From: Xuan Mai Dang
<
Subject: Fw: Ky Niem ngay Quoc Han . VẾT SÂU XÉ LÒNG (Thơ Xuân Mai) viết tặng Thuyền Nhân VN.
Subject: Fw: Ky Niem ngay Quoc Han . VẾT SÂU XÉ LÒNG (Thơ Xuân Mai) viết tặng Thuyền Nhân VN.
Qua câu chuyện của thuyền nhân Nguyễn Thùy
Nhiên, tôi mạn phép viết thành thơ để tặng tác giả và những mảnh hồn thương đau
trong giai đoạn lịch sử Tháng Tư Đen 1975 đầy uất hận, bi thương.
Xuân Mai
VẾT SÂU XÉ LÒNG
* Viết tặng Thuyền Nhân VN
Tên tôi là Nguyễn Thùy Nhiên
Viết dòng dư lệ oan khiên để đời
Trăm năm trong kiếp con người
Những điều bất hạnh một đời cưu mang
Đời tôi như triệu người đang
Nỗi đau mất nước bàng hoàng xác thân
Sống đời lưu lạc tha nhân
Niềm đau uất hận quẩn quanh tháng ngày
Cõi lòng bao nỗi đắng cay
Quê hương đất nước đong đầy vai mang
Nỗi nhà canh cánh ngổn ngang
Con tim rạn vỡ nát tan cuộc đời
Ngược dòng quá khứ xa xôi
Viết lên tâm trạng phận người lưu vong
Trải qua bao những thăng trầm
Vết thương rỉ máu mà lòng chưa nguôi
Bao nhiêu câu chuyện đổi đời
Trăm bề nghìn nỗi khóc cười đớn đau
Đoạn trường trong cuộc bể dâu
Oan khiên gieo nỗi thảm sầu ai đong?
Quê tôi bên dòng Cửu Long
Những con sông chảy xuôi dòng phù sa
Làng quê yên ấm nếp nhà
Đến ngày ly loạn bóng ma mượn hồn
Bẩy Lăm bao nỗi đoạn trường
Niềm đau thống khổ tiếng buồn hờn căm
Chong đêm ruột rối tơ tằm
Cảnh nhà tan nát ruộng đồng xác xơ
Quê hương nhuộm đỏ mầu cờ
Người đi cải tạo kẻ chờ chung thân
Sĩ phu vùi chốn rừng xanh
Để quân cướp nước lộng hành tác tung
"Đổi đời" máu nhuộm thành sông
Anh hùng tuẫn tiết một lòng trung trinh
Gái trai già trẻ giữ mình
Nổi trôi vận nước mưu sinh kiếp người
Cha tôi "lính ngụy nợ đời!"
Mười năm cải tạo phương trời cách ly
Mẹ tôi đánh đổi xuân thì
Nuôi chồng gánh vác tiếc gì chiếc thân
Nuôi con bao quản nhọc nhằn
Vùng kinh tế mới tập tành mưu sinh
Trẻ thơ theo cuộc hành trình
Nông trường lao động quấn khăn cổ cò
Cha già nặng gánh con thơ
Tìm đường vượt biển huyễn mờ xác thân
Trải bao cay đắng nhọc nhằn
Đợi đêm trừ tịch liều mình vượt biên
Lòng đau tấc dạ ưu phiền
Ra công lèo lái con thuyền TỰ DO
Bao nhiêu giông tố vỡ bờ
Ra đi một mất mười ngờ rủi ro
Dấn thân đánh đổi mầu cờ
Dẫu không chết biển cũng vô nhà tù
Quyết lòng đành đoạn sầu tư
Hy sinh hai chữ tuyệt mù bóng đêm
Bao năm đau đáu nỗi niềm
Bước đi một bước dặm nghìn gian truân
Bờ lau bụi nứa ẩn mình
Lương khô nước uống trăm phần lo toan
Đến ngày đêm tối thuyền quang
Dìu nhau dắt díu rỡ ràng qua sông
Nín hơi thở gượm tấc lòng
Con thuyền không bến dòng sông mơ hồ
Nghẹn ngào tiếng khóc trẻ thơ
Bóng đêm trừ tịch sóng xô thét gào
Biển trời thân phận lao đao
Chắp tay khấn nguyện đón chào bình minh
Bóng đêm xua đuổi bóng hình
Thuyền chao sóng vỗ dập dềnh biển khơi
Lênh đênh góc bể chân trời
Thuyền trôi rẽ sóng ngỡ người tầm ngư
Giật mình giây phút thiên thu
Niềm vui dập tắt kể như tàn đời!
Công an cướp biển ngoài khơi
Tóm thu vàng bạc bắt người chuộc thân
Đối đầu thập tử nhất sinh
Đang treo mạng sống trên cành cây khô
Trời thương bọn cướp giả lơ
Sau khi lấy của cũng lờ cho qua
Thuyền trôi đi mãi phương xa
Thoát cơn thống khổ chưa qua ngặt nghèo
Dật dờ trong cảnh óc eo
Gặp ngay hải tặc thét gào hung hăng
Đánh nhào uy hiếp thuyền nhân
Khảo tra vàng bạc mặc tình kêu van
Lũ người dã thú lòng hoang
Lưỡi lê giáo mác ngang tàng hành hung
Chị em lâm cảnh khốn cùng
Chúng giam hãm hiếp thét gầm kêu la
Súng kề miệng cổ âm ba
Sẵn sàng nả đạn bước qua xác người
Con thuyền trồi sóng ra khơi
Lắc lư trong tiếng hét cười dã nhân
Bỗng dưng thuyền vỡ tan tành
Đứt lìa hai mảnh xác thân chia lìa
Tiếng người gào thét thảm thê
Mồ chôn tập thể thác về biển khơi
Mẹ tôi bám ván thuyền trôi
Xác anh em thả khoang đời nắng mưa
Ông tôi chìm dưới sóng xô
Trăm nghìn lớp sóng vỗ bờ đêm đen
Bầu trời ngập nỗi oan khiên
Ma vương quỉ dữ hát trên thảm sầu
Biển đen thăm thẳm một mầu
Nỗi đau chung cuộc theo nhau về trời
Chuyến tàu định mệnh than ôi!
Cướp đi tất cả những người thương yêu
Hồn tôi như khói sương chiều
Nỗi đau tuyệt vọng, tiếng kêu xé lòng
Đất trời tiếng gọi hư không
Đêm sâu thăm thẳm tận cùng bóng đêm
Đời tôi đi giữa miếu đền
Viết dòng dư lệ thắp đêm nguyện cầu
Cho người nay đến nghìn sau
Khúc quanh lịch sử thẫm mầu bi thương
Trăm năm cát bụi mù đường
Tình quê non nước người thương theo cùng
Mai về thăm lại dòng sông
Bên bờ Đá Bạc trải lòng mơ xa
Bạc Liêu, Một chốn Quê Nhà!
Nhìn con trăng tỏ hồn ta chín chiều
Thắp lòng ngọn lửa tin yêu
Mong sao xóa được vết sâu xé lòng??
Ai về nghe chuyện dòng sông
Biển Đông dậy sóng cõi lòng mang mang
Tôi đi trên cánh đồng hoang
Ngược dòng quá khứ về ngàn dâu xưa
Quặn lòng nghe tiếng ầu ơ
Lời ru của Mẹ năm xưa vọng về
Bao giờ cất bước đường quê
Tôi về với Mẹ trong khe đá nằm
Ru đời hết những hờn căm
Trăm năm chung cuộc kiếp tằm nhả tơ
Vần thơ gói trọn sầu mơ
Cuộc đời ly loạn tiếng thơ đã chùng
Thơ tôi như gởi tiếng lòng!
Xuân Mai
Đôi lời vào truyện:
Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH
cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại
tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện HO.5 năm
1991. Hiện cư ngụ tại Reda, Califonia.
Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình
vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển
hãi hùng ngày 22-2-1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả
vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ
cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn
sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là
Phạm Thị Sa.
Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi.
Khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đấy ải gia đình của các sĩ quan
QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới
tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải
bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình
và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại
Nỗi bất hạnh của đời tôi một cách trung thực.
Là ba của cháu, tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn
phạm, chính tả. Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện
thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì
cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn.
Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc. Sau đây là câu chuyện
của con gái tôi, nỗi bất hạnh của cháu, cũng là nỗi bất hạnh của tôi.
Nguyễn Bá Quang
Thùy Nhiên
Sau bao tháng ngày mẹ và các anh
chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy,
thuốc men v....v...một cách bí mật. Ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình
của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập
trung tai bãi Đá Bạc Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.
Tất cả chúng tôi yên lặng lên
thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra
khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp.
Qua mấy giờ lầm lũi chạy
trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt
Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được
chặng đường đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt
lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được
khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có
chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của
thế giới tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt
hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng
tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự
nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước
của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh
cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang, giây phút
trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền
chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.
Không thể để bị bắt, rồi phải
ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực.
Một loạt đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm
của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở
đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu
nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công
an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một
kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi
người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở
lại vào bờ giao cho công an địa phương xử lý. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi
nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng
năn nỉ giải thích: Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt
Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh
vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi. Sau đó bọn họ cho chúng
tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.
Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp
tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan.
Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá
xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả,
nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu
chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp
và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng
sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp.
Tất cả không một tiếng động.
Tiếng nói ở thuyền bên kia là
một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin
họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn,
cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét
sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng
chẳng được là bao, chúng đi tìm từng bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào
những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co
ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị
H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.
Trước cảnh dã man này mấy anh
tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được
18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi ) nên đã la ó phản đối.
Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng
nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo
này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự
mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không
hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài.
Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy
cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền,
thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau khi tôi gặp lại người dì
ruột tại trại SongLa.
Ngồi trong hầm tàu tối đen mà
lòng tan nát, tôi chấn tĩnh mình bằng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria,
hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Mẹ, các
anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu
của thế giới tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng
Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi
nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn
đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng
tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má
mà chẳngoi hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm
hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu
vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại.
Ở trên tàu của bọn cướp được
vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên
tầu của chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm
nhận theo linh tính của mình, thấy tàu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa
đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua
tàu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển
qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu
trước đây.
Vào khoảng nửa đêm một tên
đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống
tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứu giúp.
Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu,
chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo
nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm
đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui
khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với
nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị
bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho
một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.
Nước lạnh làm tỉnh hẳn người,
tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng với hai chân để người mình
nổi lên trên mặt nước (ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi.
Trên biển giữa đêm đen, có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao
ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ
Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi
ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi
với tử thần để ráng sống may đâu có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm
tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.
Trời đã hừng đông, một tia hy
vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu
đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi
cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền họ nhìn thấy,
dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương
thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những
người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng
máy vô tuyến gọi police (cảnh sát ) Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến
trại Song La và đến trại Sikiew.
Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc
lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau.
Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm
tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu
mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa, em của mẹ thất thểu bước
vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại
những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng.
Sau khi bọn hải tặc bắt con
và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng
mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đành thúc
thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết
quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi
rú máy cho tàu chạy.
Mọi người chưa kịp hoàn hồn
thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông
thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ
vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi
người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đụng nước làm phao. Các anh con,
Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại
nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài,
hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả
hai đều bị thương.
Trời bắt đầu sập tối, nỗi
kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong
cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau,
cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên
Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn.
Nhưng đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có
tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy
những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây
hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia
có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của
cha trong đêm đó cũng ra đi.
Ngày thứ hai kể từ ngày đắm
thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự
lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả
đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, mẹ tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài
hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ
mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con
xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát
lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống
nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng.
Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì,
Em Đạt của con, mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: Để con lấy
nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi nó định bước
xuống nước để đi. Dì cầm tay nó kéo lại: Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh
mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với với dì xin ngài ban phước. Sau khi
kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu
hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có
chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm
bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra nơi miệng, nước bọt giống như bọt xà
phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động, người cuối cùng ở
bên cạnh dì cũng ra đi.
Còn lại một mình đang nằm chờ
chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột
nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước,
nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy
mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Lan. Theo tàu họ trên biển, 15
ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.
Ôi ! Những biến cố đó trong
đời làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u.
Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân
yêu, 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả ... Đó là tất cả NỖI BẤT
HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.
Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con,
xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản.
Các anh ơi! Các em ơi! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức
tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao, Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh,
em, mẹ có ngày nào nguôi.
Thùy Nhiên, viết từ Úc Châu
* Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh,
Ông ngoại Phạm Văn Đình, Cậu Phạm Văn Tiếng, các Anh: Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá
Chương, Nguyễn Bá Long, các em, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài,
Chú nguyễn Văn Dậu, các em con dì Nguyễn thị Minh Châu, Nguyễn thị Minh Xuân,
Nguyễn Minh Toàn và Linh mục Hồ Quang Liêm, chú Hồ Quang Lập và các anh bà con
với cha Liêm mà tôi không nhớ tên.
* Viết cho Ba là Nguyễn Bá Quang.
Ba và con cùng chịu NỖI BẤT HẠNH trên cuộc đời này.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết