Nhận
xét khái quát về Hiến pháp Mỹ
Hà Huy Toàn
(Bài viết kỷ niệm 20
năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ)
Thế giới ngày nay có
nhiều hiến pháp khác nhau nhưng Hiến pháp Mỹ tỏ ra điển hình nhất về Nhà nước Pháp quyền,
nó đã giúp cho nước Mỹ vượt qua được nhiều biến động lớn về cả chính trị lẫnkinh tế, như Nội chiến 1861 – 1865, Khủng hoảng Kinh tế (1929 – 1933), Chiến tranh Thế giới thứ Hai (1939-1945), Chiến tranh Lạnh (1945– 1989), v.v. Đó chính
là lý do sâu xa nhất để
chúng ta cảm thấy cần phải tìm hiểu nghiêm túc về Hiến pháp Mỹ.
Hiến pháp Mỹ có thể
được định dạng thành baphiên
bản khác nhau: phiên bản thứ nhất là văn kiện pháp lý được ký kết vào ngày 17 Tháng Chín 1787 bởi hầu hết các tác giả tham gia thảo soạn,
bao gồm bảy điều
luật gốc được xếp thứ tự bằng số La mã từ I đến VII, phiên bản thứ hai là phiên
bản thứ nhất kèm theo Tuyên
ngôn Về Nhân quyền với mười
Điều luật Bổ sung Sửa đổiđược phê chuẩn vào ngày 15 Tháng Chạp 1791bởi ba phần tư trong tổng số bang ở Mỹ,
và phiên bản thứ ba là phiên bản thứ hai cộng thêmmười bảy Điều luật Bổ sung Sửa đổi được
thông qua rải rác trong khoảng
thời gian từ năm 1795 đến năm 1992 bởi Nghị viện Mỹ.
Sở dĩ phải được định
dạng như vậy vì Hiến pháp Mỹ hình
thành rất khó khăn thông qua đấu tranh tư tưởngrất cam go giữa các nhân vật vĩ đại nhất về
cả trí tuệ lẫn lòng yêu nước. Văn kiện đó không phải nhất thành bất biến hoặc
chỉ hình thành đầy đủ trong chốc lát mà phải
hình thành dần dần rồi phát
triển lâu dài quanhiều
năm với nhiều
trải nghiệm phức tạp, bao gồm cả thành công lẫn thất bại, mới đạt được hình thái hoàn chỉnh như
ngày nay.
I. PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN
(BẢY ĐIỀU LUẬT GỐC ĐƯỢC XẾP THỨ TỰ BẰNG SỐ LA MÃ TỪ I ĐẾN VII ĐƯỢC THÔNG QUA
VÀO NGÀY 17 THÁNG CHÍN 1787)
1.
Các yếu tố dân chủ hoặc tính chất cộng hòa
a.
Quy chế phân lập tam quyền
Một Hiến pháp thật sự
có giá trị dân chủ phải quy định ít nhất ba thiết chế cơ bản: 1/ Nhà nước dân chủ
phải được tổ chức theo quy
chế phân lập tam quyền, theo đó nhà nước này phải được phân chia
độc lập về nhân sự thành ba cơ quan khác nhau để thực hiện ba quyền lực tương
ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện
quyền lực hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân
chia quyền lực như vậy làm cho các nhà cầm quyền không thể lạm dụng được quyền
lực nhà nước; 2/ Nhà nước dân chủ phải được làm chủ theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bởitoàn thể nhân dân, theo đó
nhà nước này phải bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật bất công dẫn đến
tai hoạ cho dân chúng, cũng như phương tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông;
3/ Nhà nước dân chủ phải được bảo tồn theo chế độ bầu cử tự do hoặc phải hoạt động
theo nhiệm kỳ;
sau mỗi nhiệm kỳ nhất định, nhà nước này phải thay đổi nhân sự thông qua bầu cử tự do, theo đó mọi cá
nhân đều phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng lẫn đức hạnh
làm người lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người lãnh đạo, nhưng
chỉ được ứng cử vào một trong ba cơ quan khác
nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nếu ứng cử vào cơ
quan này thì không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc cử vào cơ quan
này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ nắm được một trong ba quyền lực khác nhau: lập pháp,hành pháp và tư pháp. Quy chế phân lập
tam quyền ngăn ngừa được các nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực nhà nước. Nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng bảo đảm cho nhân dân giám sát được nhà cầm quyền. Chế
độ bầu cử tự do làm cho nhà nước dân chủ phải phụ thuộc vào nhân dân mà phục vụ
nhân dân; chế độ bầu cử đó phải tuân thủ cả quy chế phân lập tam quyền lẫn
nguyên tắc đa nguyên bình đẳng để thực hiện được triệt để cả hai thiết chế đó,
tức là ba điều kiện đó bổ sung cho nhau đồng thời cùng nhau bảo tồn pháp luật.1
Giá trị dân chủ trong
phiên bản đầu tiên đã thể
hiện tổng thể qua ba điều
luật đầu tiên (I, II và III) quy định sự phân chia quyền lực giữa ba cơ quan
khác nhau hợp thành nhà nước dân chủ, tức là nhà nước dân chủ phải được tổ chức
theo quy chế phân lập tam quyền. Sự độc lập về nhân sự giữa ba cơ quan khác
nhau hợp thành nhà nước dân chủ được thể hiện rõ ràng qua Điều luật I, khoản 6,
mục 2, quy định rằng: “Trong
thời gian được bầu làm Thượng Nghị sỹ hoặc Hạ Nghị sỹ, không một ai sẽ được bổ
nhiệm vào một chức vụ dân sự trong chính quyền Mỹ. Trong thời gian đó tiền
lương của họ sẽ không bị giảm và không một ai đang đảm nhiệm một chức vụ dân sự
nào trong chính quyền Mỹ được bầu vào Quốc hội”. Mục này đã
được chú thích như sau: “Những điều khoản này ngăn không cho các thành viên
Quốc hội tạo ra các công việc mà có thể họ sẽ được bổ nhiệm sau này, hay khi
đang phục vụ trong Quốc hội thì không được tăng lương của những công việc mà họ
hy vọng sẽ đảm nhận trong tương lai, và không được giữ chức vụ khác trong các
ngành khác của chính phủ. Năm 1909, Thượng Nghị sỹ Philander C. Knox rút khỏi
Thượng Nghị viện để trở thành Ngoại trưởng. Nhưng lương của Ngoại trưởng đã
được tăng khi Knox còn làm Thượng Nghị sỹ. Để ông Knox chấp nhận chức vụ mới,
Quốc hội đã không tăng lương trong thời gian còn lại cho nhiệm kỳ của ông
Knox”.
Tuy nhiên, quy chế
phân lập tam quyền ở đây vẫn thiên lệch về tính chất quý tộc trong lĩnh vực tư pháp, theo
đó Thượng Nghị viện xét
xử các quan chức nhà nước có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kể cả những người làm Thẩm phán có
dấu hiệu đó, với án phạt nhẹ
hơn so với án phạt được dành cho các công dân bình thường vi
phạm pháp luật; còn Toà
án xét xử các công dân bình thường có dấu hiệu vi phạm pháp
luật với án phạt nặng hơn so
với án phạt được dành cho các
quan chức nhà nước vi phạm pháp luật. Ngoài ra,quan hệ tư pháp giữa Toà án với Thượng
Nghị viện cũng có vấn đề nghiêm trọng, theo đó người làm Thượng
Nghị sỹ nếu phạm trọng
tội thì sau khi bị cách chức vẫn còn có thể bị xét xử bởi Toà
án, tức là hai cơ quan đó
có thể xét xử lẫn nhau, làm cho khó mà tránh khỏi sự liên kết bất chính giữa
hai cơ quan đóbiểu hiện cụ thể qua việc để lọt tội phạm. Đó có
lẽ là nguyên nhân sâu xa đã
dẫn đến bảy vụ
xét xử kỳ quặc trong lịch sử của nước Mỹ: “Thượng
Nghị viện đã kết tội bảy người, tất cả họ đều làm thẩm phán. Tất cả những người này đã bị cách chức, nhưng chỉ có hai trong số này không được
giữ bất kỳ chức vụ liên bang nào” (xem chú thích cho mục 7 thuộc về khoản 3 trong Điều luật I vốn quy
định rằng: “Mức án áp dụng
trong những vụ buộc tội này không vượt quá sự cách chức và tước quyền của bị
cáo đang đảm nhận một chức tước danh dự, có lợi tức hoặc có lợi lộc trong chính
quyền Hợp Chúng Quốc, tuy vậy họ vẫn có thể bị truy tố, xét xử, kết án và trừng
phạt theo luật định”). Nếu không có nguyên tắc đa nguyên bình đẳng trong phiên bản thứ hai hình
thành từ năm 1789 đến năm
1791 thì mối quan hệ tư pháp như vậy giữa Toà án với Thượng
Nghị viện chắc chắn sẽ còn dẫn đến nhiều
hậu quả khôn lường. Sự thể này đã cho thấy một sự thật quan trọng: nguyên tắc đa nguyên bình đẳng có vai
trò quan trọng hơn so với quy chế phân lập tam quyền cũng như quy chế phân lập tam quyền trong Hiến
pháp Mỹ vẫn chưa được thực hiện triệt để. Chính vì Hiến pháp Mỹ
phải có nguyên tắc đa nguyên bình đẳng từ năm 1791 (phiên bản thứ hai) đến nay nên quy chế phân lập
tam quyền mới được thực hiện triệt để, đồng thời cho phép nhân dân Mỹ dựa vào
đó mà lựa chọn được những công dân ưu tú có tài đức ngày càng cao vào chính
quyền để càng về sau càng tránh được các vụ xét xử kỳ quặc.
Thế nhưng, thật đáng
tiếc, phiên bản đầu tiên còn thiếu vắng hẳn cả thiết chế thứ hai (nguyên tắc đa
nguyên bình đẳng) vốn cần
thiết nhất cho chính
thể dân chủ.
Hơn nữa, tiết 3 trong tiểu mục này sẽ chứng
minh được rằng, thiết chế thứ ba (chế độ bầu cử tự do) trong phiên bản này chưa
được hoàn chỉnh, theo đó quyền
ứng cử bị cắt xén triệt để theo quyền bầu cử vốn chỉ
được trao cho các nhà
giàu da trắng.
b.
Chi trả thù lao cho quan chức nhà nước
Thoạt tiên, việc chi
trả thù lao cho quan chức nhà nước có vẻ đơn giản hoặc không có ý nghĩa gì về mặt chính trị nhưng
thực chất lại có ý nghĩa
quan trọng đặc biệt về mặt đó. Nếu không chi trả thù lao cho
quan chức nhà nước thì chắc chắn chỉ có các nhà giàu mới dám ứng cử để làm quan
chức nhà nước làm cho quyền lực nhà nước chỉ thuộc về các nhà giàu mà thôi. Như
vậy dân chủ chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Trên danh nghĩa, nhà giàu không nhận
thù lao theo pháp luật quy định không chi trả thù lao cho quan chức nhà nước,
nhưng với bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi và tham lam, như mọi cá nhân khác, họ sẽ dùng
cả quyền lực nhà nước lẫn tài sản tư nhân để cướp bóc kiệt quệ nhà
nghèo, làm cho bất công xã hội càng trầm trọng hơn nữa rồi đẩy xã hội vào tình
trạng chiến tranh giữa nhà giàu với nhà nghèo. Vậy muốn bảo đảm công bằng xã
hội, Hiến pháp phải quy định chi trả thù lao cho quan chức nhà nước để nhà
nghèo cũng có thể trở thành quan chức nhà nước như nhà giàu làm cho quyền lực
nhà nước luôn luôn thuộc về toàn thể nhân dân. Hiến pháp Mỹ đã thỏa mãn được
yêu cầu này ngay trong phiên bản đầu tiên. Giá trị dân chủ trong phiên bản này
đã thể hiện rõ ràng qua Điều luật I, khoản 6, mục 1; Điều luật II, khoản 1, mục
7; Điều luật III, khoản 1. Tuy nhiên, thù lao được chi trả như thế nào lại là
một vấn đề khác vốn chưa có câu trả lời chính xác trong phiên bản này, mặc dù James Madison (1751 –
1836) đã đề xuất được câu trả lời đó rồi được thông qua vào năm 1789 bởi Nghị
viện Mỹ nhưng lại bị bác bỏ bởi hầu hết các bang ở Mỹ. Mãi đến ngày 07 Tháng
Năm 1992 mới được phê chuẩn có hiệu lực thành Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27
bởi 38 bang cần thiết theo Hiến pháp Mỹ quy định bằng Điều luật V.2
c.
Quyền ứng cử
Quyền ứng cử là một
trong các quyền quan trọng nhất trong chính thể dân chủ. Phiên bản đầu tiên đã
quy định quyền ứng cử được trao cho mọi
cá nhân mà không
phân biệt về bất cứ phương diện nào làm cho bất cứ cá nhân nào
chỉ cần có cả tài năng lẫn đức hạnh cũng có thể được bầu chọn làm quan chức nhà
nước. Ý kiến này có thể bị bác bỏ thẳng thừng bởi một thực tế hiển nhiên rằng,
suốt nhiều năm trước khi có phiên bản hoàn chỉnh cho Hiến pháp Mỹ, nước Mỹ chưa
thực thi được đầy đủ quyền này khiến ít người nghèo hoặc người da màu được bầu
chọn làm quan chức nhà nước. Nhưng lỗi đó không thuộc về quyền ứng cử mà chỉ
thuộc về quyền bầu cử vốn chỉ được quy định mập mờ trong
Hiến pháp Mỹ làm cho quyền ứng cử bị cắt xén nhiều.
2.
Các yếu tố nửa vời hoặc tính chất quý tộc
b.
Đại Cử tri
Hiến pháp Mỹ quy định một tổ chức bầu cử để
bầu chọn riêng các cử tri
đặc biệt thường được gọi là Đại Cử tri, theo đó các cử tri phổ thông sẽ
bầu chọn trực tiếp một số
ứng viên đặc biệt không ứng cử làm quan chức nhà nước (Nghị sỹ hoặc Tổng thống) mà chỉ ứng cử
làm cử tri đặc biệt.
Trước khi được bầu
chọn làm cử tri đặc biệt bởi các cử tri phổ thông, mỗi ứng viên đặc biệt đã
phải cam kết trước sẽ bầu chọn một hoặc một số ứng viên phổ thông làm quan chức
nhà nước.
Ngay sau khi được bầu
chọn bởi các cử tri phổ thông, các cử tri đặc biệt sẽ bầu chọn trực tiếp một
hoặc một số ứng viên phổ thông làm quan chức nhà nước (Nghị sỹ hoặc Tổng thống)
theo cam kết trước kia đã được tuyên bố với các cử tri phổ thông.
Vậy về thực chất, chính các cử tri phổ thông đã bầu chọn trực
tiếp một hoặc
một số ứng viên phổ thông làm quan chức nhà nước chứ không phải các cử tri đặc biệt đã làm
việc đó. Các cử tri đặc biệt chỉ đóng vai trò thông tin cho
các cử tri phổ thông hiểu biết đúng đắn về các ứng viên phổ thông mà thôi. Vai
trò đó cực kỳ hữu ích đối với một cộng đồng đông đảo như nước Mỹ, theo đó cộng
đồng nào càng đông đảo sẽ có thể càng cần phải có cử tri đặc biệt. Tuy nhiên,
tùy theo chế độ bầu cử mang tính chất nào mà cử tri đặc biệt sẽcó hay không mang một nguy cơ nghiêm trọng.
Nếu chế độ bầu cử mang tính
chất dân chủ, theo đó toàn
thể nhân dân đều có cả quyền
bầu cử lẫn quyền
ứng cử, thì cử tri đặc biệt có thể sẽ không mang nguy cơ nào, cử
tri đặc biệt sẽ khó mà lật lọng với các cử tri phổ thông hoặc nếu có lật lọng
thì hậu quả vẫn có thể được ngăn ngừa bởi các thiết chế dân chủ làm cho việc
lật lọng sẽ trở thành việc
tự sát về chính trị trừ khi phát hiện được dấu hiệu bất thường cho
thấy ứng viên phổ thông đang theo đuổi âm
mưu xấu xa khiến cử tri đặc biệt phải lật lọng để bảo vệ chính
thể dân chủ. Ngược lại, nếu chế độ bầu cử mà mang tính chất quý tộc, theo đó cả quyền bầu cử lẫn quyền ứng cử đều chỉ
được dành cho một bộ phận
nào đó trong nhân dân, thì cử tri đặc biệt sẽ mang một nguy cơ nghiêm trọng nhất,
theo đó cử tri đặc biệt bị biến thànhphương
tiện chính trị cho các
âm mưu thoán đoạt có thể làm tan rã chính thể quý tộc. Chính thể này có
thể tan rã theo một trong hai chiều hướng
trái ngược nhau: có thể tiến hóa thành chính
thể dân chủ nhưng cũng có thể thoái hóa thành chính thể chuyên chế tùy
thuộc vào cử tri đặc biệt hành xử theo khuynh
hướng nào. Nếu hành xử theo khuynh hướng dân chủ thì cử tri đặc
biệt lật lọng cử
tri phổ thông mà sẽ dành phiếu bầu chọn nhiều
hơn cho ứng viên phổ thông đã cam kết mở rộng dân chủ. Với
trường hợp này, việc lật lọng tự nó rất đáng được hoan nghênh. Ngược lại, tự nó
đã rõ ràng, việc lật lọng lại rất đáng bị nguyền rủa. Tôi không cần phải nói ra
cũng đã làm cho người ta hiểu được rằng nguy cơ đó không thể tồn tại với chính
thể dân chủ mà chỉ có thể tồn tại với chính thể quý tộc.
Hiến pháp Mỹ từ khi
xuất hiện vào năm 1787 đến khoảng giữa thế kỷ XX chỉ xác nhận chính thể quý tộccho nước Mỹ
vào thời kỳ đó, theo đó quyền ứng cử được dành cho tất cả mọi cá nhân nhưng
quyền bầu cử lại chỉ được dành cho các
nhà giàu da trắng làm cho cả quyền bầu cử lẫn quyền ứng cử đều
chỉ được dành cho một số
ít người đó để tất cả các thành phần khác mà nhiều nhất thuộc
về người da đen đều bị gạt ra khỏi đời sống chính trị, đời sống này luôn luôn
bị thao túng lũng đoạn bởi các âm mưu thoán đoạt. Chính vì cả quyền bầu cử lẫn
quyền ứng cử đều chỉ được dành cho các nhà giàu da trắng nên cử tri đặc biệt
hoặcĐại Cử tri không
thể đại biểu cho toàn thể nhân dân mà chỉ có thể đại biểu cho các nhà giàu kia
thôi.
Đại Cử tri là một khái
niệm mù mờ nhất được diễn dịch như thế nào phụ thuộc hoàn toàn vào chủ thể vận dụng theo xu hướng nào nhằm mục đích nào trong hoàn cảnh nào. Ngay tại thời
điểm hoàn tất phiên bản đầu tiên, Đại Cử tri chỉ bao hàm các nhà giàu da trắng vốn
chỉ chiếm một số ít trong
xã hội Mỹ mà thôi. Nó loại trừ hoàn toàn cả nô lệ, người nghèo, người da màu,
v.v. Đó chính là nguyên nhân sâu xa nhất làm cho quyền ứng cử bị cắt xén triệt
để. Các nhà giàu da trắng sẽ chỉ bỏ phiếu bầu chọn cho những người đồng đẳng
với mình làm quan chức nhà nước mà thôi, làm cho quyền ứng cử chỉ thuộc về các
nhà giàu da trắng. Mặc dù có thể có nhiều
thành phần khác nhau tham gia ứng cử nhưng vì quyền bầu cử chỉ
thuộc về các nhà giàu da trắng nên quyền ứng cử bị lôi cuốn theo quyền bầu cử
để rồi bị tập trung cả vào các nhà giàu da trắng. Nói chung, quyền ứng cử luôn
luôn thống nhất với quyền bầu cử: nếu quyền này được bảo đảm cho mọi cá nhân
thì quyền kia cũng phải được bảo đảm cho mọi cá nhân mới bảo đảm sự cân bằng
quyền lực trong xã hội, cũng như phải vỗ tay bằng cả hai bàn tay mới tạo nên tiếng vỗ; hoặc ngược lại,
nếu quyền này bị cắt xén hoặc chỉ được trao cho một số ít người thì quyền kia
cũng bị cắt xén hoặc cũng chỉ được trao cho một số ít người làm cho sự nghiêng
lệch quyền lực trong xã hội càng trầm trọng hơn nữa mà không thể bảo đảm sự cân
bằng quyền lực trong xã hội, cũng như vỗ tay bằng một bàn tay sẽ không thể tạo
nên tiếng vỗ. Đó cũng là lý do quan trọng nhất đã giải thích được chính xác tại
sao nước Mỹ chỉ có hầu hết các nhà giàu da trắng được bầu chọn làm quan chức
nhà nước trong suốt nhiều năm sau khi có Hiến pháp với phiên bản đầu tiên. Phải
mãi đến thế kỷ XX, tình trạng đó mới bị thay đổi.
b.
Quyền bầu cử
Do chế độ bầu cử được
quy định mập mờ như trên nên đương nhiên quyền bầu cử phải bị lạm dụng triệt để
bởi các nhà giàu da trắng vốn chỉ chiếm một số ít trong xã hội Mỹ làm cho quyền
ứng cử ắt phải bị cắt xén tàn nhẫn nhất giống y hệt một chùm nho chín mọng ngon
lành trên giàn cao làm cho những kẻ thấp cổ bé họng không sao với tới được.
Chính thể dân chủ đòi
hỏi phải trao cả quyền ứng cử lẫn quyền bầu cử cho mọi cá nhân mới bảo đảm cho
quyền lực nhà nước thuộc về mọi cá nhân. Nếu làm khác thì chính thể dân chủ sẽ
không thể tồn tại được. Quả thật, do quyền bầu cử luôn luôn thống nhất với
quyền ứng cử cũng như quyền ứng cử luôn luôn cân bằng với quyền bầu cử nên nếu
quyền này mà bị cắt xén thì quyền kia cũng bị cắt xén. Nếu quyền bầu cử được
trao cho mọi cá nhân mà quyền ứng cử lại chỉ được trao cho một số ít cá nhân
nào đó thì sẽ làm cho quyền bầu cử cũng chỉ được trao cho một số ít cá nhân đó
rồi làm cho quyền lực nhà nước chỉ thuộc về một số ít cá nhân đó mà thôi. Ngược
lại cũng dẫn đến hệ quả như vậy, nếu quyền ứng cử được trao cho mọi cá nhân mà
quyền bầu cử chỉ được trao cho một số ít cá nhân nào đó thì sẽ làm cho quyền
ứng cử cũng chỉ được trao cho một số ít cá nhân đó rồi làm cho quyền lực nhà
nước cũng chỉ thuộc về một số ít cá nhân đó mà thôi. Tình trạng này chỉ thuộc về chính thể quý tộc mà
không thuộc về chính thể dân chủ.
Với quyền bầu cử chỉ
được trao cho các nhà giàu da trắng thể hiện sự thiếu sót trong phiên bản đầu
tiên, Hiến pháp Mỹ với phiên bản đó đã đặt nước Mỹ vào chính thể quý tộc chứ
không đặt để nước Mỹ vàochính
thể dân chủ. Căn cứ vào phiên bản này, các nhà giàu da trắng ở nước
Mỹ sẽ chỉ bầu chọn nhà giàu da trắng làm quan chức nhà nước, làm cho quyền lực
nhà nước chỉ rơi vào một bộ phận dân chúng ở nước Mỹ mà không thuộc về toàn thể
dân chúng ở nước Mỹ.
Việc bổ nhiệm người
làm Thẩm phán cho Toà án cũng có vấn đề quan trọng cần phải được xem xét. Tổng
thống đề cử cho Thượng Nghị viện phê chuẩn. Đó chính là thủ tục chính trị chỉ thuộc về chính thể
quý tộc vốn quy định rằng cơ quan hành pháp phải đề cử cho cơ quan lập pháp lựa
chọn hoặc phê chuẩn, tức là người làm Thẩm phán chỉ được đề cử bởi
cơ quan hành pháp rồi được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp mà không phải được
bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng. Tuy nhiên, vì chính thể dân chủ đòi hỏi cơ
quan tư pháp phải độc lập với cả cơ quan lập pháp lẫn cơ quan hành pháp nên
Hiến pháp Mỹ phải quy định Thẩm phán có nhiệm
kỳ bất định tuỳ thuộc vào khả năng làm việc ở người được bổ nhiệm (nhiệm kỳ suốt đời) làm cho
Thẩm phán hoạt động độc lập với cả Tổng thống lẫn Nghị viện, tức là quy định
này mặc dù bảo đảm tính chất dân chủ cho Hiến pháp Mỹ nhưng Hiến pháp Mỹ vẫn có thể thiếu vắng thủ
tục quy định bầu chọn
trực tiếp cho cơ
quan tư pháp.
c.
Thượng Nghị viện
Phiên bản đầu tiên quy
định tại Điều luật I, khoản 3, mục 1, rằng: “Thượng Nghị viện Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi
bang [được
bầu ra bởi cơ quan lập pháp ở đó] với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ
sẽ có một phiếu biểu quyết”. Mục này đã được chú thích như sau:
“Đầu tiên, Hiến pháp quy
định rằng cơ quan lập pháp mỗi bang nên chọn hai Thượng Nghị sỹ của bang đó.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17 thay đổi quy định này bằng cách cho phép cử
tri mỗi bang được chọn ra Thượng Nghị sỹ của mình”, tức là
trước khi sửa đổi Hiến pháp vào năm
1913, người làm Thượng Nghị sỹ chỉ được bầu chọn bởi cơ quan lập pháp ở cấp
dưới mà không phải được bầu chọn bởi dân chúng. Quy định này bắt nguồn từ một
quan niệm đặc thù cho tầng
lớp quý tộc ở Âu
châu vào thời
đại trung cổ, tầng lớp này quan niệm rằng Hạ Nghị viện chỉ làm đại
diện cho dân chúng nhưng Thượng Nghị viện phải làm đại diện cho chính quyền (hoặc Hoàng gia) mới bảo đảm được
sự cân bằng quyền lực giũa dân chúng với chính quyền (hoặc Hoàng gia). Đó chính
là quan niệm quý tộc về
Nghị viện. Về sau, Charles
de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) ở nước Pháp vào thế kỷ XVIII đã căn cứ
vào quan niệm đó mà đưa ra một
quan niệm tương tự cho rằng Thượng Nghị viện phải làm đại diện
cho một số ít người ưu
việt về mặt nào đó, như dòng
dõi hoặc tài
sản, tức là tầng
lớp quý tộc. Đây chính là “quan
niệm tư sản” về Nghị viện. Quan niệm này đương nhiên phải dẫn đến các lý thuyết cực đoan về
cả phân chia giai cấp lẫn đấu tranh giai cấp cho
phép hậu thế quy chụp võ
đoán C. S. Montesquieu thành triết gia tư sản, tức là người phát ngôn cho
giai cấp tư sản, mặc dù sự
thật không phải như vậy. Sự thật cho thấy C. S. Montesquieu chỉ
mong muốn thiết lập một trật tự công bằng nhằm bảo đảm sự cân bằng quyền lực
giữa các thành phần khác nhau trong xã hội. Hơn nữa, sự thật cũng cho thấy rằng
cả tầng lớp quý tộc lẫn C. S. Montesquieu đều
không hề biết quyền lực lập pháp bao hàm cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực
tư pháp làm cho cơ quan lập pháp phải bị phân chia thành hai thiết chế khác
nhau: Thượng Nghị viện phân biệt với Hạ Nghị viện, đòi hỏi cả hai thiết chế đó
đều phải làm đại diện cho toàn thể nhân dân. Sự thật này làm nên quan niệm khoa học hoặc quan niệm dân chủ về
Nghị viện.
Thật đáng tiếc rằng:
phiên bản đầu tiên không dựa vào quan niệm khoa học đồng thời cũng không dựa
vào quan niệm tư sản mà chỉ dựa vào quan
niệm quý tộc. Đó cũng chính là lý do đích thực làm cho phiên bản
này đã bị chống đối dữ dội bởi những người chủ trương Tuyên ngôn Về Nhân quyền.
Cũng chính lý do đó đã làm cho Hiến pháp Mỹ bị quy kết chính xác thành một văn kiện pháp lý chỉ thể
hiện ý chí riêng cho giai cấp tư sản trong suốt thế kỷ XIX.3 Mãi
đến đầu thế kỷ XX,
vào năm 1913,
sau khi sửa đổi mục này làm choThượng
Nghị viện phải làm đại diện cho dân chúng, Hiến pháp Mỹ mới có thể loại bỏ được
yếu tố nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho Thượng Nghị viện. Tuy nhiên, nếu Thượng Nghị viện cũng phải làm đại diện
cho dân chúng theo đúng nguyên tắc dân chủ y như Hạ Nghị viện
phải làm đại diện cho dân chúng theo
đúng nguyên tắc đó thì tại sao Thượng Nghị viện lại không có số lượng thành viên tỷ lệ
thuận với dân số cho các khu vực dân cư khác nhau như Hạ
Nghị viện có số lượng thành viên tỷ lệ thuận với dân số cho các khu vực dân cư
khác nhau mà chỉ có số
lượng thành viên bằng nhau cho các khu vực dân cư khác nhau?
Đây chính là một vấn
đề thú vị nhất cần phải được đặt ra cho Hiến pháp Mỹ về tư tưởnghoặc nhận thức! Theo vấn đề
đó, việc phân chia cơ quan lập pháp thành hai thiết chế khác nhau: Thượng Nghị
viện phân biệt với Hạ Nghị viện, phải tuân theo quan niệm nào về cơ quan lập pháp?
Nếu tuân theoquan niệm quý
tộc hoặc quan
niệm tư sản thì phải chấp nhận Kế hoạch New Jersey. Nếu
tuân theoquan niệm khoa học hoặc quan niệm dân chủ thì
phải chấp nhận Kế
hoạch Virginia. Nhưng cả hai kế hoạch đó đều chỉ được chấp nhận một nửa đồng
thời đều chỉ bị bác bỏ
một nửa hoặc được định đoạt bởiThỏa hiệp Connecticut hoặc Đại Thỏa hiệp, theo
đó Kế hoạch Virginia chỉ
được áp dụng cho Hạ
Nghị viện cũng như Kế hoạch New Jersey chỉ được áp dụng
cho Thượng Nghị viện làm
cho Thượng Nghị viện
dù có tất cả các thành viên được bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng từ năm 1913
đến nay vẫn nghiêng về tính chất quý tộc nhiều hơn nghiêng về tính chất dân chủ.
Hệ quả này dẫn đến một vấn đề khác: Thỏa hiệp Connecticut hoặc Đại Thỏa hiệp có chính đáng hay không chính đáng? Sự
xung đột giữa Kế hoạch Virginia với Kế hoạch New Jersey có nhất thiết hay không nhất thiết phải
dẫn đến thoả hiệp đó? Thoả hiệp đó có thể thích hợp với Chính quyền Mỹ nhưng
liệu có thích hợp hay không thích hợp với các chính quyền khác?
Nếu cần phải thiết lập một chính quyền khác thật sự dân chủ mà bao trùm cả Chính
quyền Mỹ như một bộ phận cấu thành trong chính quyền đó thì Thượng Nghị viện
thuộc về chính quyền đó sẽ lựa chọn Kế hoạch New Jersey hay sẽ lựa chọn Kế
hoạch Virginia?
3.
Các yếu tố chuyên chế hoặc tính chất độc đoán
a.
Hình thức thể hiện
Với các mâu thuẫn đối
kháng được trình bày trên đây, Hiến pháp Mỹ với phiên bản đầu tiên chắc chắn
phải có các yếu tố chuyên chế hoặc tính chất độc đoán nhưng các yếu tố này không
hề thể hiện lộ liễu qua bất cứ một câu chữ nào trong phiên bản đó mà chỉ thể
hiện ẩn ngầm qua hệ quả
thực tế từ việc vận dụng phiên bản đó mà thôi. Đó là tình trạng nô lệ cho
người da màu trên khắp nước Mỹ cùng với quyền lực chuyên chế của chính quyền
liên bang thể hiện qua sự bất lực kéo dài của chính quyền đó đối với tình trạng
lạm dụng phát triển lan tràn ở một số bang không muốn bãi bỏ chế độ nô lệ được
áp đặt cho người da đen.
b.
Công dân ở đâu?
Với phiên bản đầu
tiên, Hiến pháp Mỹ chỉ quy định cả quyền lẫn nghĩa vụ cho chính quyền mà không
hề nhắc đến cả quyền lẫn nghĩa vụ cho công dân làm cho công dân chỉ thể hiện leo lét qua
Điều luật IV, khoản 2 bao gồm ba mục. Mục 1 quy định
rằng: “Công dân của mỗi
bang sẽ được hưởng mọi đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm như công dân của các
bang khác”. Mục này được chú thích như sau: “Quy định này có nghĩa là các công dân đi
lại giữa các bang có quyền được hưởng tất cả các đặc quyền và sự miễn trừ được
tự động áp dụng với công dân của các bang đó. Một vài đặc quyền như quyền bầu
cử không được tự động áp dụng đối với quyền công dân mà yêu cầu một thời gian
cư trú và có thể các tiêu chí khác nữa. Từ “công dân” trong điều khoản này không bao gồm
các tập đoàn”. Mục
2 quy định rằng: “Cá
nhân bị truy tố về tội phản quốc, trọng tội hoặc một tội nào khác mà trốn tránh
pháp luật và bị tìm thấy ở một bang khác, thì theo yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền của bang mà người đó chạy trốn, sẽ bị trao trả lại và dẫn độ về bang có
thẩm quyền xét xử”. Mục này được chú thích như sau: “Nếu một người phạm tội tại một bang và
chạy trốn sang bang khác, thống đốc của bang nơi phạm nhân đó thực hiện hành vi
phạm tội có thể yêu cầu trao trả kẻ chạy trốn đó. Quá trình trao trả một người
bị buộc tội được gọi là dẫn độ. Trong một vài trường hợp, một thống đốc có thể
từ chối dẫn độ. Thống đốc có thể làm như vậy do việc phạm tội đã cách đây nhiều
năm, hoặc do ông ta hoặc bà ta tin rằng người bị buộc tội có thể đã không được
xét xử công bằng tại bang kia”.Mục 3 quy định rằng “Không một cá nhân nào vốn bị giam cầm,
quản thúc, khổ sai ở một bang chạy trốn sang một bang khác lại có thể dựa vào
luật lệ và quy chế ở địa phương mới để trốn tránh những hình phạt nói trên,
ngược lại cá nhân đó phải được trao trả lại theo yêu cầu của bên mà cá nhân đó buộc
phải làm việc và lao động”. Mục này được chú thích như sau: “Một ‘người được giữ để phục vụ hoặc lao động’ là một nô lệ hoặc một nô bộc khế
ước (một người bị ràng buộc bởi một hợp đồng
phục vụ cho một ai đó trong nhiều năm). Hiện tại không một ai tại Mỹ bị ràng
buộc vào tình trạng nô lệ, do vậy phần này của Hiến pháp đã được loại bỏ trong
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13 và hiện không còn hiệu lực”.
Quả thật, do có mâu thuẫn
đối kháng nên theo logic vận hành trong phiên bản này, “công dân” sẽ không có quyền
gì hết ngoài các nghĩa vụ bắt buộc đối với chính quyền để rồi vẫn chỉ làm nô lệ
hoặc thần dân cho chính quyền mà thôi, nếu không làm nô lệ hoặc thần dân cho
chính quyền thì ít nhất cũng làm nô lệ hoặc thần dân cho một số ít nhà giàu da trắng được
quy định thành công dân theo
phiên bản đó. Thực tế đã cho thấy người da màu ở nước Mỹ trước khi có phiên bản
hoàn chỉnh cho Hiến pháp đã có một số phận bi đát như vậy. Đó chính là lý do
chính đáng để mục 3 phải bị huỷ bỏ bởi Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13.
c.
Một thiếu sót nguy hiểm
Nền tảng cơ bản nhất
cho chính thể dân chủ chính là nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng, tức là nguyên tắc chính trị làm chủ chính quyền đòi hỏi mỗi cá
nhân nhất định phải chấp nhận nhiều quan điểm khác nhau tương ứng với nhiều lợi
ích khác nhau thuộc về nhiều loại người khác nhau cùng tồn tại bình đẳng theo
pháp luật, nguyên tắc này thể hiện trực tiếp qua một hệ thống chính trị bao gồm nhiều
đảng phái khác nhau cùng tồn tại bình đẳng trước pháp luật để nhân dân làm chủ
chính quyền. Nhưng với phiên
bản đầu tiên, Hiến pháp Mỹ đã thiếu vắng hẳn nguyên tắc này.
Các nhà lập quốc của nước Mỹ đã suy nghĩ giản đơn rằng một chính phủ tốt nhất
sẽ không nên theo bất kỳ một đảng phái nào. Thật ra ý nghĩ này chỉ đúng đắn đối
với một hệ thống chính trị có nhiều đảng phái khác nhau cùng tồn tại mà thôi,
theo đó chính quyền phải đứng thẳng theo ý chí chung mà không được ngả nghiêng theo
bất cứ một đảng phái nào. Nhưng đối với một hệ thống chính trị chỉ có một đảng
phái duy nhất tồn tại, một ý nghĩ chân thật như vậy sẽ không có chỗ an toàn để
dung thân.4
Chính vì có một thiếu
sót nguy hiểm như vậy nên phiên bản đầu tiên đã làm phát sinh một nhu cầu sâu
rộng nhất về sự cần thiết phải có các quy định chắc chắn về công dân, bao gồm
các quyền cơ bản bất khả xâm phạm, đồng thời thiếu sót đó cũng làm cho phiên
bản đầu tiên bị chống đối dữ dội bởi những người chủ trương Tuyên ngôn Về Nhân quyền,
đòi hỏi Hiến pháp phải ghi nhận các quyền cơ bản bất khả xâm phạm cho mọi cá
nhân để toàn thể nhân dân làm chủ được chính quyền hoặc vẫn được sống tự do
theo một chính quyền mạnh mẽ.
Chính vì có mâu thuẫn
đối kháng giữa các yếu tố trái ngược nhau như đã được trình bày ở trên nên
phiên bản đầu tiên đã gặp rất nhiều nguy nan trên con đường đi vào cuộc sống thực tế. Hiến pháp
Mỹ được tạo ra nhằm khắc phục các mâu thuẫn đối kháng trong cuộc sống thực tế
nhưng vì có các mâu thuẫn đối kháng trong bản thân nó nên chính Hiến pháp Mỹ đã
tạo ra lực cản cho chính mình. Lực cản đã xuất hiện ngay trong quá trình phê
chuẩn mà nếu không có tinh thần dân chủ thì Hiến pháp này chắc chắn đã bị tiêu
diệt.
II. PHIÊN BẢN THỨ HAI
(PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN KÈM THEO TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN VỚI MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ
SUNG SỬA ĐỔI ĐƯỢC THÔNG QUA VÀO NGÀY 15 THÁNG CHẠP 1791)
1.
Giải quyết một số mâu thuẫn đối kháng trong phiên bản đầu tiên
Tuyên ngôn Về Nhân
quyền đã xác lập được các quyền chính trị cho
mọi cá nhân để mọi cá nhân đều có thể làm chủ chính quyền. Trong các quyền đó
phải kể đến các quyền cơ bản, như tự
do tư tưởng, tự
do tín ngưỡng, tự
do ngôn luận, tự
do hội họp, tự
do kiến nghị, và quyền
mang vũ khí, để nhân dân có được các phương tiện cần thiết làm đối trọng
với chính quyền vốn có quyền lực nhà nước rất mạnh mẽ trong tay, nếu không có
các quyền đó thì nhân dân có thể bị nghiền nát vào bất cứ lúc nào bởi một chính
quyền mạnh mẽ như vậy.5 Dựa vào các quyền đó, người Mỹ đã diễn
dịch các quyền đó thành nhiều quyền khác nhau, trong đó có quyền quan trọng
nhất là quyền thiết lập hoặc bảo tồn các đảng phái chính trị làm nền tảng chắc
chắn nhất cho chế độ dân chủ.
Do hình thành từ một bối cảnh đặc biệt nên
Hiến pháp Mỹ nhất thiết phải có Tuyên
ngôn Về Nhân quyềnlàm cơ sở pháp lý cho nguyên tắc đa nguyên bình
đẳng mới bảo đảm cho hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ. Nói như vậy không có
nghĩa là khẳng định rằng một hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ cần phải cóTuyên ngôn Về Nhân quyền.
Trái lại, một hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ phải quy định rõ ràng ngay
từ đầu cả quyền lẫn nghĩa vụ cho mọi cá nhân rồi trên cơ sở đó sẽ quy định cả
quyền lẫn nghĩa vụ cho chính quyền. Nếu cứ đòi hỏi phải có Tuyên ngôn Về Nhân quyền thì
chẳng qua chỉ học đòi hoặc dập khuônnước Mỹ mà
thôi. Thế giới ngày nay có nhiều hiến pháp thật sự dân chủ nhưng không cần Tuyên ngôn Về Nhân quyền.
Chẳng qua nước Mỹ đi tiên phong chưa có kinh
nghiệm khoa học về lập
hiến mới phải đi vòng vèo như vậy qua Tuyên ngôn Về Nhân quyền.
2.
Các mâu thuẫn đối kháng trong phiên bản thứ hai
Tuyên ngôn Về Nhân
quyền đã loại bỏ hết các yếu tố chuyên chế
hoặc tính chất độc đoán trong chính quyền nhưng vẫn còn giữ nguyên các yếu tố
nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho chính quyền thể hiện trần trụi qua Đại Cử tri, quyền bầu cử, Thượng Nghị viện và tình trạng nô lệ cho người da màu như
đã được trình bày ở mục
I, tiết
2 với cả ba đề mục (a, b và c), qua đó mà vẫn bảo
tồn ngấm ngầm quyền lực chuyên chế cho giai cấp tư sản đối với tất cả các giai
cấp khác trong xã hội Mỹ. Nói cho đúng hơn, Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã ngăn chặn được
quyền lực chuyên chế cho chính quyền đối với đa số người dân nhưng vẫn chưa xóa
bỏ được quyền lực chuyên chế cho các nhà giàu da trắng đối với tất cả các thành
phần khác trong xã hội Mỹ. Đó là nguyên nhân sâu xa nhất đã làm phát sinh nhiều
cuộc đấu tranh chính trị vừa phức tạp vừa dữ dội trong suốt thế kỷ XIX mà điển
hình nhất thuộc về cuộc Nội chiến từ năm 1861 đến năm 1865.
III. PHIÊN BẢN THỨ BA
(PHIÊN BẢN THỨ HAI KÈM THEO MƯỜI BẢY ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI ĐƯỢC THÔNG QUA
RẢI RÁC TRONG KHOẢNG THỜI GIAN TỪ NĂM 1795 ĐẾN NĂM 1992)
Phiên bản thứ ba đã giải quyết triệt để các
mâu thuẫn đối kháng trong phiên bản thứ hai.
Thay đổi Đại Cử tri
thông qua các điều luật bổ sung sửa đổi làm thay đổi quyền bầu cử, Thượng Nghị viện,tình trạng nô lệ cho người da màu, v. v., qua đó làm cho
Đại Cử tri phải thay đổi triệt để: trước kia Đại Cử tri chỉ bao hàm các nhà giàu da trắng nhưng dần dần về sau Đại Cử
tri phải bao hàm mọi cá
nhân, làm cho Hiến pháp Mỹ bị mất hết cả tính chất chuyên chế lẫn
tính chất quý tộc để trở thành một hiến pháp có đầy đủ giá trị dân chủ.6
Điều luật I, khoản 2,
mục 1; cũng như Điều luật II, khoản 1, mục 2, trao quyền bầu cử cho Đại Cử tri đã bị lạm
dụng nghiêm trọng với sự
phân biệt đối xử về nhiều mặt, như chủng tộc, giới tính, giai cấp, tuổi tác, v. v., dẫn đến sự bất công xã hội giữa các
thành phần khác nhau trong xã hội Mỹ. Đại Cử tri vốn là một khái niệm hết sức mù mờ về mặt chính
trị dù được diễn dịch như thế nào cũng được. Chính vì được
diễn dịch như thế nào cũng được nên khái niệm đó cho phép một số ít người có thế lực to lớn mà
điển hình nhất thuộc vềcác nhà
giàu da trắng vốn chỉ chiếm một số ít trong xã hội Mỹ lạm dụng triệt
để vào việc bảo tồn ngấm
ngầm chính thể nửa vời hoặc chính thể quý tộc mặc dù Hiến pháp
Mỹ ngay từ đầu chỉ nhằm xác lập chính thể dân chủ cho xã hội Mỹ. Mâu thuẫn đối
kháng như vậy trong phiên bản thứ hai chỉ
được giải quyết dần dần qua nhiều năm. Phải đến năm 1971, mâu thuẫn đó mới
được giải quyết triệt để bởi các Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13, 15, 17, 19,
24 và 26, để chính thể quý tộc chuyển biến thành chính thể dân chủ. Đại Cử tri
lúc đầu chỉ bao hàm các
Ông Lớn (The
Great Men) nhưng về sau do các điều luật bổ sung sửa đổi nói trên
nên phải bao hàm mọi cá nhân!
Điều luật I, khoản 3,
mục 1 quy định rằng: “Thượng
Nghị viện Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi bang ‘được bầu ra bởi cơ quan lập pháp ở đó’ với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ
sẽ có một phiếu biểu quyết”, hoặc mục 2 quy định thêm rằng: “Ngay sau khi Thượng Nghị viện được bầu
ra và nhóm họp lần đầu, các Thượng Nghị sỹ sẽ được phân chia sao cho đồng đều
thành ba cấp. Thượng Nghị sỹ cấp 1 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ hai
của nhiệm kỳ, Thượng Nghị sỹ cấp 2 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ tư,
Thượng Nghị sỹ cấp 3 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ 6, sao cho sau mỗi
hai năm có thể bầu lại một phần ba Thượng Nghị sỹ. ‘Và khi có chỗ trống do từ chức hoặc
nguyên nhân nào khác trong thời gian ngừng họp của cơ quan lập pháp ở bất cứ
bang nào, thì chính quyền ở đó có thể tạm thời bổ
nhiệm cho đến kỳ họp tiếp đó của cơ quan lập pháp và khi đó sẽ bổ sung vào chỗ
trống”, tức là những người làm Thượng Nghị sỹ chỉ được bầu
chọn bởi cơ quan lập pháp ở từng tiểu bang đã góp
phần bảo vệ ngấm ngầm chính
thể nửa vời hoặc chính
thể quý tộc mặc dù Hiến pháp Mỹ chỉ nhằm xác lập chính thể dân
chủ. Quan điểm quý tộc cho rằng Hạ
Nghị viện chỉ làm đại diện cho dân chúng, còn Thượng Nghị viện phải làm đại diện cho
chính quyền, tức làđem
đối lập chính quyền với dân chúng, cũng như đem đối lập Thượng Nghị viện với Hạ nghị
viện. Nhưng quan điểm dân chủ lại cho rằng cả Hạ Nghị viện lẫn Thượng Nghị viện đều
phải làm đại diện cho dân chúng, rằng sự phân chia Nghị viện thành
hai thiết chế khác nhau như vậy chỉ bắt nguồn từ quyền lực lập pháp vốn
bao hàm cả quyền lực hành
pháp lẫn quyền
lực tư pháp phải có hai chức
năng đối lập nhau:chức năng
quy định đối lập với chức năng ngăn cản, được trao cho hai thiết chế tương ứng
hợp thành Nghị viện, tức là Hạ Nghị viện và Thượng Nghị viện. Cái mâu thuẫn đối
kháng giữa hai quan điểm đó đã được giải quyết triệt để bởi Điều luật Bổ sung
Sửa đổi thứ 17 quy định rằng: “1)
Thượng Nghị viện của Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi bang được bầu ra bởi dân chúng ở đó với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ
sẽ có một lá phiếu biểu quyết. Ðại Cử tri ở mỗi bang phải có đủ phẩm chất cần
thiết như phẩm chất của Đại Cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo nhất. 2) Khi có chỗ trống trong số đại diện của
tiểu bang trong Thượng Nghị viện, cơ quan hành pháp của bang đó sẽ ban hành lệnh bầu cử để bổ sung vào chỗ trống, với điều kiện là cơ quan lập pháp của bang đó trao quyền
tạm thời cho cơ quan hành pháp cho đến khi nhân dân bầu chọn được người bổ sung
vào những chỗ trống theo luật lệ sẵn có. 3) Ðiều khoản này sẽ không được giải thích
làm ảnh hưởng đến việc
bầu cử hoặc nhiệm kỳ của Thượng Nghị sỹ được
bầu ra, cho
đến khi nó có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp”, tức là
những người làm Thượng Nghị sỹ phải được bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 13 được đề xuất vào ngày 13 Tháng Giêng 1865 rồi được thông qua vào
ngày 06 Tháng Chạp 1865 bãi
bỏ chế độ nô lệ tại Mỹ hoặc xóa bỏ quyền lực chuyên chế của người này đối với người
khác trong xã hội Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 15 được đề xuất vào ngày 26 Tháng Hai 1869 rồi được thông qua vào ngày
03 Tháng Hai 1870 ngăn cấm việc cản trở người
da đen tham gia bầu cử, tức là điều luật này đã xóa bỏ sự phân biệt về chủng tộc hoặc
góp phần giảm bớt tính
chất nửa vời hoặc tính
chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 17 được đề xuất vào ngày 13 Tháng Năm 1912 rồi được thông qua vào ngày
08 Tháng Tư 1913 quy định những
người làm Thượng Nghị sỹ phải được bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng ở từng tiểu
bang, tức là điều lụât này góp phần xóa bỏ tính chất nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho
Hiến pháp Mỹ đồng thời gia tăng tính
chất dân chủ cho Hiến pháp đó.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 19 được đề xuất vào ngày 04 Tháng Sáu 1919 rồi được thông qua vào ngày
18 Tháng Tám 1920 ngăn cấm việc cản trở nữ
giới tham gia bầu cử, tức là điều luật này đã xóa bỏ sự phân biệt về giới tính hoặc
góp phần xóa bỏ thêm tính
chất nửa vời hoặc tính
chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 24 được đề xuất vào ngày 27 Tháng Tám 1962 rồi được thông qua vào ngày
23 Tháng Giêng 1964 ngăn cấm việc cản trở người nghèo tham gia bầu cử, tức là điều
luật này đã xóa bỏ hoàn toàn sự
phân biệt về giai cấp hoặc kinh tế, cũng tức là góp phần quan trọng nhất vào
việc xóa bỏ tính chất nửa
vời hoặc tính
chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 26 được đề xuất vào ngày 23 Tháng Ba 1971 rồi được thông qua vào ngày
01 Tháng Bảy 1971 ngăn cấm việc cản trở công dân tham gia bầu cử với lý do tuổi tác, tức là điều
luật này đã xóa bỏ sự
phân biệt về tuổi tác hoặc đã xóa bỏ hoàn toàn tính chất quý tộc đồng
thời góp phần hoàn thiện tính
chất dân chủ cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 27 được để xuất vào ngày 25 Tháng Chín 1789 rồi được thông qua vào cuối
Tháng Chín cùng năm đó bởi Nghị viện Mỹ nhưng phải hơn 200 năm sau mới được phê
chuẩn vào ngày 07 Tháng Năm 1992 bởi 38 bang cần thiết theo Hiến pháp Mỹ quy
định bằng Điều luật V. Bang Michigan là bang thứ 38 phê chuẩn Điều luật Bổ sung
Sửa đổi thứ 27 nhằm ngăn cản cơ quan lập pháp lạm dụng quyền lực nhà nước vào
gia tăng thu nhập cho mình, làm cho cơ quan này phải thỏa thuận với dân chúng
mỗi khi muốn gia tăng thu nhập cho mình mà không thể tùy tiện làm việc đó. Việc
gia tăng thu nhập cho quan chức chính quyền có vẻ đơn giản hoặc không có ý
nghĩa gì về mặt chính trị nhưng thực chất lại có ý nghĩa quan trọng về mặt đó,
nếu không có điều luật này thì cơ quan lập pháp có thể tùy tiện bòn rút công
quỹ cho riêng mình hoặc tất cả các nhà cầm quyền theo một “cách thức hợp pháp” làm cho
nền dân chủ bị xâm hại. Vậy điều luật này có tác dụng ngăn chặn đối với các âm mưu tài
chính có thể làm bại hoại nền dân chủ, tức là điều luật này đã củng cố chế độ
dân chủ cho nước Mỹ.
Tất cả các điều luật
bổ sung sửa đổi được thông qua từ
năm 1795 đến năm 1992 đều góp phần quyết định vào việc hoàn
thiện nguyên tắc đa nguyên bình đẳng vốn có vai trò quan trọng nhất trong chính
thể dân chủ.
Như vậy phiên bản thứ
ba hình thành qua một quá
trình lâu dài suốt từ năm 1787 đến năm 1992 đã cho thấy rằng dân chủ hình thành rất khó khăn.
Cuộc Cách mạng 1776 nhân danh dân
chủ nhưng chỉ được thực hiện bằng bạo lực đã không thiết
lập được chính thể dân chủ mà chỉ có thể thiết lập được chính thể nửa vời hoặc chính thể quý tộc cho
nước Mỹ. Chính thể đó chỉ có nhà
nước nửa vời vốn chỉ có thể phải quản lý xã hội bằng cả bạo lực lẫn pháp luật theo
đúng cái nguồn gốc đích
thực đã phát sinh nhà nước đó, tức là chính cuộc Cách mạng
1776 vốn dĩ phải được chỉ dẫn bằng ý
chí hoặc tinh
thần dân chủ nhưng chỉ được thực hiện bằng bạo lực. Phải tiếp tục đấu tranh kéo dài bằng ý chí hoặc tinh thần dân chủ qua nhiều năm nữa suốt từ
năm 1789 đến năm 1992, nước Mỹ mới thiết lập được đầy đủ chính thể dân chủ cho
mình với ý nghĩa đích thực cho khái niệm đó. Chính thể nửa vời hoặc chính thể
quý tộc tồn tại ở nước Mỹ từ năm 1789 đến năm 1971 mới tiêu vong. Trong khoảng
thời gian đó, xã hội Mỹ có những mâu thuẫn kỳ quặc không thể tưởng tượng nổi
đối với hầu hết mọi người trên khắp thế giới: tinh thần dân chủ gia tăng mạnh mẽ tương
phản với tình trạng bạo
lực gia tăng trầm trọng. Đó có lẽ cũng là một trong nhiều nguyên
nhân quan trọng làm cho nước Mỹ bị thất bại đau đớn ở Việt nam cùng với một số
nơi khác trên khắp thế giới. Thật ra, nước Mỹ từ năm 1789 đến năm 1971 chưa thật sự dân chủ hoặc chưa có dân chủ đích thực.
Nếu không nắm được các
nguyên tắc chính trị đồng thời không hình dung được ba loại chính thể khác
nhau:chuyên chế, quý tộc và dân chủ, cũng như không hiểu
được từng chính thế nhất
định trong ba chính thể đó, thì sẽ không thể nào hiểu được tại
sao nước Mỹ lại trải qua một
giai đoạn bi hùng như thế. Chính trong giai đoạn đó, nước Mỹ
đã hạ gục chủ nghĩa fascist (the fascism) nhưng lại thất bại
trước chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, nước Mỹ từ năm 1971 đến nay lại hoàn toàn
khác hẳn. Nhờ dân chủ hóa
triệt để toàn bộ xã hộimà nước Mỹ đã trở nên hùng mạnh hơn bao giờ
hết để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong công cuộc dân chủ hóa thế
giới. Chính nước Mỹ đã góp phần quyết định làm cho thế giới tự do chiến
thắng chủ nghĩa cộng sản ở Âu
châu vào thập niên 1990. Nước Mỹ ngày nay xứng đáng được làm người tiên phongtrong công cuộc dân chủ hóa thế giới để tự do sẽ đến với mọi người trên khắp thế
giới. Nước Mỹ ngày nay đã thăng tiến được tinh thần dân chủ cho
cuộc Cách mạng 1776 đồng thời đã loại bỏ được yếu tố tiêu cực cho cuộc cách
mạng đó.
Một người da đen như Barack Hussein Obama đắc
cử Tổng thống Mỹ vào năm 2008 đã
chứng tỏ rằng tinh thần
dân chủ đã chiến thắng hoàn toàn ở nước Mỹ, rằng sự bình đẳng chính trị đã trở thành nền
tảng chắc chắn cho đời sống chính trị ở nước Mỹ, rằng tự do đã trở thành giá trị phổ quát cho
mọi thành phần xã hội ở nước Mỹ. Sự kiện đó không chỉ quan trọng
đặc biệt đối với nước Mỹ mà còn quan trọng đặc biệt đối với cả thế giới, nó
khơi lên một niềm tin
chắc chắn rằng rồi
mai đây tinh thần dân chủ sẽ lan tràn khắp thế giới, rằng nhân loại sẽ rũ bỏ hết độc tài,
rằng công cuộc dân chủ
hoá thế giới sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn. Quan trọng hơn hết,
sự kiện đó đã góp phần
quan trọng vào việc
khắc phục tâm lý tự ty cho các dân tộc yếu hèn nhất trên thế
giới để các dân tộc đó có tâm
lý tự tôn mà tin tưởng đúng đắn rằng mình cũng có thể vươn lên
giành lấy tự do.
Ngày nay, Hiến pháp Mỹ
chỉ còn một mâu thuẫn đối
kháng giữa nội dung minh bạch với hình thức mù mờ. Về nội dung, Hiến pháp Mỹ đã có
đầy đủ ít nhất ba thiết
chế cơ bản hợp thành chính
thể dân chủ. Ba thiết chế đó là: 1/ Quy chế phân lập tam quyền
là quy chế chính trị phân
chia chính quyền thành ba cơ
quan khác nhau hoạt động độc lập với nhau để thực hiện ba quyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập
pháp, cơ quan
hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư
pháp, quy chế này đòi hỏi ba cơ quan khác nhau phải chế ước lẫn nhau để không cơ quan nào mạnh hơn hoặc yếu hơn
cơ quan nào nhằm bảo
đảm quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về toàn thể nhân dân. 2/
Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng là nguyên tắc chính trị làm chủ chính quyền đòi
hỏi mỗi cá nhân nhất định
phải chấp nhận nhiều quan điểm khác nhau tương ứng với nhiều lợi ích khác nhau
thuộc về nhiều loại người khác nhau cùng tồn tại bình đẳng theo pháp luật,
nguyên tắc này thể hiện trực tiếp quamột
hệ thống chính trị bao gồm nhiều đảng phái khác nhau cùng tồn tại bình đẳng
trước pháp luật để nhân dân làm chủ chính quyền. 3/ Chế độ bầu cử
tự do là chế độ chính trị bảo
tồn chính quyền bằng bầu
cử tự do cho mọi
cá nhân đều được tham gia cả việc ứng cử lẫn việc bầu chọn, trong
đó việc ứng cử phải
tuân thủ quy chế phân lập
tam quyền, tức là chỉ được ứng cử vào một trong ba cơ quan khác nhau
hợp thành chính quyền để nếu đắc cử thì chỉ nắm được một quyền lực nhất định trong ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng việc bầu chọn lại phải
tuân thủ nguyên tắc đa
nguyên bình đẳng, tức là mọi cá nhân đều phải được bầu chọn người
xứng đáng nhất làm đại diện cho mình để tham gia chính quyền. Ngoài ra, Hiến
pháp Mỹ cũng đã quy định rõ ràng cả quyền lẫn nghĩa vụ cho cả nhân dân lẫn
chính quyền. Nhưng về hình
thức, Hiến pháp Mỹ lại quy định mập mờ các thủ tục bầu cử hết sức
rắc rối làm cho người ta rất bối rối khi tiếp cận văn kiện này. Chính cái mâu thuẫn đối kháng giữa nội dung
minh bạch với hình thức mù mờ (biểu hiện qua các thủ tục bầu cử) sẽ làm
cho Hiến pháp Mỹ chắc chắn phải thay đổi nữa trong tương lai, ít nhất cũng sẽ có sự thay đổi liên quan
đến các thủ tục bầu cử, để văn kiện này có thể được tiếp cận dễ
dàng bởi hầu hết mọi người trên khắp thế giới.
Tuy nhiên, mâu thuẫn
đối kháng giữa nội dung minh bạch với hình thức mù mờ trong Hiến pháp Mỹ dù
nghiệm trọng đến đâu cũng nghiêm trọng ít hơn so với mâu thuẫn đối kháng giữa tính chất phổ
quát với tính chất đặc thù trong chính Hiến pháp Mỹ. Tính chất
phổ quát làm cho Hiến pháp Mỹ thích hợp với cả thế giới nhưng tính chất đặc thù
lại ngăn cản việc áp dụng Hiến pháp Mỹ cho cả thế giới. Hiến pháp Mỹ cung cấp
những giá trị phổ quát cho cả thế giới nhưng thủ tục phê chuẩn cũng như cơ chế tự vệ trong Hiến
pháp Mỹ lại ngăn cản việc áp dụng Hiến pháp Mỹ cho cả thế giới. Do bị quy định
bởi hoàn cảnh ra đời đầy tính chất đặc thù nên
Hiến pháp Mỹ dù bành trướng đến đâu về chính trị cũng không thể phát triển về
chính trị thành Hiến pháp
Chung cho toàn
thể thế giới mà vẫn chỉ có thể phải dừng lại làm Hiến pháp Riêng cho một quốc gia nhất định, quốc
gia đó chính là nước Mỹ. Nước Mỹ không phải là toàn thể thế giới bao gồm mọi
quốc gia độc lập mà chỉ là một quốc gia độc lập bên cạnh nhiều quốc gia độc
lập. Hiến pháp Mỹ không thể bành trướng khắp thế giới về chính trị mà chỉ có
thể bành trướng khắp thế giới về tinh
thần hoặc tư
tưởng. Các dân tộc khác dù
muốn cũng không thể tiếp nhận cơ chế chính trị từ Hiến pháp Mỹ mà chỉ có
thể tiếp nhận tư tưởng
chính trị từ Hiến pháp Mỹ. Chính thủ tục phê chuẩn trong
Hiến pháp Mỹ đã ngăn cản Hiến
pháp Mỹ bành trướng về chính trị: nước
Mỹ sẽ khó hoặc thậm chí không sẵn sàng tiếp nhận thêm một quốc gia khác làm một
bang thành viên cho mình dù quốc gia đó đã có chế độ dân chủ như nước Mỹ.
Xin lấyCosta Rica làm một ví dụ điển hình, nước
này đã từng xin gia nhập Hợp Chúng Quốc Mỹ nhưng bị từ chối với quá nhiều lý do
chính đáng. Những khác biệt sâu sắc về ngôn
ngữ, phong
tục, tập quán, v. v., không cho phép nước
Mỹ mang thêm một gánh
nặng quốc gia. Phải nói đúng như vậy để hiểu đúng rằng Hiến pháp Mỹ
đã làm cho nước Mỹ không thể mở rộng quốc gia bằng thủ tục phê chuẩn đã được
quy định chắc chắn ngay trong Hiến pháp Mỹ. Muốn mở rộng quốc gia bằng thủ tục
này lại phải thay đổi thủ tục này vốn đòi hỏi phải được chấp nhận bởi ít nhất ¾
tổng số bang thành viên hoặc phải được chấp nhận bởi ít nhất ¾ tổng số thành
viên trong Nghị viện thuộc về từng bang nhất định trong tất cả các bang thành
viên, cũng tức là phải được chấp nhận bởi ít nhất ¾ dân số ở nước Mỹ, chưa kể
nhiều khó khăn khác chắc chắn sẽ phát sinh từ việc phê chuẩn Hiến pháp Mỹ có
thể được thực hiện bởi quốc gia nào đó xin gia nhập Hợp Chúng Quốc Mỹ. Điều
kiện đó khó khăn đến mức độ mà gần như không thể được thỏa mãn đầy đủ. Chính
điều kiện đó làm cho nước Mỹ rất khó mở rộng quốc gia bằng thủ tục phê chuẩn
đối với Hiến pháp Mỹ, nếu làm được việc đó thì chỉ đạt đến một giới hạn nhất
định cũng sẽ phải dừng lại ở giới hạn đó để làm một quốc gia đặc thù trên
thế giới. Cũng chính điều kiện đó càng làm cho nước Mỹ không thể mở rộng quốc
gia bằng việc xâm chiếm nước khác mặc dù đôi khi nước Mỹ phải đánh phá chế độ
độc tài ở các nước khác nhưngkhông
phải nhằm xâm chiếm nước khác mà chỉ nhằm giải thoát nước khác khỏi chế
độ độc tài. Nước Mỹ không thể thống trị thế giới bằng chính trị với
bất cứ giới hạn nào mà chỉ có thể thống trị thế giới bằng tư tưởng với một giới hạn nhất định, bất
cứ quốc gia nào thù địch với nước Mỹ cũng đều không có lý do gì để lo sợ rằng
mình sẽ bị tấn công xâm chiếm bởi nước Mỹ mặc dù có thể có lý do nào đó như vi phạm nhân quyền chẳng
hạn để lo sợ rằng mình sẽ bị tấn công phá phách bởi nước Mỹ. Nếu chế độ độc tài
vi phạm nhân quyền để rồi bị tấn công phá phách bởi nước Mỹ thì việc tấn công
phá phách dù có thể không chính đáng nhưng chế độ độc tài cũng chẳng bị oan
khiên chút nào!
Muốn được áp dụng
chung cho cả thế giới, Hiến pháp Mỹ cần phải được thay đổi về cơ chế tự vệ hoặc
thủ tục phê chuẩn. Nhưng nếu thay đổi về cơ chế tự vệ hoặc thủ tục phê chuẩn
thì Hiến pháp Mỹ sẽ bị mất khả năng tự vệ để rồi có thể bị tiêu vong. Vậy Hiến
pháp Mỹ chỉ có thể làm Một
Hiến pháp Riêng biệt cho Một Quốc gia Riêng biệt mà thôi. Đó là
nước Mỹ.
Chú
thích:
1‑ C. S. Montesquieu
đã xác lập được quy chế phân lập tam quyền nhưng không xác lập thêm hai thiết chế khác, bao
gồm cả nguyên tắc đa
nguyên bình đẳng lẫn chế
độ bầu cử tự do, làm điều
kiện cần thiết cho quy chế đó tồn tại. Đó là thiếu sót cơ bản
trong triết lý chính trị của ông.
2- Việc chi trả thù
lao cho quan chức nhà nước đã cho thấy Hiến pháp Mỹ quan niệm rằng quan chức
nhà nước chỉ làm thuê cho dân chúng mà thôi.
3- Chủ nghĩa Marx có giá trị hiện thực với
cả chính thể chuyên chế lẫn chính thể quý tộc vốn
làm cho đối kháng giai
cấp gia tăng trầm trọng thành sự xung đột khốc liệt giữa người với người.
Chính thực tại đó đã cho phép các nhà marxist không chỉ phê phán gay gắt chế độ
chuyên chế mà còn đả kích kịch liệt cả nền
dân chủ tư sản rồi quy kết đúng đắn nền dân chủ đó thành nền chuyên chế giai cấp cho giai cấp tư sản để giai
cấp này thống trị các giai cấp khác. Có thể xác quyết rõ ràng hơn rằng, chính tính chất nửa vời cho các nền dân chủ tư sản,
trong đó có Hiến pháp Mỹ,
đã trở thành một trong
các nguyên nhân sâu xa nhất làm cho Karl Marx cùng các đồng sự quy kết mọi nhà nước thành công cụ chính trị cho giai cấp này thống trị giai cấp khác để
rồi họ chủ trương xoá bỏ
mọi nhà nước. Vậy nếu (tôi
xin nhấn mạnh rằng: nếu!)
Chủ nghĩa Marx sai lầm
với chủ trương xoá bỏ mọi nhà nước thì những người thông minh
uyên bác phải biết quy kếtmột
phần trách nhiệm cho tính
chất nửa vời trong các
nền dân chủ tư sản, bao gồm cả Hiến pháp Mỹ, vàothế kỷ XIX! Nhưng thật đáng tiếc cho các học giả uyên bác, trong
đó có David Held rất
đáng được kể ra với “Models Of
Democracy” (Các Mô hình Dân chủ) dường như đã không cảm thấy cần
phải làm như vậy. Chủ nghĩa Marx cần phải được đánh giá khách quan theo nhiều chiều kích khác nhau mới
có thể thể hiện được hết các
phẩm chất xác định. Nếu được đánh giá khách quan như vậy thì Chủ
nghĩa Marx có thể sẽ được bào chữa một phần nào đó bởi chính nền dân chủ tư sản
vốn rất dễ gây nên sự ngộ nhận về mình!
4- Trước đây dựa vào C. S. Montesquieu, người ta
tin tưởng chắc chắn rằng, quy
chế phân lập tam quyền làm nền tảng cơ bản nhất cho chính thể dân chủ,
nhưng thực tế đã cho thấy rằng, quy
chế phân lập tam quyền chỉ tồn tại được với ít nhất hai thiết chế khác (bao
gồm cả nguyên tắc đa nguyên bình đẳng lẫn chế độ bầu cử tự do) làm điều kiện cần thiết cho quy chế kia
tồn tại. Sự thể này cho thấy thực tế đã vượt qua C. S. Montesquieu.
5- Tuyên ngôn Về Nhân
quyền đã xác lập được nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng làm nền tảng chính trị chochính thể dân chủ vốn
được lấy làm mục đích
chân chính cho Hiến
pháp Mỹ.
6- Các điều luật bổ
sung sửa đổi được thông qua bởi Nghị viện Mỹ trong khoảng thời gian từ năm 1795
đến năm 1992 đã xác lập chắc chắn tính chất dân chủ cho Hiến pháp Mỹ.
H.
H. T.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết