bị thương hay bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.
Tàu khởi hành ra khơi mà tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và nhiều người có thể bị thương hay bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.
(14) Một người rớt xuống biển. Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt được anh Vũ Văn Thụ, tôi cảm thấy
yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo lắng
cho sự an nguy của một nhân mạng, mà mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị kỷ và nghĩ
đến những người đồng cảnh ngộ với mình.
(15) Nhờ có Sĩ quan Vô tuyến gửi đi những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần
Clara Maersk (Đan Mạch) đã đến cứu và đưa chúng ta đến bến bờ Tự Do.
(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi người đã được chuyển sang tàu Clara Maersk an toàn
thì một người từ phòng máy đi lên, thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ
huy.
Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk. Tôi đã đi nhiều nơi và gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.
Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk. Tôi đã đi nhiều nơi và gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.
(17) Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy Cơ khí trưởng Nguyễn Thế
Phiệt, người đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ.
(18) Ngày 12/6/2006, tôi được gặp lại Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt
Bùi Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ từ Saigon chạy
ra. Anh đã bắn phát súng thị uy bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự
và một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu Trường Xuân trong lúc tàu Song An
buộc dây kéo tàu Trường Xuân ra khỏi cạn.
(19) 40 năm đã trôi qua mà hình ảnh và diễn tiến chuyến đi định mệnh của
tàu Trường Xuân vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Những sự kiện dường như đã được
tiền định để cho tất cả chúng ta cùng gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu
và cùng đến được bến Tự Do.
Phạm Ngọc Lũy
Phạm Ngọc Lũy
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết