On Tuesday, 10 February 2015, 19:16,
"Henrik Nguyen wrote:
NGÀY HÀNH
TRÌNH ĐẾN TỰ DO
Việt Nam -
Đông Á 35 năm bão lửa 1940-1975
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Date: 2015-02-09 23:57 GMT-05:00 Subject: NGÀY HÀNH TRÌNH ĐẾN TỰ DO To: Thanh Pham <thanh1970belle@gmail.com>
Thưa các anh chị,
Trong
vòng trên dưới 20 năm nữa, nhiều người trong chúng ta sẽ lần lượt ra đi. Thế
hệ con cháu chúng ta sinh sống ở Canada sẽ có một lúc nào đó tự hỏi vì
đâu ông bà, cha mẹ chúng đến đây?
May mắn thay Thưa nước Canada đã cho chúng ta cơ hội ghi
nhận điều này. Ngày 8 tháng 12 năm 2014 vừa qua, Thượng viện Canada đã biểu
quyết thuận Dự luật S-219, gọi ngày 30 tháng 4 hàng năm là Ngày Hành Trình
tìm Tự Do-Journey of Freedom Day-Journée du Parcours vers la Liberté.
Dự Luật S-219 là một vinh dự cho người Việt tị nạn tại
Canada nói riêng và là một vinh dự cho người Việt tị nạn khắp nơi trên thế
giới nói chung. Dự Luật này là một trang đẹp của lịch sử Canada, vinh danh
cuộc di tản lớn nhất nhì trong lịch sử nhân loại mà nước Canada đã tham dự và
cứu độ hơn 60 ngàn người Việt vào thời điểm 1975-1985, đưa chúng ta hay người
thân chúng ta đến bến bờ tự do.
Dự Luật đã được đưa sang Hạ Viện, đang thảo
luận để biểu quyết (xin xem link ở phần tham khảo).
Hiện nay đã có rất nhiều "cảm tình viên" CSVN ở
Canada đang tiếp tục chống đối chính thức Dự Luật S-219. Việc tranh đấu cho
Dự Luật này vẫn còn rất cam go.
Chúng tôi, một số người, tuy tuổi đã về chiều, nhưng không
thể ngồi yên an hưởng những ngày tháng nhàn hạ, chỉ mong cố gắng đóng
góp chút công sức vào lợi ích chung.
Xin gửi kèm đây các links tài liệu liên quan đến Dự Luật
này để các anh chị tham khảo, nếu đồng ý, xin các anh chị vào trang nhà của
dân biểu Jason Kenny để ký tên.
Nguyện xin Thượng Đế ban ơn phước cho đất nước Việt Nam
sớm thoát ách CS để mọi người dân được no ấm, có được Tự
Do, Dân Chủ thật sự .
Thành thật cám ơn các anh chị.
Thay mặt một số cựu sinh viên đại học Laval
Phạm Thị Thanh
PS: vì muốn trung thực với thông tin nên phần tham khảo
khá dài, mong các anh chị đại xá cho.
1. Văn bản Dự Luật S-219
2. Trang nhà của dân biểu Jason Kenney để ký tên ủng
hộ
3. Testimony của anh Lê Duy Cấn đọc trước Ủy ban điều
trần Thượng Viện Canada
Bill S-219 – Testimony to the Human Rights Committee,
Senate of Canada
By
Can D. Le, former Secretary General of the Vietnamese Canadian
Federation
November
20, 2014
Good
morning, Madam Deputy Chair,
Members
of the Senate Human Rights Committee,
Ladies
and gentlemen:
Thank
you for giving me the opportunity to come here and express my view regarding
Bill S-219 concerning the proposal for a national day of commemoration of the
exodus of Vietnamese refugees, their acceptance in Canada after the fall of
Saigon, and the end of the Vietnam War on April 30, 1975.
I
believe that a national day of commemoration in Canada on April 30th each
year for the exodus of close to a million Vietnamese refugees after the
end of the Vietnam War, and for Canada’s acceptance of more than 60,000 of
these refugees, will enshrine an important event in Canadian history and will
enrich the cultural and social mosaic of this country.
The
Vietnamese Canadian Federation, of which I am one of the co-founders and a
former Secretary General, is an umbrella organization founded in 1980 to
represent Vietnamese community organizations from coast to coast.
At present, the Federation includes organizations in the Vietnamese community
in Halifax, Sherbrooke, Montreal, Ottawa, Toronto, Windsor, Winnipeg,
Saskatoon, Edmonton, Calgary, and Vancouver. Its national office is
located in Ottawa.
Throughout
its 34-year history, the Federation has helped thousands of Vietnamese
refugees resettle in Canada, in addition to promoting cultural mutual
understanding and advocating for democracy, freedom, and human rights in
Vietnam.
I
would like to share with you my observations with regard to the background of
the exodus of refugees from Vietnam in the late 70s and early 80s, which led
me to support this bill.
Following
the invasion of South Vietnam by the North Vietnamese Communists in 1975,
hundreds of thousands of Vietnamese -- members of the Armed Forces of
the Republic of Vietnam, government officials or supporters, religious
leaders, intellectuals -- were put in hard-labour concentration camps
(officially called Re-Education Camps) where thousands would
eventually die due to executions, diseases or malnutrition. Many others
were exiled to the so-called New Economic Zones in remote
regions of Vietnam. In addition, ethnic Chinese Vietnamese were forced
to relocate or expelled from the country due to the political conflict
between China and Vietnam in 1979. Under these circumstances, people
rushed to flee the country by the thousands. There was a famous saying
in Vietnam at the time: “If lamp posts could walk, they would flee too”.
The
flow of refugees from Vietnam reached a critical phase in late
1978 due to the refusal of some neighbouring Asian countries to admit the
“Boat People” who were so called because most fled in small, leaky boats in
the perilous Eastern Sea (formerly called the South China Sea).
Hundreds of thousands of these refugees perished at sea by drowning or
starvation, or were raped or killed by pirates.
Dennis
McDermott, President of the Canadian Labour Congress at the time, summarized
this situation as follows: “It is crystal clear to us that the Vietnamese
refugee problem has ballooned into a humanitarian crisis of global proportion
and the only human way to react to such a situation is through decisive and
immediate action.”
In
response to the plight of these refugees, in 1979 Mayor Marion Dewar of the
City of Ottawa called a meeting of community organizations, church groups,
and social service agencies in the city in her office to discuss the ways to
help them. As a result, Project 4000 was formed with the objective of
campaigning for the admission of up to 4,000 Indochinese refugees, the
majority of whom came from Vietnam, to the City of Ottawa through the Private
Sponsorship Program of the federal government. Similar community
initiatives were undertaken elsewhere in Canada, most notably the Operation
Lifeline spearheaded by Professor Howard Adelman in Toronto.
Little
more than two weeks elapsed from the initial meeting of church leaders,
ethnic community representatives and immigration officials in Mayor Dewar's
office on June 27, 1979 until the rally at the Ottawa Civic Centre on July
12, and yet it was in this short period that the structure of one of the
largest grassroots social movements in Canada's history was formed.
Within
a month of that rally, which attracted close to 3,000 people – many more than
originally expected -- most of the 347 sponsor groups had been formed and
registered at the local Immigration office.
Subsequently,
the federal government under Prime Minister Joe Clark decided to accept
50,000 refugees, mostly Vietnamese, but also including Cambodians and
Laotians who fled the newly established Communist regimes in their countries.
Project
4000 was Ottawa's response to the Boat People crisis of 1979. Canadians
from across the country were quick to offer help, involving thousands of
volunteers from all walks of life.
I
had the honor and the privilege to serve as a member of the Board of
Directors of this project from 1979 to 1983. I learned a lot by working
with hundreds of volunteers in the project. I also came to understand
the plight of the refugees, those who left everything in Vietnam and risked their
lives and the lives of their loved ones in search of freedom.
In
the words of two former volunteers of Project 4000, Eleanor Ryan and Sue
Pike, Project 4000 was a huge risk, for both refugees and
sponsors. It required a leap of faith on both parties but, in the end,
Ottawa emerged greatly enriched from the experience.
I
think that the same thing can be said of the work done by hundreds of sponsor
groups set up elsewhere in Canada to help Vietnamese refugees rebuild their
lives in freedom.
The
story of this outstanding project was well documented in the book
entitled Gift of Freedom written by Brian Buckley and
disseminated in 2008 by the Vietnamese Canadian Federation.
Since
their arrival in Canada, all of these refugees have, over the years, rapidly
integrated themselves into Canadian society and made important contributions
to the prosperity of this country. As well, they helped in the
preservation of its great values. There is now thousands of Canadians
of Vietnamese origin – who are the children and grandchildren of the refugees
–working as professionals in various fields such as medicine, dentistry,
pharmacy, engineering, law, economics, education, information technology,
accounting, and so on. Hundreds of Vietnamese businesses are blooming
across the country. As well, the community has started to become
involved in politics, with representatives at both provincial and federal
levels.
By approving
this bill, Parliament will assure newcomers and their future generations of
their place in this country and will prove that Canada’s inclusiveness is the
foundation of its strength and prosperity.
The
resettlement of thousands of refugees in the aftermath of the Vietnam War is
yet another shining chapter in the history of Canada. It once again
showed the compassion and generosity of the Canadian people in response to
the sufferings of people around the world, including those who fled
tyrannical regimes in search of freedom.
This
shining chapter should be honored and enshrined in Canadian history.
This, I believe, is the main reason for Bill S-219.
Madam
Deputy Chair, members of the Committee, ladies and gentlemen, I have the
honour to support this bill.
Thank
you.
4.
PM Canada Stephen Harper Chúc Tết - Vietnamese Tet Toronto
Festival 2015 - HCT Toronto 2015
5.
Bài của anh Nguyễn Duy Vinh để phản biện bài chống đối
Bill S-219 của Mai Viết Thu
Phản ứng chung quanh Dự luật “Hành trình tìm Tự do” tại
Canada.
DCVOnline |
Như
tin đã đưa Một dư luật ở Thượng viện Canada làm căng thẳng
ngoại giao với Việt Nam, ngày 6/12/2014 vàThượng viện Canada đã thông qua Dự luật “Hành
trình tìm Tự do”, ngày 11/12/2014, cuộc vận động để dự thảo luật này có
nhiều ý kiến khác nhau khi được đưa ra tranh luận tại Hạ viện Canada
tiếp tục bằng một trang web yêu cầu người Canada ký tên ủng hộ Dự luật “Hành trình tìm Tự do”đặt ở trang nhà của một dân biểu (đảng Bảo Thủ,
đang cầm quyền, Calgary South West), Jason Kenney. Ông Kenney cũng hiện là Bộ
trưởng Bộ Việc làm và Phát triển Xã hội đồng thời còn là Bộ trưởng Đa văn hóa
(Minister of Employment and Social Development and Minister for
Multiculturalism).
Tương
tự với phản ứng của một số hội đoàn người Canada gốc Việt và nhân viên Đại sứ
quán cùng các viên chức ngoại giao khác của nước CHXHCN Việt Nam, một số
người Canada gốc Việt cũng đã viết thư cho dân biểu Jason Kenney bày tỏ quan
điểm e ngại rằng Dự luật “Hành trình tìm Tự do” có thể gây
chia rẽ trong cộng đồng người Canada gốc Việt. Ngược lại ngoài việc ký tên
ủng hộ Dự luật “Hành trình tìm Tự do” tại trang web nêu trên, một số khác cũng
đã viết thư cho cho dân biểu/bộ trưởng Jason Kenney chia sẻ quan điểm ủng hộ
Dự luật này.
Sau
đây là nguyên văn (bằng anh ngữ) hai lá thư phản ảnh hai quan điểm trái chiều
về Dự luật “Hành trình tìm Tự do”: bên trái, thư của ông Thu Mai (Mai
Viết Thu, không ủng hộ) và bên phải, thư của ông Nguyen Duy Vinh (Nguyễn Duy
Vinh, ủng hộ).
To
all,
Following
is a letter written to Senator Jason Kenny(1), with a different view
regarding Bill S219. If you think the facts mentioned in this letter are
incorrect, please write directly to Senator Jason Kenny to express your own
opinion.
Dear
Senator Jason Kenny,
On
behalf of all Vietnamese Canadians who share my view, I am writing to express
our concern on Bill S-219’s potential long-term negative and divisive effects
on Vietnamese communities across Canada, for the following reasons:
1. Out
of the current estimated 220,000 Canadians of Vietnamese origin, only about
110,000 (50%) were refugees or “boat people”, sponsored to Canada mostly
during the period from 1975 to 1985. The other 110,000 have never been
refugees, nor having any direct personal connection with the so-called
“Journey to Freedom Day” (still titled “Black April Day Act” on Senator Thanh
Hai Ngo website). Furthermore, even among the 110,000 with refugee
background, a growing percentage have come to co-operate, approve, or at
least no longer oppose the current Vietnamese government, which has been
gradually, systematically, and successfully replacing Communism with
Capitalist Socialism in Vietnam over the last 20 years, since the removal of
their embargo in 1995. This growing co-operative “boat people” population
have left their bitter, divisive, and messy past behind for a more promising,
united, and stable future, have paid frequent visits to Vietnam, wish to keep
their Vietnamese connections, will support full co-operation between Vietnam
and Canada, and no longer have a negative view on the subject day, as further
explained below. As a result, despite the official support of the Bill by
some established Vietnamese Community organizations across Canada and
unofficial support of the Conservative party, the “Journey to Freedom Day”
view is still currently that of a decreasing minority and not the mainstream
one in the Vietnamese Canadian population.
2.
The fact that the Vietnamese refugee exodus ended with the removal of the
embargo on Vietnam in 1995, and that the country has consistently improved in
all aspects since (including its economy, the people’s human rights, its
centralized democracy, …, with its still single-party socialist political
system), shows that the main cause of the refugee exodus and of the economic
and social issues of Vietnam from 1975 to 1995 was more the embargo itself
and not so much the political system there, which has consistently tried to
normalize relations with the USA and the West since 1975 and shown obvious
flexibility through its gradual abandonment of communism and integration into
the world economy over the past 20 years. This also proves that the
Vietnamese government adopted Communism (the only political tool available to
them at the end of World War II, after the USA had ignored their request for
help with gaining back independence from France) only as a means to fight
against colonialism but was never been deceived about it.
3. Unlike
in World War I & II, the involvement of the Canadian Army in the Vietnam
war was non-belligerent and limited only to a peace-keeping role, with a
total of 121 Canadians killed (compared to 67,000 in WWI and 42,000 in WWII),
versus estimated 3 to 4 millions Vietnamese killed during the 20-year war
from 1954 to 1975. On the other hand, having played this peace-keeping role
in and admitted refugees from many other countries, each with its own tragic
history, Canada has never integrated these countries’ histories into its own
to the extent of approving an act respecting a National Day of Commemoration
for each of the various groups of refugees. Even if this practice has now
become favourable or necessary, it would be more beneficial for Canada to
have just one common National Day of Commemoration for all refugee groups, to
be called, say, “Canada’s Refugee Day” (similar to the United Nations’ “World
Refugee Day” named for June 26th), and the date for which to be agreeable by
all related groups.
4. The
1973 Paris Peace Accord was but an unavoidable continuation of the 1954
Geneva Accord, in which South Vietnam would fail to comply with one of the
key provisions, by unilaterally refusing to co-operate with North Vietnam in
organizing a general nation-wide election intended for 1956 to reunify the
country. Severe violations of both accords by both sides have been
internationally recorded since, and the fall of Saigon in 1975 was but a
calculated outcome anticipated by all parties involved (including the USA,
France, the Soviet Union, China, and Vietnam). From a global viewpoint,
however, the unified Vietnam in 1975 was in fact the very goal of the
1954 Geneva Accord, finally realized by force after continuous violations by
both sides for 20 years, with an unreasonable cost of estimated 3 to 4
millions Vietnamese lives, under the interference of France, the USA ,the
Soviet Union, and China. In short, all five countries above (not just
Vietnam) were responsible for the Vietnam war and its outcome.
5. The
250,000 Vietnamese refugees killed at sea, mentioned in the bill as estimated
by the UNHCR, needs to be verified, for there have been other reports
indicating a total of about 800,000 Vietnamese refugees (out of the 840,000
mentioned in the Bill) safely landed in neighbouring countries (that is, only
40,000 killed at sea). Even if the 250,000 estimate is accurate, it’s still a
rather modest figure compared to the 3 to 4 millions killed during the war by
foreign weapons against the wish of the Vietnamese people. What this boils
down to is that every Vietnamese individual or family at the time,
whether refugee or not, was traumatically affected by the war in various ways
and to various extents, and that the Vietnamese government cannot be made
solely responsible for it, in light of the key roles that the other four
countries did play in the war.
I
hope this letter will provide you with the supplementary information you may
need to make the best decisions for Canada, for its Vietnamese Canadian
population, and for its relation with Vietnam, with respect to Bill S-219.
Regards,
Thu
Mai
Email: thuvmai@…
Thư trả
lời của anh Nguyễn Duy Vinh
Dear
Honorable Jason Kenney,
Dear
Mister Mai Viet Thu,
Dear
all beloved friends who aspire for a free, democratic and independent
Vietnam,
Below
is my reaction (Phản biện) to Mr. Mai Viet Thu’s letter to Honorable Jason
Kenney (please scroll down).
1. Mr.
Mai gave the wrong fact regarding the Vietnamese Diaspora: Although it is
true that some of the rest of 110,000 Vietnamese Diaspora in Canada have
never been on a boat themselves to attain the shore of freedom as claimed by
Mr. Mai, Mr. Mai forgot the fact that most of them (maybe 90% between 1975
and 1984) came to Canada via a family sponsoring program. They are being sponsored
by their Vietnamese relatives who were the boat people and who are well
settled in Canada. So describing our Vietnamese community that support Bill
S-219 as part of a decreasing minority is quite misleading, to my opinion.
2. Mr.
Mai gave the wrong fact regarding Vietnam’s political status: Mr. Mai claimed
that Vietnam has replaced Communism with Capitalist Socialism shows his lack
of knowledge regarding Vietnam’s current political status. In fact Article
Number 4 of the current Vietnamese constitution (called Constitution 2013)
states quite clearly that Communist Party is the only and unique party
leading the country. I copied below this Article No 4 taken from the official
Vietnamese government’s web link:
Article
4
1. The Communist Party of Vietnam – the Vanguard of the working class, concurrently the vanguard of the laboring people and Vietnamese nation, faithfully representing the interests of the working class, laboring people and entire nation, and acting upon the Marxist-Leninist doctrine and Ho Chi Minh Thought, is the force leading the State and society.
The
Vietnamese Communists have not adopted communism as a means to fight against
the French colonialists as Mr. Mai wrongly stated. On the contrary, they have
adopted communism as a credo of its political party and they grasp onto its
doctrine as a direction for the whole country since 1945 and this direction
was and still is part of an international communist movement. This movement
is now heavily dictated and controlled by the Chinese Communist government.
The Vietnamese people were fooled, cheated and betrayed by the Vietnamese
Communist Party since 1945. If a referendum takes place freely today in
Vietnam, asking people if they want to dissolve the communist party and its
regime, I strongly believe the result will be predominantly positive, i.e. a
big YES to remove communism and its government in our country.
3. Mr.
Mai underestimated the suffering of the South Vietnamese people: the victory
of the Vietnamese communists on April 30th 1975 has not ended in peace and
its aftermath is tainted with blood. The Vietnamese communists have continued
to revenge and punish the South Vietnamese people, especially the ones who
have been collaborating with and working for the South Vietnamese government and
the US offices in Vietnam. More than 300,000 (three hundred thousands) former
military and civil workers, artists, writers, lawyers, engineers and medical
personnel as well as business men and women were sent to re-education camps
(that I would call re-education prisons) and half of them (nearly more than
150,000 men and women have died in those camps, some were executed without
trials in a barbaric way as described by several books published in
Vietnamese and English by the camp prisoners who have survived the camps, now
available). Between 1975 and 1984, people in the South knew they have no
other choices as they have reached the limit of their endurance.
The exodus
of the South Vietnamese people in the aftermath of the great suffering caused
by the Vietnamese Communist government and its revengeful policy was one of
the largest human (and humanitarian) emergencies of the second half of the
20th century. The scale of the suffering was appalling. Canada was among the
principal and the first countries who came to the rescue. While the
international political debate was still on and while the refugees continued
to throw themselves into the sea with ill-fated crafts, the Canadian
government was prepared to be the first nation of the world responding to the
boat people crisis and Canada has accepted more than 50,000 refugees and this
number has reached 60,000 by the end of 1980. The response of the Canadian
people was a monument of vigor and generosity and the results are nothing
short of amazing – an encounter of compassion, loving kindness and success in
pursuit of a generous cause. Canadians and Vietnamese Canadians deserve
a national day for and by themselves and this day could be simply called a
Journey For Freedom for all Canadians to celebrate each year on April 30th.
I
myself strongly support Senator Ngo Thanh Hai’s Bill S-219.
Sincerely
yours,
Nguyen
Duy Vinh, Ph.D.
6.
Mời
xem (nghe) nữ dân biểu trẻ người Canada gốc Việt Anne Quách Minh Thu,
thuộc đảng NDP, đơn vị tỉnh bang Québec thuyết trình trước Hạ Nghị Viện Liên
Bang để ủng hộ dự luật S-219 công nhận ngày 30-4 là NGÀY HÀNH TRÌNH ĐẾN TỰ
DO.
Cô Quách Minh Thu nói tiếng Pháp, mặc dù cô cũng nói thông thạo tiếng Anh.
Mời
xem bài viết của phóng viên đài CBC phỏng vấn 2 anh em người Canada
gốc Việt bày tỏ cảm nghĩ và nhận định về THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
Phá vỡ im lặng về Thuyền Nhân
Sabrina Hoa Tú Anh và Glenn Hoa Xuân Long là người
Canada gốc Việt nhưng chưa hề sống trên đất nước từng bị chiến tranh tàn phá.
Hai anh em họ cũng không phải trải qua cuộc vượt biển nguy hiểm bằng ghe tàu
để đến được bến bờ tự do.
Thật ra, hai anh em họ không biết đến câu chuyện
thuyền nhân Việt Nam cho tới khi họ trưởng thành.
Sự sụp đổ của Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã
gây ra một làn sóng di cư ồ ạt của người Việt. Hàng trăm ngàn người bỏ chạy
bằng thuyền, dẫn đến thuật ngữ "thuyền nhân."
Thuyền nhân tiếp tục ra đi khỏi Việt Nam trong hơn
một thập niên sau sự sụp đổ của Sài Gòn.
Là hậu duệ của người di dân Việt Nam, Glenn và
Sabrina được sinh ra và lớn lên tại Brossard, Québec Canada. Glenn, 30, là
một nha sĩ và Sabrina, 28, đang thực tập y khoa về bệnh phong thấp.
Hình hai anh em (Glenn) Hoa Xuân Long và (Sabrina) Hoa Tú Anh, với mẹ
là Đỗ Thị Đông cùng con trai của Sabrina là (Justin) Đặng Vinh Sơn. Cha mẹ
của Glenn và Sabrina từ Việt Nam đến Canada định cư. (Alison Cook/CBC)
Glenn cho biết anh chỉ nhận ra ý nghĩa đích thực của
hai chữ thuyền nhân khi anh 28 tuổi. Glenn nói:
"Trước đó, tôi chỉ biết là mọi người tránh nói
đến hai tiếng 'thuyền nhân' vì nó được xem là một thuật ngữ xấu nhắc nhớ bao
nhiêu kỷ niệm đau buồn. Vì vậy nó là một từ ngữ bạn không muốn đề cập
đến."
Tất cả ý nghĩ đó đã thay đổi khi anh xem một phim
tài liệu tên là Bolinao 52 do Nguyễn Hữu Đức, một nhà làm phim người Mỹ gốc
Việt thực hiện. Glenn cho biết:
"Phim tài liệu này dài chỉ 40 phút, nhưng nó
cho thấy hình ảnh sống động của những gì thuyền nhân tị nạn Việt Nam đã trải
qua."
Phim kể về câu chuyện của một chiếc thuyền chở đầy
người tị nạn rời khỏi Việt Nam năm 1988. Trong tổng số 110 hành khách trên
tàu, chỉ có 52 người sống sót qua cuộc hành trình.
Glenn xem cuốn phim tài liệu này tại một hội nghị
lãnh đạo thanh niên Việt Nam mà anh đã tham dự ở Calgary vào tháng 8 năm
2012. Glenn kể tiếp:
"Tôi cùng ngồi xem phim tài liệu đó chung với
rất nhiều bạn trang lứa trẻ tuổi khác. Nó gây xúc động rất mạnh mẽ đối với
chúng tôi, mạnh đến mức nó làm cho chúng tôi thực sự tò mò muốn tìm hiểu gốc
tích để xem trong gia đình và bạn bè chúng tôi có ai là thuyền nhân hay
không."
Thời gian sau đó, Glenn có đọc qua cuốn tiểu thuyết
"Ru" của tác giả Kim Thúy và nó càng làm cho anh tò mò hơn về vấn
đề thuyền nhân. Mặc dù cha mẹ của Sabrina và Glenn không phải là thuyền nhân,
Glenn nói anh rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng khoảng 80 phần trăm của
thế hệ cha mẹ anh đều là thuyền nhân. Glenn nói:
"Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi tôi biết ra
một số bạn bè của tôi, dù họ chỉ lớn hơn tôi ba hoặc bốn tuổi, nhưng chính họ
cũng là thuyền nhân. Hãy nghĩ xem nếu một số những người này không hiện diện
trong cuộc đời bạn thì cuộc đời bạn sẽ không được như thế này."
Sabrina học được câu chuyện về thuyền nhân Việt Nam
khi cô 19 tuổi và gặp người chồng tương lai của cô. Anh ấy và cha mẹ là
thuyền nhân. Cô nói nhờ hiểu biết về những gian khổ gia đình chồng đã trải
qua mà cô càng trân quý sự có mặt của cô nơi xứ sở này. Cô nói:
"Chúng tôi may mắn còn sống sót và được cư ngụ
ở một nơi mà tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng, đều được sống trong xã
hội tự do."
Giữa năm 1975 và năm 1980, gần 40,000 người Việt đã
đến Canada, trong đó có 8.000 đến tỉnh bang Quebec.
Cộng đồng người Việt phát triển mạnh mẽ trong tỉnh
bang. Theo kết quả kiểm tra dân số năm 2011, có 42,480 người ở Quebec nói họ
có nguồn gốc Việt Nam.
Nhờ sự hiểu biết về thuyền nhân, Glenn đã tích cực
tham gia vào chiến dịch gây quỹ cho một bảo tàng thuyền nhân Việt Nam tại
Ottawa. Trong khi bảo tàng vẫn chưa được xây dựng, Glenn nói dự án này giúp
bắt cầu khoảng cách giữa các thế hệ, nâng cao nhận thức về những gì mà thế hệ
cha mẹ anh đã trải qua. Anh nói:
"Họ ở trong khoảng tuổi 25, 30 khi họ miễn
cưỡng rời xa quê hương, họ cũng có những ước mơ như chúng tôi, nhưng những
ước mơ của họ phải bỏ lại phía sau. Họ hy sinh tất cả mọi thứ để cho con cái
của họ có thể thành công."
"Cha mẹ của chúng tôi, tôi nghĩ rằng họ không
bao giờ đi ăn ngoài ở nhà hàng. Họ không bao giờ đi xem phim ở rạp, họ không
bao giờ đi xem kịch nghệ trình diễn, họ không bao giờ mua sắm các món hàng
sang trọng. Nhưng thực sự là họ dám bỏ ra một món tiền lớn để mua cho chúng
tôi một chiếc dương cầm. Do đó ý tôi muốn nói là, họ sẵn sàng làm tất cả mọi
thứ, và tôi nghĩ rằng điều đó thật tuyệt vời."
Sabrina, em gái Glenn cũng đồng ý. Cô nói:
"Họ sẵn sàng cung cấp tất cả mọi thứ cho chúng
tôi, nhất là cho việc học của chúng tôi. Nếu không có sự hy sinh của họ thì
chúng tôi sẽ không có được những gì như hiện nay."
Sabrina và Glenn cũng biết ơn đất nước Canada đã mở
rộng vòng tay đón nhận cha mẹ họ, và Glenn đã tìm được cách riêng của mình để
đền đáp. Anh mới vừa gia nhập Lực lượng Trừ bị Quân đội Canada với tư cách là
một nha sĩ. Anh cho biết:
"Thuyền nhân Việt Nam đã can đảm đánh đổi mạng
sống ra đi để đến đây. Nhưng đáng nói hơn là có một đất nước tuyệt vời tên
Canada đã đón nhận họ."
"Và tôi nghĩ rằng nếu thế hệ cha mẹ tôi đã dồn
mọi nỗ lực để tồn tại và tạo ra một cộng đồng mới, bây giờ cuộc sống của
chúng tôi đã ổn định, vậy thế hệ của tôi phải có trách nhiệm đối với đất nước
này để đền đáp lại bằng cách nào tốt nhất. Và vì vậy mà tôi đã tham gia quân
đội, và phần còn lại là lịch sử."
8. Hành Trình Đi Tìm Tự Do qua tiếng nói của một số
dân biểu Hạ Viện Canada
Dự
luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” tại Hạ viện Canada
|
OTTAWA (05/02/2015)
|
Sau khi được Thượng
viện Canada thông qua ngày 8 tháng 12, Dự luật S-219 “Ngày
Hành trình tìm Tự do” đã được đưa ra trước Hạ viện lần thứ nhất vào
ngày 10 tháng 12, 2014. Chiều thứ Năm, 5 tháng Hai, 2015 lần thứ nhì dự luật
“Ngày Hành trình tìm Tự do” được đưa ra thảo luận ở Hạ Viện Quốc hội Canada.
Trong buổi thảo
luận và tranh luận dài 60 phút này, 6 dân biểu của ba đảng Bảo thủ Cấp tiến
(CPC), đảng Tân Dân chủ (NDP), và đảng Tự do (Lib.) đã lần lượt phát biểu. Sau
đây là một số trích đoạn của cuộc thảo luận về dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự
do”.
Một cuộc
sống không có tự do thì không còn gì là cuộc sống nữa
Dân biểu Mark Adler. Nguôn: TheStar.com
Mở đầu cuộc thảo
luận dân biểu Mark Adler (CPC, York Center), người cùng đỡ đầu Dự luật S-219
tại Hạ viện, ngược dòng lịch lịch sử, sơ lược lại nguyên nhân của sự kiện
thuyền nhân, cùng sự đồng loạt của toàn dân và chính phủ Canada lúc đó cùng
đứng lên đối phó với cuộc khủng hoảng nhân đạo, mở rộng vòng tay đón nhận nhữn
người tị nạn cộng sản đang đi tìm tự do, ông nói
“… ngày 30 tháng Tư
năm 1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Sài Gòn, thủ đô của miền Nam Việt Nam,
rơi vào tay đoàn quân xâm lược Cộng sản phía bắc, nhưng câu chuyện không chấm
dứt ở đó. 30 Tháng 4 năm 1975 là ngày bắt đầu một chương mới trong đời sống của
người dân miền Nam Việt Nam.”
[…]
“Dự luật này là
biểu tượng của một truyền thống lâu đời của Canada như một ngọn hải đăng của tự
do và dân chủ, một quốc gia đã hào hiệp đón nhận những người tị nạn, những
người vô tội buộc lòng phải phải rời bỏ quê hương.”
[…]
“ Dự luật này cũng
sẽ cho chúng ta một cơ hội tuyệt vời để suy nghĩ về những ưu điểm và sự đa dạng
mà cộng đồng người Việt Nam đã mang lại cho đất nước và để cảm ơn họ đã góp
phần vào nền văn hóa đa nguyên của chúng ta. Tất cả chúng ta có thể học được
đôi điều từ những người tị nạn, những người sẵn sàng mạo hiểm hy sinh tất cả để
được sống trong tự do, vì một cuộc sống không có tự do thì không còn gì là cuộc
sống nữa.
Tôi là một người
Canada thế hệ thứ nhất, và dự luật này đã khiến tôi suy tư về kinh nghiệm của
riêng mình, là con của một người sống sót sau Holocaust; cha tôi đến Canada
không có gì hơn một mảnh áo trên lưng, với một hàng số xăm trên cánh tay, nhưng
quan trọng nhất là niềm hy vọng trong trái tim mình. Đối với rất nhiều người tị
nạn đến Canada, giống như những người sống sót sau Holocaust, những thuyền nhân
Việt Nam, các Kitô hữu bị bách hại và người Yazidis ở miền bắc Iraq và Syria,
và rất nhiều người khác, mỗi người trong số họ đã có quyền quay lưng lại với
nhân loại, nhưng họ không làm như vậy. Họ đã đến Canada để tìm hy vọng, hy vọng
cho chính họ, đúng thế, nhưng quan trọng hơn, hy vọng cho con cái của họ để
chúng không bị buộc phải sống dưới ách áp bức, khủng bố. Họ đã đến Canada vì
Canada là một mốc hiệu ánh sáng của thế giới, một quốc gia đứng trong thế mạnh,
hãnh diện, tôn trọng những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, và chế độ pháp
trị.”
Đối thoại
và hàn gắn trước, sau cùng mới có thể nhìn về tương lai
Dân biểu NDP Anne Minh-Thu Quach Beauharnois-Salaberry). Nguồn:
INFOSuroit.com
Sau đó là phát biểu
của dân biểu đảng Tân Dân chủ Anne Minh-Thu Quach (Beauharnois—Salaberry, NDP),
bà nói,
[…]
“Đôi khi chúng ta
quên mất ý nghĩa thực sự của cuộc sống ở đây trong một xã hội dân chủ nơi mà
người công dân có thể lựa chọn đại biểu Quốc hội của họ, và cả hai, người dân
và người được dân cử, đều có thể an toàn thực thi quyền tự do ngôn luận. Hầu
hết dân số trên thế giới không thể thực thi được cái quyền cơ bản đó.
Nếu hôm nay tôi có
thể đứng đây là một dân biểu Quốc hội và nói chuyện tại Hạ viện là nhờ bố mẹ
tôi đã chạy trốn khỏi Việt Nam và đã tìm được nơi nương náu ở đây, tại Canada,
để bắt đầu xây dựng gia đình, sống trong thanh bình, và làm việc nuôi thân.
Bản thân tôi, Anne
Minh-Thu Quach, sinh ra ở và lớn lên ở Canada, và cũng nhờ sự dũng cảm của cha
mẹ tôi và sự đón nhận của Canada nên hôm nay tôi mới có thể tham gia vào đời
sống dân chủ của đất nước này.”
[…]
“Tôi may mắn đã
được đi Việt Nam để thăm hỏi gia đình của tôi và tìm hiểu vùng đất của tổ tiên
tôi. Đó là một đất nước tuyệt vời, nơi của những con người rất đặc biệt và cởi
mở. Tôi vẫn còn có nhiều bà con họ hàng sống ở đó, và tôi muốn họ và tất cả mọi
người Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam có cơ hội như tôi đang có, để họ có
thể sống trong hòa bình, an ninh và hưởng đời sống dân chủ và các quyền con
người cơ bản và phổ quát như tôi đang có.
Thật không may, đó
chưa phải là thực tế cho tất cả mọi người ở Việt Nam. Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia vào bảy công ước quốc tế về quyền con người. Việt Nam còn là một thành
viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Quyền con người cũng được xác định
trong bản Hiến pháp Việt Nam. Tuy nhiên, luật sư, nhà báo, người viết blog và
các công dân bình thường vẫn tiếp tục bị bắt giữ, xét xử và bỏ tù chỉ vì bày tỏ
ý kiến riêng của họ.
Hôm nay, chúng ta
không phải sợ hãi khi nói sự thật. Mỗi con người có quyền được sống, quyền tự
do và có cơ hội bình đẳng. Vì vậy, tôi xin với tay đến tất cả người Việt Nam,
và tất cả những người Canada, những người muốn thực hiện cuộc đối thoại này với
tôi và với các dân biểu.
Dự luật S-219 cho
chúng ta một cơ hội để trao đổi, vì các vết thương đã thưc sự chưa lành. Chúng
ta phải nắm lấy cơ hội này để cùng ngồi lại quanh bàn, như tôi đã nói, là người
Việt Nam từ tất cả các tầng lớp xã hội, cho tiến trình đối thoại và hàn gắn có
thể bắt đầu và sau cùng thì chúng ta mới có thể nhìn về tương lai.”
Sau đó đến dân biểu
đảng Tự do Kevin Lamoureux (Winnipeg North, Lib.) phát biểu, ông nói
Dân biểu Lib. Kevin Lamoureux. Nguồn: Politwitter.ca
“Công nhận Ngày
Hành trình tìm Tự do, với chúng ta là việc quan trọng, nó đánh dấu một ngày
trọng đại đối với lịch sử chung của cộng đồng người Việt Nam trên khắp thế
giới. Nó ghi nhận sự kiện Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, sự chiếm
lãnh miền Nam Việt Nam của bắc quân, và việc thành lập chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam, đồng thời là điểm bắt đầu của cuộc di cư hàng loạt của hàng triệu người
dân Việt Nam rời bỏ quê hương của họ.
Đại đa số những
người Việt Nam đến Canada vào ngày 1 tháng Giêng năm 1975 là người tị nạn;
Canada lúc đó đã có khoảng 1.500 người gốc Việt sinh sống, phần lớn ở Quebec.
Sau cuộc khủng hoảng thuyền nhân giữa năm những 1979 và 1982, có khỏang 69.000
người đã đến tị nạn tại Canada. Nhóm người tuyệt vời này cuối cùng đã định cư ở
tất cả mọi miền đất nước và họ đã làm phong phú thêm cho đời sống của tất cả
người dân Canada. Tôi mong muốn được thấy dự luật này cuối cùng sẽ được đưa vào
nghiên cứu ở ủy ban.”
Không phải
là một ngày hạnh phúc nhưng đó là một ngày phải nhớ
Dân biểu Bob
Dechert (Thư ký Quốc hội cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp, CPC) là người phát biểu tiếp
theo. Ông nói,
Dân biểu CPC Bob Dechert. Nguồn: The Star.
“Tôi rất cảm kích
có được cơ hội để lên tiếng ủng hộ dự luật quan trọng này. Như tôi đã đề cập,
nó công nhận có những người đã thiệt mạng và những đau khổ mà họ đã phải đã
trải qua trong cuộc di cư của người Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh Việt
Nam vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, ngày mà Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản. Đó là
một cuộc chiến, như chúng ta đều biết, hoành hành trong hơn 10 năm. Một cuộc
chiến đẫm máu và bạo lực, và cuộc sống của người dân đã bị xé nát. Nó đã làm
mất đi quá nhiều sinh linh vô tội.
Đó không phải là
một ngày kỷ niệm hạnh phúc, nhưng đó là một ngày mà chúng ta phải nhớ. Chúng ta
phải nhớ những sự kiện lịch sử và cần biết những sự kiện đó đã ảnh hưởng thế
nào đến mọi người trên khắp thế giới, đặc biệt là những người ở Canada.
Canada đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ hàng chục ngàn người tị nạn sau khi Sài
Gòn sụp đổ, theo Ủy ban Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, có hơn 1,5 triệu người
Việt Nam bị buộc phải trốn khỏi quê hương của họ dưới sự đe dọa của một cuộc
sống bi đát, và một điều cần được lưu ý là sự vi phạm nhân quyền tràn lan
ở đó.”
[…]
[…]
“Tôi cũng muốn đề
cập đến “Tribute to Liberty”, tổ chức đang xây dựng đài tưởng niệm các nạn nhân
của chủ nghĩa cộng sản. Nó ở rất gần trong khu vực Quốc hội, gần Tối cao Pháp
viện. Chính phủ đã tặng 1,5 triệu đô-la góp phần vào dự án đó. Tôi khuyến khích
tất cả mọi người dân Canada truy cập vào trang web, www.tributetoliberty.ca,
và đóng góp. Người dân Canada gốc Việt sẽ là một phần rất quan trọng của những
người được vinh danh trên di tích đó. Họ là một ví dụ trong số hàng trăm ngàn
người dân Canada là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, những người đã đấu tranh
để đến được Canada.”
Với tất cả những lý
do này, để làm rạng danh hơn 300.000 người Canada gốc Việt, những người đóng
góp cho sự thịnh vượng và phát triển của Canada là những công dân tích cực làm việc
trong xã hội chúng ta, tôi muốn cổ vũ tất cả quý đồng viện của tôi ở đây ủng hộ
việc thông qua Dự luật S-219.”
Sau dân biểu Bob
Dechert, dân biểu Tân Dân chủ Lysane Blanchette-Lamothe (Pierrefonds-Dollard,
NDP) nói,
Dân biểu NDP Lysane Blanchette-Lamothe. Nguồn: lysaneblanchette-lamothenpd.ca
“Đầu tiên, dù không
muốn nhắc lại những gì đã nói trong cuộc tranh luận này cho đến nay, nhưng tôi
vẫn muốn nói rằng tôi tự hào hôm nay chúng ta có thể nói chuyện về sự đóng góp
của người Canada gốc Việt. Dự luật này một lần nữa cho chúng ta một cơ hội để cảm
ơn họ vì những đóng góp của họ cho cộng đồng của chúng ta trên khắp Canada.”
[…]
“Tôi cũng nhân cơ
hội này để nói rằng ngày lễ kỷ niệm là có thể có vì tại một thời điểm nào đó
trong lịch sử của Canada, chúng ta đã mở cửa và chúng ta quyết định, như là một
quốc gia và một xã hội, để đón nhận những người đang tìm nơi nương náu sau một cơn
khủng hoảng lớn. Khi cuộc chiến gây ra nhiều bi kịch của con người kết thúc,
Canada đã mở cửa và nhận người vào, và nay họ là một phần không thể tách rời
của cơ cấu xã hội, kinh tế và chính trị của Canada.”
Dự luật
S-219 không phải là một bản án đối với chính phủ Việt Nam
Người phát biểu sau
cùng trong buổi thảo luận ngày 5 tháng 2, 2015 về Dự luật S-219 là Quý ông
Peter Kent, cựu bộ trưởng phụ trách Môi trường, dân biểu (Thornhill, CPC); ông
nói,
Cựu Bộ trưởng Môi trường, dân biểu CPC Peter Kent . Nguồn”
Macleans.ca
“Thưa Chủ tịch Hạ
viện, trong vài phút còn lại của buổi tranh luận, tôi xin được nhiệt tình ủng
hộ Dự luật S-219, Đạo luật Ngày Hành trình tìm Tự do.
Tôi đã làm việc tại
Việt Nam trong một thời gian khá dài khi còn là nhà báo trong những thập niên
1960, 1970, 1980, và ngay cả vào những năm 1990. Tôi được đặc ân đáng ngờ là đã
có mặt ở Sài Gòn vào ngày đen tối đó, 30 tháng Tư năm 1975, khi tôi được di tản
khỏi căn cứ của Hoa Kỳ cùng với những người Mỹ sau cùng, những công dân của các
nước thứ ba khác, và hơn 7.000 công dân Việt Nam có mặt ở đó. Tôi đã theo dõi
với mối quan tâm lớn trong những năm đen tối của những trại cải tạo suốt những
năm còn lại của thập niên 1970 và sau đó, và tiếp tục với một mối quan tâm lớn
tới hoàn cảnh của những người buộc lòng phải để rời khỏi đất nước của họ để tìm
một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác.
Tôi có thể cam đoan
với những đồng viện đã bày tỏ quan tâm, quý vị dân biểu vùng
Beauharnois-Salaberry và Winnipeg North, rằng dự luật này sẽ được đưa vào
nghiên cứu ở ủy ban. Ủy ban sẽ nghe điều trần của nhân chứng thuộc mọi quan
điểm, và tôi mong được gặp Đại sứ Việt Nam trong thời gian nghiên cứu của ủy
ban sắp đến.
Tôi sẽ nói với ông
Đại sứ rằng dự luật này không phải là một sự lên án đối với chính phủ
[CHXHCNVN] hiện nay. Chúng tôi có mối quan hệ chặt chẽ và tốt với chính phủ
hiện tại. Dự luật này mô tả lại một thời điểm đặc biệt tối tăm và hành trình
tìm tự do của hàng trăm ngàn người. Trong số này, 60.000 người tị nạn đã đến
Canada. Trên thực tế, Việt Nam có tự do hơn không phải nhờ chiến tranh nhưng vì
những áp lực của tư bản, vì một nền kinh lế tự do, và vì ý chí của nhân dân
muốn có một cuộc sống tốt hơn ở Việt Nam.
Để kết luận, ý
nghĩa của việc tưởng niệm Ngày Hành hành trình tìm Tự do thực sự là ở ba phương
diện. Nó sẽ đánh dấu những sự kiện bi thảm sau khi Sài Gòn sụp đổ và sự di cư
của những người tị nạn Việt Nam. Nó cũng sẽ vinh danh tất cả những người
Canada, những người đã vượt qua mọi thách thức để chào đón những người tị nạn
đang bị chấn thương tinh thần, và giúp họ thích nghi với cuộc sống mới và tốt
hơn trong một vùng đất mới và xa lạ. Sau cùng, nó sẽ tán dương những đóng góp
lạ thường mà những người tị nạn Việt Nam đã thực hiện để xây dựng đất nước
tuyệt vời của chúng ta.
Điều này vừa mới
được chứng minh trong cuối tuần qua nhân dịp lễ Tết ở Toronto, nơi mà quý đồng
viện đều biết rằng Thủ tướng Chính phủ đã phát biểu trước một đám đông hơn
10.000 người Canada gốc Việt Nam.
Tất cả người dân
Canada nên biết đến những câu chuyện của những người tị nạn Việt Nam bị buộc
phải rời bỏ quê hương, những nỗ lực nhân đạo lớn của người Canada đã thể hiện
trên khắp mọi miền từ bờ Bắc Thái Bình Dương đến bờ biển Bắc Cực qua bờ Bắc Đại
Tây Dương, và đã thắng nghịch cảnh mà hiện thân là cộng đồng năng động của
người Việt Nam tại Canada ngày nay.”
Sau đó, quyền Chủ
tịch Hạ viện, ông Barry Devolin, đã tuyên bố tạm ngưng buổi thảo luận về dự
luật Ngày
Hành tình tìm Tự do vào lúc 18g15 cùng ngày.
Đón đọc toàn bộ phụ
đính về buổi thảo luận Dự luật S-219
ngày 5 tháng 2, 2015.
© 2015 DCVOnline
Tham khảo: Biên bản tranh luận
tại Hạ viện Canada ngày 5 tháng Hai, 2015 | 41st PARLIAMENT, 2nd SESSION,
EDITED HANSARD • NUMBER 170; Thursday, February 5, 2015, House of Commons
Debates, Private Members’ Business, Journey to Freedom Day Act.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết