Phản biện bài viết về 30 tháng Tư
trên BBC của Võ Văn Ái
Lữ
Giang
Trong bài “Ba mươi Tháng Tư
và Phật giáo VN” phổ biến trên BBC ngày 19.4.2015, ông Võ Văn Ái cho rằng
từ 1975 đến nay, Phật Giáo là tổ chức đấu tranh rất kiên cường với Cộng Sản. Sở
dĩ Phật Giáo bị đàn áp "Chỉ
vì lập trường của Giáo hội không chấp nhận làm công cụ cho bất cứ một thế lực
chính trị nào, và Giáo hội chỉ yêu cầu để Phật giáo được sinh hoạt độc lập
trong khuôn khổ tôn giáo và pháp luật” (trích lời Hòa Thượng Huyền Quang).
Ông dọa Đảng CSVN: “Người
xưa nói, chở thuyền là nước, lật thuyền cũng là nước. Nước là nhân dân” (tức
Phật Giáo).
Những luận điệu này hoàn
toàn sai với lịch sử. Trong bài “Bằng
chứng tự thú” phổ biến trên các diễn
đàn và websites ngày 9.3.2010, khi trả lời Thông Tư số 07/VHĐ/VT ngày 7.1.2010
của Hòa Thượng Quảng Độ cho rằng Phật Giáo đang bị vu khống, chúng tôi đã đưa đầy
đủ các tài liệu dẫn chứng rằng trong tiến trình lịch sử chiến tranh Việt Nam,
Phật Giáo đấu tranh không những chỉ thân cộng mà còn yểm trợ CSVN một cách tích
cực, bị cả Mỹ lẫn CSVN biến thành công cụ, xài xong rồi bỏ. Giáo Hội Ấn Quang
đã bị bể tan thành nhiều mãnh. Từ đó đến nay, Hòa Thượng Quảng Độ không hề đưa
ra một lời cải chính nào.
Chúng
tôi đã thưa với Thưa Hoà Thượng rằng chẳng cần gì phải đi tìm các tài liệu
trong hồ sơ giải mật của Hoa Kỳ để xác định GHPGVNTN và hàng giáo phẩm GHPGVNTN
có dính líu đến Cộng Sản hay không. Chỉ cần đọc các tài liệu do chính các sử
gia Phật Giáo công bố như bộ “Việt Nam Phật Giáo
Sử Luận” và “Hoa Sen Trong Biển Lửa”
của Thiền Sư Nhât Hạnh, cuốn “Bảo Trước Cổng Chùa” của
Hoà Thượng Mãn Giác, Bạch Thư của Hoà Thượng Thích Tâm Châu, hoạt động của một
số tăng ni trong Giáo Hội, các tài liệu do chính GHPGVNTN công bố, những lời
tuyên bố của các nhà lãnh đạo giáo hội như Hoà Thượng Trí Thủ, Hoà Thượng Huyền
Quang hay của nhà cầm quyền CSVN, v.v., chúng
ta cũng có thể xác định rằng trong chiến tranh Việt Nam, GHPGVNTN không những
chỉ “dính líu” mà còn yểm trợ tích cực cho Đảng CSVN. Một số thành phần của
GHPGVNTN chỉ bắt đầu chống lại Đảng CSVN sau khi âm mưu kết hợp với Phật Giáo
miền Bác để tiến tới lãnh đạo toàn thể Phật Giáo Việt Nam, bị Đảng CSVN lật tẩy
và gọi đó là “Phật giáo phản
động” (tiết lộ của Hòa Thượng Huyền Quang). Còn ba nhân vật cao chấp nhất
của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đã đem Giáo Hội này sát nhập vào Giáo HộI Phật Giáo
Nhà Nước.
Có thể nói trước hay sau 30.4.1975,
đa số "Phật Giáo đấu
tranh" đều đi theo Cộng Sản, chỉ có một số nhỏ chống lại và đã bị
bể ra từng mãnh do tranh giành quyền bính, một số chủ trương quay trở lại với
chính quyền CSVN dưới hình thức "trá hàng" hay "về nguồn".
Chúng tôi xin tóm lược lại dưới
đây một số đoạn chính nói về những diễn biến này. Nếu cần, chúng tôi sẽ trích
dẫn thêm:
PHẬT GIÁO BỊ XÂM NHẬP NGAY TỪ ĐẦU
Tài liệu cho thấy rằng Phật Giáo
đã dính líu với Đảng CSVN kể từ khi Mặt Trận Việt Minh mới thành lập.
Năm 1932, Bác sĩ Lê Đình Thám đứng ra
lập Hội An Nam Phật Học.
Năm 1934, ông cùng với Thượng
Tọa Thích Mật Khế lập Trường An Nam Phật Học ở Huế để đào tạo các tăng sĩ và
đưa Hoà Thượng Thích Trí Độ từ
Bình Định ra làm Giám Đốc trường này.
Năm 1945, khi Việt Minh cướp
chính quyền, Hoà Thượng Trí
Độ được Việt Minh cử làm Chủ
Tịch Trung Ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, một tổ chức vận động Phật Giáo của
Việt Minh. Dùng ảnh hưởng của mình, ông đã lôi kéo các tăng sĩ tốt nghiệp ở
Trường An Nam Phật Học và các đệ tử của ông đi theo Việt Minh.
Trong danh sách các tăng sĩ đi
theo Việt Minh, chúng ta thấy Thích Mật Thể giữ chức
Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc ở Thừa Thiên, Thích Thiện
Minh ở Quảng Trị, Thích Trí Quang ở Quảng
Bình, Thích Huyền Quang ở Liên Khu 5 (gồm các tỉnh
Nam, Ngãi, Bình, Phú), Thích Pháp Dõng ở Gia Định, Thích Pháp Tràng ở Mỹ Tho, Thích Pháp Long
ở Vĩnh Long, Thích Huệ Quang ở Trà Vinh, v.v…
Bác sĩ Lê Đình Thám tham gia Ủy Ban Phật Giáo Cứu
Quốc của Việt Minh tại Huế. Năm 1946, khi Pháp chiếm Huế, ông về Quảng Nam và
được Việt Minh cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền
Nam Trung Bộ ở Liên Khu V.
Điều này cho thấy hai nhân vật
cao cấp lãnh đạo Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học đều là cán bộ
cao cấp của Cộng Sản.
Năm 1954, sau hiệp định Genève, Thượng Toạ Thích Trí Quang đang
làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huế, đã lợi dụng cương vị này cùng với một số
trí thức Phật Giáo lập Ủy Ban
Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình. Nhiệm vụ của Ủy Ban là yểm trợ Việt Minh đòi hỏi
hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất hai miền trong thời hạn 2 năm. Thích
Trí Quang và nhóm này đã được ông Ngô Đình Cẩn chiêu hồi và xử dụng.
LÀM CÔNG CỤ CỦA MỸ
1.- Tạo biến cố lật đổ Thổng Thống Diệm
Vụ “tự thiêu” của Hòa Thượng
Quảng Đức đã được đưa ra ánh sáng. Một tài liệu được công bố năm 2000 cho biết
sau biến cố trước đài phát thanh Huế tối 8.5.1963 khiến 8 em bị tử thương, CIA
quyết định dùng biến cố Phật Giáo để lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
William
Kohlmann, một nhân viên tình báo Mỹ đang làm việc
ở Anh quen biết với Trần Quang Thuận đã được điều động qua Sài
Gòn để hướng dẫn Trần Quang Thuận và Đại Đức Thích Đức Nghiệp làm vụ này. Bill
Kohlmann kể lại khi mua xăng về đã được khuyến cáo là phải đổ thêm Diesel vào
cho cháy chậm lại. Ký giả Malcolm Browne của AP, một nhân viên CIA khác, có
nhiệm vụ báo tin cho các ký giả đến đúng lúc để quay phim, chụp hình và gởi đi
khắp thế giới. “Ngọn đuốc của CIA” này đã làm chấn động thế giới.
Tưởng đây là cách tranh đấu hay nhất, 30 vụ tự
thiêu tiếp theo đã được Phật Giáo thực hiện, nhưng không có CIA nhúng
tay vào nên trở thành tiếng kêu trong sa mạc! của Hòa Thượng Quảng Đức, Tướng Trần
Thiện Khiêm, một điệp viên của CIA, đã xúi các Tướng Lãnh vào gặp ông Diệm yêu
cầu ban hành tình trạng khẩn cấp và xét chùa để ổn định tình hình. Ông Diệm đã
trúng kế CIA. Ngày 24.8.1963 Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ra lệnh đảo chánh lật đổ ông
Diệm.
[FRUS, 1961 – 1963, Volume III, tr. 616. Document 275]
2.- Phát động phong trào ngụy hòa để giúp Mỹ rút
quân.
Vào tháng 5/1966, khi Đại Đức
Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời qua Hoa Kỳ
để “góp một bài tay” cho phong trào phản chiến đang dấy lên ở Mỹ.
Hôm 2.6.1966, Dân biểu John Dow (1905 – 2003) thuộc tiểu bang New
York, mới được bầu năm 1965, được mô tả là “Foe of Vietnam War”
(Kẻ thù của Chiến tranh Việt Nam), đã đưa Thiền Sư Nhất Hạnh ra trước Hạ Viện
Mỹ để đọc một bản tuyên cáo viết sẵn đề ngày 1.6.1966.
Từ lời giới thiệu của Dân biểu John Dow đến bản tuyên cáo đều là những
lời nói phét (chúng tôi đã công bố nhiều lần), nhưng nhóm phản chiến cần những
lời nói phét đó để đánh lừa dân chúng Mỹ.
Phải công nhận Thiền Sư Nhất
Hạnh là một điệp viên văn hóa và tôn giáo lì lợm, “dám nói và dám làm theo đơn đặt
hàng” không biết ngượng mồm, bất chấp dư luận, bất chấp sự thật và bất chấp
đạo lý.
CÔNG CỤ CỦA CỘNG SẢN
Ngoài việc yểm trợ cho chiến
dịch ngụy hoà do cơ quan tình báo Mỹ phát động để rút quân ra khỏi Việt Nam,
GHPGVNTN đã yểm trợ cho Cộng Sản chiếm miền Nam.
1.- Yểm trợ đòi hỏi của MTGPMN
Ngày 3.6.1966, Thiền sư Nhất Hạnh đã công bố chủ trương 5 điểm của
GHPGVNTN như sau:
- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút lui.
- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều
kiện.
Năm điểm đòi hỏi này giống hệt 5
điểm đòi hỏi của MTGPMN.
2.- Xuyên tạc lịch sử để yểm trợ MTGPMN
Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho
xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddhist Proposal for Peace"
(Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật giáo), nói về
cuộc tranh đấu của Phật Giáo từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa
Kỳ và quân đội VNCH gây ra. Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo, Nguyễn
Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc. Ông tuyên
bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không
phải do Hà Nội, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng
theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS".
Năm 1968, khi hòa đàm Paris bắt
đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPGVNTN (Ấn Quang) ở
hải ngoại.
3.- Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn GHPGVNTN (Ấn Quang)
Tháng 10/1970, một phái đoàn
PGVN do Thượng Tọa Thích Thiện Minh cầm đầu qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới
về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16 đền 22.10.1970. Phái đoàn gồm có
các Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Mình Tâm, Đại Đức
Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữu. Tại hội
nghị này, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau:
(1) Các phe lâm chiến phải bắt
đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18
giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26.1.1971).
(2) LHQ sẽ chỉ định một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội
Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Miền Nam VN.
(3) Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên,
trí thức, tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình
và chủ quyền của dân tộc.
(4) Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất
lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân
chúng có bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:
- Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau
chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và
kinh tế giữa Hoa Kỳ và VN.
- Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những
thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng
chính trị ở Nam VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế,
trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham
dự.
(5) Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các
quốc gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt
bằng cách ủng hộ đề nghị này do chính người Việt đề ra.
(6) Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế
giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy
các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN,
Kampuchea và Lào.
Từ văn từ đến nội dung, bản tuyên bố viết giống hệt các bản tuyên bố
của MTGPMN.
Trước một hội nghị quốc tế về
tôn giáo và hòa bình, thay vì trình bày một cách lịch sự đề nghị của PGVN, phái
đoàn đã đưa ra một mệnh lệnh theo “kiểu ông cố nội”, ra lệnh cho mọi người liên
hệ phải thi hành, vì thế GHPGVNTN (Ấn Quang) đã làm mất cảm tình đối với hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Phái đoàn Đan Mạch đã vặn hỏi tại sao PGVN chỉ
đòi quân đội Mỹ rút mà không đòi tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong
đó có cả quân đội CS Bắc Việt, phái đoàn PGVN không trả lời được.
4.- Lập các tổ chức ngụy hoà
Sau Đại hội Phật Giáo kỳ 3 của
GHPGVNTN (Ấn Quang) tổ chức tại Saigon ngày 20.8.1968, luật sư Trần Ngọc Liễng
dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Thiện Minh, tuyên bố thành lập Lực Lượng
Quốc Gia Tiến Bộ.
Ngày 15.11.1969, LS Liễng đưa ra
một tuyên bố khẳng định mục đích của Lực Lượng là đòi các lực lượng ngoại nhập
(Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc.
Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói gì
về phía Cộng Sản, ông không trả lời.
Ngày 27.1.1973 Hiệp Định Paris
được ký kết. Điều 12 của Hiệp Định này dự liệu thành lập tại miền Nam Việt Nam
một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng
này gồm ba thành phần: VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữa. Thừa lệnh của Hội
Đồng Viện Hóa Đạo, ngày 31.1.1973, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã phổ biến một
thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc và cử Luật sư Vũ Văn
Mẫu làm Chủ Tịch. Lực lượng này bao gồm “các thành phần ở giữa”
để đứng về phía MTGPMN trong Hội Đồng. Thông bạch đòi hỏi phải “nghiêm chỉnh thực thi ngưng
bắn” và tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giải. Thông bạch này đã bị các
đảng phái quốc gia và báo chí công kích mạnh nên Lực Lượng không hoạt động được.
Tháng 2/1974, nhóm luật sư Trần
Ngoc Liễng lại lập “Tổ chức
nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba,
mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính
phủ hoà giải dân tộc.
XUẤT ĐẦU LỘ DIỆN
Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993,
Hòa Thượng Thích Tâm Châu đã viết:
“Ngày 30.4.1975 là ngày cáo chung của chế độ
Việt Nam Cộng Hòa. Những bộ mặt thân Cộng Sản đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà
không rõ:
- Khi quân Cộng Sản từ rừng về Saigon, đã có
gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19.5.1975, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ
chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương Chính Trị thống nhất hai miền
Nam Bắc của Cộng Sản, một Thượng Tọa của phe Ấn Quang đã làm một bài tham luận,
nịnh Cộng Sản, kể công của Ấn Quang và đã kích Nha Tuyên Úy Phật Giáo cùng Giáo
Hội Thích Tâm Châu”.
Trong cuốn “Bảo qua cổng chùa”, Hòa
Thượng Thích Mãn Giác cho biết sau khi Việt Cộng mới chiếm được miền Nam Việt
Nam, Hội Đồng Viện Hóa Đạo của GHPGVNTN (Ấn Quang) đã họp và quyết định tham
gia tổ chức “mừng giải phóng” với nhà cầm quyền, đồng thời tổ
chức mừng sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang. Hòa Thượng viết:
“Lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam,
Giáo Hội đã tổ chức một buỗi lễ hết sức long trọng để mừng sinh nhật của một cá
nhân. Ngay trong thời kỳ phong kiến quân chủ, Giáo Hội cũng không làm như vậy.
Mỗi chùa riêng tư có lễ chúc tụng Vua, nhưng không phải làm tập thể Giáo Hội.
Tại sao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã làm như vậy? Vì kính ngưỡng
Hồ Chủ Tịch? Vì muốn chứng tỏ thiện chí hợp tác?”
Bản Thông Cáo số 66-VHD/VP/TC
ngày 8.5.1975 của Viện Hóa Đạo (Ấn Quang) về tổ chức đón mừng hòa bình và kỷ
niệm ngày 19 tháng 5, đã tuyên bố:
“Sau bao năm tranh đấu, nguyện vọng của Giáo Hội
và toàn dân là Hòa Bình, Độc Lập và Thống Nhất đất nước. Cơ duyên ấy nay đã
đến.”
Hòa Thượng Mãn Giác cho biết:
“Tin tưởng vào những hứa hẹn về hòa hợp hòa giải
dân tộc của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, sau ngày giải phóng, Phật Tử Việt Nam
đã tận tình hợp tác với Chính Phủ Cách Mạng. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất không được mời tham dự buổi lễ Mừng Chiến Thắng do chính phủ tổ chức ngày
15 tháng 5, 1975, nhưng Giáo Hội, với thiện chí sẵn có vẫn hợp tác trong nhiệm
vụ đoàn kết dân tộc và tái thiết xứ sở, đã động viên trên 900 Tăng Ni trong
thành phố Hồ Chí Minh để tham dự cuộc meeting trên. Ban tổ chức không chịu
nhường chỗ đứng cho phái đoàn Phật Giáo tại khán đài, nhưng Giáo Hội vẫn kiên
chí tham gia trong buổi lễ. Ngày 19 tháng 5,
1975 hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ
Tịch. Đây là một số lượng đáng kể vì ngoài chính phủ ra, không có đoàn
thể nhân dân nào có thể huy động số người tham dự buổi lễ đông đảo như vậy.”
TỰ THÚ NHẬN HỢP TÁC VỚI CỘNG SẢN
Trong cuộc meeting “mừng giải phóng” ngày
15.5.1975, Hòa Thượng Mãn Giác đã đọc một bài diễn văn rất thống thiết, trong
đó có những đoạn sau đây:
“Trong những năm dài sống dưới ách nô lệ thực
dân mới, Phật Giáo chỉ nuôi một ước vọng sâu kín: độc lập và thống nhất...
“Ngày nay, ước vọng đó đã
hiện thực. Hiện thực ấy ngày càng rõ nét trong đời sống dân tộc, làm vang vọng
lời xác quyết của Hồ Chủ Tịch “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”... Bác
Hồ kính yêu đã thay lời tổ tiên nói lên...”
“Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống
nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..."
Sau đó, chính Hòa Thượng Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Ấn Quang, Hoà
Thượng Trí Tịnh, Viện Phó và Thượng Toạ Minh Châu, nguyên Tổng Thư Ký, đem GHPGVNTN (Ấn Quang) sát nhập
thành Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước.
Trong lễ ra mắt Giáo Hội này hôm 7.11.1981 tại Hà Nội, Hoà Thượng Trí
Thủ đã nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự của Giáo Hội đọc một bức thư gởi Chủ
Tịch Hội Đồng Nhà Nước Trường Chinh, trong đó có đoạn như sau:
“Suốt ba mươi năm chống Pháp, chống Mỹ, nhiều
chùa là cơ sở của cách mạng, nhiều tăng ni tạm thời rời bỏ Thiền môn, hăng hái
tòng quân đánh giặc cứu nước. Bác Hồ dạy: “Không gì quý hơn độc lập tự do!”,
toàn thể tăng ni và Phật tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời dạy đó của Bác, nhận
thức rõ lý tưởng giải thoát của người tu hành không thể tách rời sự nghiệp giải
phóng dân tộc, do Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.”
Những hoạt động của các chùa và
tăng sĩ Phật Giáo ở Huế cho Việt Cộng mà Liên Thành ghi lại trong cuốn “Biến động miền Trung” chỉ mới là một phần nhỏ.
Năm 1974, khi tôi trở về Đà Nẵng
để quan sát tình hình, nhất là tin Việt Cộng sắp chiếm Thường Đức, một nhân
viên an ninh đã cho tôi biết trong 10 chùa ở Đà Nẵng, có đến 8 chùa hoạt động
cho Việt Cộng. Nếu Hoà Thượng chịu khó đọc lại các hồi ký viết về Đà Nẵng ngày
29.3.1975, ngày Đà Nẵng bị mất, Hoà Thượng sẽ thấy các tổ chức Phật Giáo và
chùa chiền ở Đà Nẵng đã hành xử như họ là cơ quan đại diện của Cộng Sản tiếp
thu thành phố!
Trong cuộc gặp gỡ Hòa Thượng
Huyền Quang tại Hà Hội chiều 2.4.2003, Thủ Tướng Phan Văn Khải xác nhận:
“Phật giáo Việt Nam đã từng góp công sức của mình
vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.”
Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, các
tăng sĩ lãnh đạo đấu tranh của GHPGVNTN (Ấn Quang) đã coi sáng kiến của mình là
tuyệt vời, là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”, nhưng những
hậu quả sau đó thật là thê thảm cho cả đất nước lẫn Phật Giáo!
Về
“mission” của Võ Văn Ái và Thiền sư Nhất Hạnh, chúng tôi sẽ trình bày sau.
Để
kết luận, chúng tôi xin nhắc lại lời khuyến cáo của Thiền sư Dhammananda:
“Khi
tôn giáo bị sử dụng để gia tăng thế lực chính trị thì tôn giáo sẽ phải hy sinh
các lý tưởng đạo đức cao quý và trở nên mất gốc, nhượng bộ cho các thế lực
chính trị trong thế gian.”
Ngày 19.4.2015
Lữ Giang
Ba mươi Tháng Tư và Phật giáo VN, Võ Văn Ái
BBC
ngày 19.4.2015
Ba mươi Tháng Tư và Phật giáo VN
- 19
tháng 4 2015
Cho đến hôm nay, đầu tôi vẫn còn vang dội đài hiệu của đài Truyền
hình Pháp TF1, thông báo tin tức Bộ đội Bắc Việt từng bước tiến chiếm Sài Gòn.
Lúc ấy tôi vừa trở lại Paris sau chuyến thuyết trình dài qua nhiều
nước Âu - Mỹ trình bày quan điểm Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất (GHPGVNTN).
Là chi bộ hải ngoại của Giáo hội, chúng tôi đại diện Viện Hoá Đạo ở nước ngoài để thông tin và bày tỏ lập trường của Giáo hội trong cuộc chiến tranh huynh đệ thừa sai.
Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam bằng quân sự là điều kinh sợ. Chúng tôi không thấy quy định bạo lực nào trong Hiệp định Paris năm 1973.
Một miền Nam trung lập, với chính phủ ba thành phần, và chủ trương hoà hợp, hoà giải dân tộc tan tành theo mây khói dưới xích chiến xa ủi sập Dinh Độc lập ở Sài Gòn.
Ước mộng trở về quê hương của tôi thành giấc mộng hờ, khi tôi nghe tin tức trong nước dồn dập đưa ra những chuyện chẳng lành, như chế độ tập trung cải tạo, kinh tế mới… Từ tháng 8 tháng 9-1975 trở đi, nhiều tượng Phật lộ thiên, hay trong các chùa viện ở các tỉnh Quảng Ngãi, Pleiku, Sóc Trăng, Phan Thiết, v.v… bị đập phá.
Là chi bộ hải ngoại của Giáo hội, chúng tôi đại diện Viện Hoá Đạo ở nước ngoài để thông tin và bày tỏ lập trường của Giáo hội trong cuộc chiến tranh huynh đệ thừa sai.
Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam bằng quân sự là điều kinh sợ. Chúng tôi không thấy quy định bạo lực nào trong Hiệp định Paris năm 1973.
Một miền Nam trung lập, với chính phủ ba thành phần, và chủ trương hoà hợp, hoà giải dân tộc tan tành theo mây khói dưới xích chiến xa ủi sập Dinh Độc lập ở Sài Gòn.
Ước mộng trở về quê hương của tôi thành giấc mộng hờ, khi tôi nghe tin tức trong nước dồn dập đưa ra những chuyện chẳng lành, như chế độ tập trung cải tạo, kinh tế mới… Từ tháng 8 tháng 9-1975 trở đi, nhiều tượng Phật lộ thiên, hay trong các chùa viện ở các tỉnh Quảng Ngãi, Pleiku, Sóc Trăng, Phan Thiết, v.v… bị đập phá.
'Chết vinh, sống nhục'
"Chưa có triều đại nào trong lịch sử
Việt Nam, mà khối lượng chư Tăng, Phật tử bị tù đày, vào trại Cải tạo hay quản
chế tại gia đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh": Ông Võ Văn Ái
Ngày 2-11-1975, dưới băng rôn “Thà chết vinh hơn sống nhục”, 12
Tăng Ni ở Thiền viện Dược Sư, Cần Thơ, tự thiêu tập thể phản đối chính quyền
Cách Mạng với 7 yêu sách đòi hỏi nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp
GHPGVNTN.
Cuộc biểu dương phản đối trên đây mở đầu cuộc đối kháng chính sách đàn áp tôn giáo và tiêu diệt Phật giáo của Hà Nội, mà Giáo hội kiên trì tới 40 năm sau. Chủ trương đã được ông Trần Xuân Bách thiết kế thông qua Chỉ thị số 20 của Đảng và được ông Lê Duẩn ký từ năm 1960, khiến Phật giáo miền Bắc tiêu vong. Nay đem áp dụng tại Miền Nam.
Chưa có triều đại nào trong lịch sử Việt Nam, mà khối lượng chư Tăng, Phật tử bị tù đày, vào trại Cải tạo hay quản chế tại gia đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Giới Tăng lữ bị bắt hoàn tục, hay đưa sang chiến trường Kampuchia. Hàng giáo phẩm Viện Hoá Đạo bị bắt, như các Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ, Thiện Minh... Do áp lực quốc tế, hai ngài Huyền Quang, Quảng Độ bị xử 2 năm tù cuối năm 1977. Cố Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết ở Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn.
Sau đợt khủng bố, đàn áp thẳng tay trong vòng 5 năm, vẫn không thể tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà mạng lưới tổ chức của Giáo hội lan rộng từ thành thị đến nông thôn, với khối lượng đông đảo Phật tử hậu thuẫn. Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân vận, giao cho ông Đỗ Trung Hiếu nhiệm vụ thống nhất Phật giáo. Ông nhận định rằng :
«Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Đây là đầu mối cho “Hội Phật giáo Việt Nam” ra đời tại chùa Quán Sứ, Hà Nội ngày 4-11-1981, mà chủ yếu tập họp các hội Phật giáo yêu nước của Đảng, chứ không là một giáo hội của Tăng Ni, Phật tử hình thành. Hội là công cụ chính trị cho Đảng, làm công tác tuyên truyền đối ngoại cho chế độ.
Cuộc biểu dương phản đối trên đây mở đầu cuộc đối kháng chính sách đàn áp tôn giáo và tiêu diệt Phật giáo của Hà Nội, mà Giáo hội kiên trì tới 40 năm sau. Chủ trương đã được ông Trần Xuân Bách thiết kế thông qua Chỉ thị số 20 của Đảng và được ông Lê Duẩn ký từ năm 1960, khiến Phật giáo miền Bắc tiêu vong. Nay đem áp dụng tại Miền Nam.
Chưa có triều đại nào trong lịch sử Việt Nam, mà khối lượng chư Tăng, Phật tử bị tù đày, vào trại Cải tạo hay quản chế tại gia đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Giới Tăng lữ bị bắt hoàn tục, hay đưa sang chiến trường Kampuchia. Hàng giáo phẩm Viện Hoá Đạo bị bắt, như các Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ, Thiện Minh... Do áp lực quốc tế, hai ngài Huyền Quang, Quảng Độ bị xử 2 năm tù cuối năm 1977. Cố Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết ở Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn.
Sau đợt khủng bố, đàn áp thẳng tay trong vòng 5 năm, vẫn không thể tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà mạng lưới tổ chức của Giáo hội lan rộng từ thành thị đến nông thôn, với khối lượng đông đảo Phật tử hậu thuẫn. Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân vận, giao cho ông Đỗ Trung Hiếu nhiệm vụ thống nhất Phật giáo. Ông nhận định rằng :
«Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Đây là đầu mối cho “Hội Phật giáo Việt Nam” ra đời tại chùa Quán Sứ, Hà Nội ngày 4-11-1981, mà chủ yếu tập họp các hội Phật giáo yêu nước của Đảng, chứ không là một giáo hội của Tăng Ni, Phật tử hình thành. Hội là công cụ chính trị cho Đảng, làm công tác tuyên truyền đối ngoại cho chế độ.
'Tổ chức bù nhìn'
Ông Đỗ Trung Hiếu, kiến
trúc sư của tổ chức Phật giáo nhà nước này, đã phản tỉnh 13 năm sau, khi ông hồi
ký công trình Đảng tóm thu Phật giáo. Trong tập sách “Thống Nhất Phật giáo”,
ông Hiếu tiết lộ :
«Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam».
Liền sau cuộc thống nhất nói trên, hai Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giải về quê quán lưu đày ở tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Thái Bình đầu năm 1982 do Quyết định của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chứ không qua toà án xét xử.
Một nhân chứng đáng tin cậy về giai đoạn khủng bố Phật giáo này là Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu thân, 1968, ngài bị cưỡng bức gánh lên rừng, rồi đưa ra Hà Nội như con tin của nhà nước, và được sử dụng như con bài tuyên truyền đối ngoại.
Ngài trở lại miền Nam với chức vụ đại biểu Quốc hội, Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc. Thế nhưng ngài đã viết đơn từ nhiệm mọi chức vụ, lại còn tố cáo chế độ đàn áp Phật giáo và thảm sát Hoà thượng Thích Thiện Minh. Trong băng thu âm, mà tạp chí Quê Mẹ phát hành tại Paris đăng tải, Ngài phơi bày cái gọi là “cách mạng giải phóng” miền Nam như sau:
“Tình đoàn kết, thương yêu, kính trọng trước kia, chỉ được 10 ngày! Sau 10 ngày đó: tình đoàn kết xưa nay bây giờ rã hết! Lòng yêu thương đổi thành ghét cay ghét đắng! Sự kính trọng bây giờ người dân trở lại khinh đáo để!”
«Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam».
Liền sau cuộc thống nhất nói trên, hai Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giải về quê quán lưu đày ở tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Thái Bình đầu năm 1982 do Quyết định của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chứ không qua toà án xét xử.
Một nhân chứng đáng tin cậy về giai đoạn khủng bố Phật giáo này là Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu thân, 1968, ngài bị cưỡng bức gánh lên rừng, rồi đưa ra Hà Nội như con tin của nhà nước, và được sử dụng như con bài tuyên truyền đối ngoại.
Ngài trở lại miền Nam với chức vụ đại biểu Quốc hội, Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc. Thế nhưng ngài đã viết đơn từ nhiệm mọi chức vụ, lại còn tố cáo chế độ đàn áp Phật giáo và thảm sát Hoà thượng Thích Thiện Minh. Trong băng thu âm, mà tạp chí Quê Mẹ phát hành tại Paris đăng tải, Ngài phơi bày cái gọi là “cách mạng giải phóng” miền Nam như sau:
“Tình đoàn kết, thương yêu, kính trọng trước kia, chỉ được 10 ngày! Sau 10 ngày đó: tình đoàn kết xưa nay bây giờ rã hết! Lòng yêu thương đổi thành ghét cay ghét đắng! Sự kính trọng bây giờ người dân trở lại khinh đáo để!”
Lý do chống đối
Hiện nay, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất chỉ tồn tại trong thực tế, chứ Nhà nước không công nhận. Tuy nhiên Giáo
hội vẫn tiếp tục cuộc vận động đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý, và
tranh đấu cho tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ. Ông Võ Văn Ái
Lý do nào mà Phật tử Việt Nam chống đối nhà cầm quyền Cộng sản?
Bản Thông bạch của Hoà thượng Huyền Quang phát hành năm 1994 cho biết :
“Phật giáo chúng ta đang trong cơn Pháp nạn II. Nhà nước Việt Nam đã đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chúng ta kể từ sau ngày 30-4-1975
"Chỉ vì lập trường của Giáo hội không chấp nhận làm công cụ cho bất cứ một thế lực chính trị nào, và Giáo hội chỉ yêu cầu để Phật giáo được sinh hoạt độc lập trong khuôn khổ tôn giáo và pháp luật”.
Không muốn làm công cụ cho chế độ, vì lịch sử Hai Nghìn năm Phật giáo, đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc, vui buồn theo vận nước, sát cánh cùng nhân dân chống xâm lăng, bảo vệ chủ quyền.
Nhiều Sư Bà, Nữ tướng Phật tử đã tham gia với Hai Bà Trưng trong cuộc kháng chiến vệ quốc đầu tiên của nước ta và nhiều bậc sư sãi, thiền sư khác cũng đã đóng góp cho các triều đại Việt Nam trong các thời đại dựng nước và giữ nước.
Cũng vì thế, mà Đức Đương kim Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ, sống trong cảnh quản chế, vẫn không ngừng lên tiếng đưa ra Giải pháp dân chủ hoá Việt Nam từ tháng 2/2001 để cứu nguy tình thế.
Ngài đã tố cáo nạn Bô-xít Tây nguyên như tung đội thứ Năm của Bắc Kinh, tố cáo sự xâm lấn biển đảo của Trung quốc, mà biến cố dàn khoan Hải Dương 981 xảy ra năm ngoái là một trong các minh chứng.
“Phật giáo chúng ta đang trong cơn Pháp nạn II. Nhà nước Việt Nam đã đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chúng ta kể từ sau ngày 30-4-1975
"Chỉ vì lập trường của Giáo hội không chấp nhận làm công cụ cho bất cứ một thế lực chính trị nào, và Giáo hội chỉ yêu cầu để Phật giáo được sinh hoạt độc lập trong khuôn khổ tôn giáo và pháp luật”.
Không muốn làm công cụ cho chế độ, vì lịch sử Hai Nghìn năm Phật giáo, đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc, vui buồn theo vận nước, sát cánh cùng nhân dân chống xâm lăng, bảo vệ chủ quyền.
Nhiều Sư Bà, Nữ tướng Phật tử đã tham gia với Hai Bà Trưng trong cuộc kháng chiến vệ quốc đầu tiên của nước ta và nhiều bậc sư sãi, thiền sư khác cũng đã đóng góp cho các triều đại Việt Nam trong các thời đại dựng nước và giữ nước.
Cũng vì thế, mà Đức Đương kim Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ, sống trong cảnh quản chế, vẫn không ngừng lên tiếng đưa ra Giải pháp dân chủ hoá Việt Nam từ tháng 2/2001 để cứu nguy tình thế.
Ngài đã tố cáo nạn Bô-xít Tây nguyên như tung đội thứ Năm của Bắc Kinh, tố cáo sự xâm lấn biển đảo của Trung quốc, mà biến cố dàn khoan Hải Dương 981 xảy ra năm ngoái là một trong các minh chứng.
Tiếp tục phát triển
Hiện nay, Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống nhất chỉ tồn tại trong thực tế, chứ Nhà nước không công nhận.
Tuy nhiên Giáo hội vẫn tiếp tục cuộc vận động đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt
pháp lý, và tranh đấu cho tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ.
Hiện Giáo hội có 20 Ban Đại diện trong các tỉnh thành. Nhưng mọi sinh hoạt văn hoá, giáo dục, tín ngưỡng đều bị sách nhiễu và cấm đoán.
Vậy tương lai của Giáo hội sẽ ra sao? Vẫn là tương lai của Phật giáo nói chung trên thế giới, đạo Phật tiếp tục truyền thừa và phát huy rực rỡ, hiện đang phát triển mạnh tại các nước Âu Mỹ sau gần ba nghìn năm khai đạo.
Trong khi ấy, các chế độ gian ác, độc tài đến đâu cũng chỉ có một thời.
Tương lai Phật giáo Việt Nam tuỳ thuộc một là Đảng Cộng sản chấp nhận tiến trình dân chủ hoá để hình thành thể chế dân chủ đa nguyên, hoặc một biến cố do nhân dân tự đứng lên thực hiện dân chủ.
Người xưa nói, chở thuyền là nước, lật thuyền cũng là nước. Nước là nhân dân.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả, phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Bài được gửi tới BBC sau khi BBC mời độc giả tham gia viết bài vở, đóng góp tư liệu, chia sẻ thông tin, cảm nghĩ về sự kiện 30/04/1975.
Hiện Giáo hội có 20 Ban Đại diện trong các tỉnh thành. Nhưng mọi sinh hoạt văn hoá, giáo dục, tín ngưỡng đều bị sách nhiễu và cấm đoán.
Vậy tương lai của Giáo hội sẽ ra sao? Vẫn là tương lai của Phật giáo nói chung trên thế giới, đạo Phật tiếp tục truyền thừa và phát huy rực rỡ, hiện đang phát triển mạnh tại các nước Âu Mỹ sau gần ba nghìn năm khai đạo.
Trong khi ấy, các chế độ gian ác, độc tài đến đâu cũng chỉ có một thời.
Tương lai Phật giáo Việt Nam tuỳ thuộc một là Đảng Cộng sản chấp nhận tiến trình dân chủ hoá để hình thành thể chế dân chủ đa nguyên, hoặc một biến cố do nhân dân tự đứng lên thực hiện dân chủ.
Người xưa nói, chở thuyền là nước, lật thuyền cũng là nước. Nước là nhân dân.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả, phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Bài được gửi tới BBC sau khi BBC mời độc giả tham gia viết bài vở, đóng góp tư liệu, chia sẻ thông tin, cảm nghĩ về sự kiện 30/04/1975.
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết