From: Anh Kim Phan Dinh <
30
tháng 4 ngày CSBV vào Nam vơ vét !!!
Babui
DAM KHI CSVN DOI DOI!SAU
BO LEN LAM NGUOI!TU RUNG RA THANH NHU DAM DA THU NGO NGAC,NGOI CHOM HOM TRONG
NHU LU KHI !!!
Chiến Tranh
VN, VC Thắng Hoá THUA!
Hữu Nguyên (huunguyen@saigontimes.org)
NHỮNG NGÀY
GIỜ CUỐI CÙNG
40 năm trước,
cộng sản Hà Nội ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Ba Lcê mở cuộc tấn công quy mô
vào Ban Mê Thuột với ý định thăm dò phản ứng của chính phủ Mỹ và sức mạnh của
quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phần muốn bảo tồn lực lượng, phần muốn tạo áp lực
buộc chính phủ Mỹ phải thực hiện những gì đã cam kết, tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đã quyết định triệt thoái toàn bộ lực lượng khỏi vùng cao nguyên trung
phần. Nhưng vì không chuẩn bị chu đáo, giao thông bị tắc nghẽn, phương tiện di
tản thiếu thốn, thời gian lại gấp rút, và lòng dân thì quá hoang mang, nên cuộc
triệt thoái đã trở thành một thảm kịch bi hùng đầy máu và nước mắt. Những sai
lầm của cuộc triệt thoái cao nguyên, cộng thái độ "hoàn toàn phủi
tay" của chính phủ Mỹ, đã là những nguyên nhân khiến cộng sản Hà Nội vội
vã thực hiện nốt dã tâm thôn tính Miền Nam.
Giữa cơn binh
lửa thập phần dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến, chính phủ Mỹ và những thế lực
chủ hòa tại Miền Nam đã ngây thơ, hoặc cố tình nhắm mắt, tin tưởng cái gọi là "VC
có thiện chí hòa hợp hòa giải với một chính phủ không có Thiệu" mà
những người cộng sản rêu rao. Sự tin tưởng mù quáng này đã dẫn đến những áp lực
khiến tổng thống Thiệu, một người chống CS kiên quyết và có bản lãnh, phải từ
chức và quyền lực quốc gia được trao cho phó tổng thống Trần Văn Hương.
Không đầy
tuần lễ sau, vì muốn duy trì trật tự cho người Mỹ triệt thoái an toàn, Mỹ và
cộng sản VN, qua sự dàn xếp của Nga Xô, đã tung hứng, tạo cho VNCH ảo tưởng,
CSVN chỉ chấp nhận thương thuyết nếu Dương Văn Minh được làm tổng thống. Kết
quả, cụ Trần Văn Hương phải từ chức và trao quyền tổng thống cho tướng Dương
Văn Minh, cho dù việc trao quyền này hoàn toàn vi hiến. Cũng cùng một ảo tưởng
tương tự, trong bài diễn văn nhậm chức tổng thống đọc vào chiều ngày 28 tháng
4, tân tổng thống Dương Văn Minh ngây thơ kêu gọi những người cộng sản ngưng
bắn để thương thuyết, mà không thể ngờ được, ông chỉ là một lá bài trong canh
bạc chính trị do những người cộng sản tháu cáy.
Khi đó, 16 sư
đoàn quân Bắc Việt với tổng số trên 200 ngàn tay súng đã có mặt quanh thủ đô
SàiGòn. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, tất cả những con đường
huyết mạch dẫn vào thủ đô Sài Gòn đều bị cắt đứt. Thêm vào đó, chính phủ Mỹ
không những công khai phản bội VNCH, mà còn âm thầm bắt tay với Nga Xô để đi
đến những điều kiện thỏa hiệp với CSVN.
Trong thế
thượng phong về quân sự và ngoại giao như vậy, không khi nào cộng sản chịu chấp
nhận thương thuyết hay hòa hợp hòa giải với bất cứ ai. Vì vậy, tất cả những lời
kêu gọi hòa bình của tân tổng thống Dương Văn Minh cũng như của các chính phủ
trên thế giới khi đó chỉ được những người cộng sản tung hứng một cách xảo
quyệt, nhằm tạo ảo tưởng và gây phân hóa sức mạnh chống cộng của quân dân Miền
Nam.
Sau khi lũng
đoạn và phân hóa hàng ngũ VNCH tối đa, và thấy Dương Văn Minh đã được làm tổng
thống, CSVN liền leo thang thêm một bước, đòi Mỹ phải rút khỏi lãnh thổ Miền
Nam, và tân chính phủ SàiGòn phải không có người của "chế độ cũ".
Không những thế, CS từ chối mọi thương thuyết, và mở màn cuộc pháo kích SàiGòn
vào rạng sáng ngày 29 tháng 4. Riêng phi trường Tân Sơn Nhất, khoảng 150 trái
pháo 130 ly nổ tung khiến cuộc di tản bằng phi cơ phải đình chỉ. Lúc đó là 4
giờ chiều ngày 28 tháng 4, giờ Hoa Thịnh Đốn.
Ngay khi hay
tin phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, tổng thống Ford vội vàng hội kiến
cùng các cố vấn trong hội đồng an ninh quốc gia. Đến 10 giờ 45 phút giờ Hoa
Thịnh Đốn, quyết định di tản nốt người Mỹ còn lại bằng trực thăng được tổng
thống Ford phê chuẩn và chiến dịch mệnh danh "Frequent Wind" được
chính thức mở màn trên biển Đông vào lúc 11 giờ tám phút sáng ngày 29 tháng 4.
Việc thực hiện chiến dịch "Frequent Wind" được trao cho lực lượng đặc
nhiệm Task Force 76 thuộc Đệ Thất Hạm Đội. Toàn bộ phi cơ trên hai hàng không
mẫu hạm Enterprise và Coral Sea thuộc lực lượng đặc nhiệm Task Force 77 có
trách nhiệm yểm trợ tối đa cho chiến dịch "Frequent Wind".
Trong thời
gian không đầy 24 tiếng đồng hồ, kể từ 11 giờ 8 phút sáng ngày 29 đến 8 giờ
sáng ngày 30 tháng 4, chiến dịch "Frequent Wind" đã di tản thành công
7100 người bao gồm cả người Mỹ, Việt và một số ngoại kiều không phải Mỹ. Cùng
với cuộc di tản chính thức do người Mỹ thực hiện, nhiều phi công Việt Nam Cộng
Hòa đã cùng gia đình di tản bằng phi cơ ra Đệ Thất Hạm Đội. Ngoài ra trong
những giờ phút cuối cùng của tháng tư, hàng chục ngàn người Việt Nam đã đáp
tàu, thuyền các loại, ồ ạt đổ ra biển đông để tỵ nạn cộng sản. Đến 7 giờ 52
phút sáng ngày 30 tháng 4, toàn bộ cuộc di tản của người Mỹ thực sự kết thúc
sau khi chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh rời khỏi không phận Miền Nam.
Không lâu
sau, xe tăng của cộng sản Bắc Việt được lệnh tiến vào đường phố thủ đô SàiGòn,
chiếm dinh Độc Lập và tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản vô
điều kiện trên đài phát thanh. Cùng ngày, tại Ba Lê, phái đoàn cộng sản ngang
ngược tuyên bố đổi tên thủ đô SàiGòn thành thành phố Hồ Chí Minh. Hôm đó là
ngày 30 tháng 4, ngày bi thương nhất của lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Ngày
đó đã xảy ra cách đây đúng 40 năm nhưng những hình ảnh bi hùng, những thảm kịch
đầy máu và nước mắt cùng những hậu quả thê thảm của nó vẫn tiếp tục đè nặng
trong tâm trí của hàng chục triệu người Việt Nam trong và ngoài nước.
AI TẠO NÊN THẢM KỊCH 30.4?
Suốt thời gian 40 năm sau 1975,
hàng triệu trang sách đã được viết, hàng ngàn vị thức giả đã ngày đêm suy tư,
lý luận và hàng chục triệu người Việt Nam đã trăn trở trong mục đích đi tìm câu
trả lời đúng nhất cho câu hỏi: Ai đã tạo nên thảm kịch
30-4?
Dĩ nhiên, đối
với phần đông mọi người trên thế giới, trong đó có rất đông người Việt Nam, đều
cho rằng tiến sĩ Henry Kisinger, cha đẻ của hiệp định Ba Lê với những điều
khoản phi lý, đã bức tử Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều người khác lại tin tưởng,
chính vụ tai tiếng Watergate khiến tổng thống Nixon phải từ chức, và những lời
cam kết trên giấy trắng mực đen của ông đối với tổng thống Thiệu đã không được
tổng thống Ford tôn trọng, nên cộng sản ngang nhiên vi phạm hiệp định Ba Lê xua
quân tấn công Việt Nam Cộng Hòa.
Bên cạnh đó,
cũng có nhiều người cho rằng, thái độ chủ hòa, bạc nhược của quốc hội Mỹ trong
suốt những năm tháng cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam cộng với những ảnh
hưởng của phong trào phản chiến tại Mỹ, thái độ chán nản của dân chúng và dư
luận Mỹ cũng là những yếu tố quan trọng dẫn đến thảm kịch 30 tháng 4.
Ngoài ra, còn có nhiều người tin
rằng, việc hành xử thiếu đúng đắn quyền hạn và trách nhiệm của đại sứ Martin,
những sai lầm về chính trị, quân sự của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và một số
tướng lãnh, chính trị gia Việt Nam Cộng Hòa, đã là những yếu tố đáng kể đưa
Việt Nam Cộng Hòa đến thảm kịch 30-4.
Đặc biệt,
nhiều người cũng cho rằng, những ngây thơ về chính trị, những ảo tưởng về chủ
nghĩa cộng sản của các cá nhân, các tầng lớp trong xã hội Miền Nam, làm yếu đi
tiềm năng chống cộng đồng thời là vùng đất màu mỡ tạo nên một tầng lớp chủ hòa,
thân cộng, thậm chí đi đến hành động "đâm sau lưng chiến sĩ", đã góp
phần quan trọng đẩy VNCH đến vực thẳm 30-4.
Dĩ nhiên,
những nhận xét trên đây không phải là không có lý. Tuy nhiên, nếu nhìn vào cục
diện cuộc chiến tranh Việt Nam trải dài suốt thời gian ba thập niên từ 1945 đến
1975, ta sẽ thấy tất cả những nguyên nhân trên đều là thứ yếu. Nguyên
nhân chính yếu dẫn đến thảm kịch 30-4 là tham vọng xâm lăng của cộng sản Hà Nội
được thực hiện với sự hậu thuẫn của CS Nga, Tàu. Và tham
vọng đó của CS không chỉ gói gọn có Miền Nam mà còn bao gồm cả Lào, Căm Bốt, và
Thái Lan.
Sự thực, tham
vọng này không phải là điều mới mẻ mà đã được viết xuống ngay từ năm 1930 khi
đảng cộng sản Đông Dương được thành lập. Đến năm 1954, những người cộng sản đã
âm mưu thực hiện cuộc chiến lũng đoạn Miền Nam bằng cách cài người ở lại hoặc
tổ chức hàng trăm cuộc đám cưới cấp tốc giữa những cán bộ cộng sản tập kết với
phụ nữ địa phương để gieo rắc mầm mống chống đối và thân cộng tại Miền Nam. Sau
năm 1954, tại Miền Nam, lực lượng VC nằm vùng bắt đầu tuyển mộ, huấn luyện du
kích thực hiện những hoạt động khủng bố. Bằng chứng cụ thể nhất được chính VC
ngày nay thừa nhận, năm 1961, Nguyễn Tấn Thử, đội trưởng du kích Rạch Giá, đã
cho con là Nguyễn Tấn Dũng (hiện là thủ tướng) tham gia du kích Cà Mâu khi NTD
mới có 12 tuổi và 18 tuổi NTD được kết nạp đảng, trở thành tên khủng bố điển
hình, 4 lần bị thương, 4 lần đoạt danh hiệu “Dũng sĩ Diệt Mỹ”.
Đến những năm
cuối thập niên 1950, cộng sản Hà Nội đã âm thầm đưa người vô Nam và mở đường
mòn mệnh danh đường mòn Hồ Chí Minh để chuyển vũ khí, tài liệu vô Nam. Song
song với âm mưu thôn tính Miền Nam, cộng sản Hà Nội còn thực hiện hàng loạt âm
mưu chính trị, quân sự nhằm thao túng các quốc gia láng giềng là Lào và Căm Bốt.
Sau khi nặn ra cái gọi là Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, cộng sản Hà Nội đã ồ ạt đưa người và vũ khí vô Nam để
thực hiện cuộc chiến tranh mệnh danh "giải phóng" bất chấp tốn kém
xương máu và mồ hôi của hàng chục triệu dân Miền Bắc.
Âm mưu của cộng
sản và những điều cộng sản Hà Nội làm trong suốt thời gian ba thập niên là
những điều hai năm rõ mười cả thế giới ai ai cũng biết. Đáng tiếc, nhiều người
vì ngây thơ, nhiều người vì những thù oán riêng tư, bổng lộc nhất thời, nhất
định nhắm mắt, bịt tai không chịu nhận ra kẻ thù chính của mình là cộng sản Hà
Nội. Thay vì vậy, họ lại quay sang nguyền rủa Mỹ, Kissinger, chửi tổng thống
Nixon, chê bai tổng thống Thiệu hoặc tướng lãnh, quân đội Việt Nam Cộng Hòa là
bất tài, bạc nhược. Họ đã vô tình quên mất những đóng góp tiền của, xương máu,
công sức của chính phủ, binh lính và nhân dân Mỹ, cùng những hy sinh bất khuất,
những đớn đau vô bờ bến của quân, dân Việt Nam Cộng Hòa trong suốt 20 năm chiến
tranh.
Đồng ý,
Kissinger, Nixon, tổng thống Thiệu và một số tướng lãnh quân nhân Việt Nam Cộng
Hòa đã phạm phải những sai lầm hoặc có những quyết định sai lầm, góp phần vào
sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nếu nhìn vào bản chất hiếu chiến và tham
vọng bành trướng của những lãnh tụ cộng sản Hà Nội được CS quốc tế Nga, Hoa hậu
thuẫn, ta sẽ nhận thấy cho dù hiệp định Ba Lê không có những điều khoản phi lý
bức tử Việt Nam Cộng Hòa, cho dù nước Mỹ không có một ngoại trưởng thủ đoạn,
mưu mô như Kissinger, cho dù Việt Nam lúc đó không có vụ triệt thoái Ban Mê
Thuột, nước Mỹ không có vụ Watergate, và thậm chí tổng thống Nixon vẫn còn tiếp
tục là tổng thống Hoa Kỳ,... CHẮC CHẮN, với tham vọng xâm lăng Miền Nam của CS
Hà Nội và sự hậu thuẫn của CS quốc tế, thảm kịch 30.4 vẫn xảy ra. Khác chăng,
thảm kịch đó có thể xảy ra muộn hơn một vài năm hoặc một thập niên.
Tại sao ta có
thể nói như vậy? Lý do là cuộc chiến tại Việt Nam trong suốt ba thập niên là
một cuộc xung đột giữa những người quốc gia có tinh thần tự do dân chủ với
những người cộng sản tôn thờ chuyên chế, độc tài và có đầu óc quá khích, sùng
bái sức mạnh của nòng súng, lưỡi lê. Sự xung đột này nếu xảy ra trong một xã
hội văn minh qua một thể thức bầu cử dân chủ, sự thất bại của cộng sản là điều
chắc chắn. Nhưng nếu cuộc xung đột xảy ra trong một xã hội dân trí còn lạc hậu,
đông đảo người dân còn chưa hiểu bộ mặt thật của cộng sản ghê gớm đến mức nào
và hình thái cuộc xung đột là võ trang thì thế thắng thường nghiêng về phía CS,
những kẻ tôn thờ sức mạnh và chuyên chế độc tài. Cuộc xung đột này cũng giống
như những tên côn đồ tay dao tay súng, nhào vô đâm chém rồi cướp của đốt nhà
của một vị thức giả đạo đức, giầu lòng nhân nghĩa.
AI CHIẾN THẮNG TRONG CHIẾN TRANH
VN?
Xét trên phương diện chiếm đất, giành
dân, cộng sản là kẻ chiến thắng, nhưng chỉ CHIẾN THẮNG TẠM THỜI.
Xét trên
phương diện văn minh tư tưởng và những ảnh hưởng kết quả của sự đồng hóa không
thể tránh khỏi khi những người cộng sản tiếp xúc với một xã hội văn minh như xã
hội Miền Nam, ta sẽ thấy cộng sản mới là kẻ chiến bại.
Lịch sử nhân
loại từ xưa đến nay đã cho thấy, những dân tộc, những bộ lạc có nền văn minh
cao khi chinh phục các dân tộc khác, họ sẽ đóng vai trò khai hóa đối với các
dân tộc có trình độ văn minh thấp hơn. Trái lại, những
dân tộc, bộ lạc có trình độ văn minh thấp kém nhưng hiếu chiến, hiếu sát, khi
xâm chiếm và chinh phục những dân tộc khác có trình độ văn minh cao hơn, họ sẽ
dần dần bị chính dân tộc mà họ chinh phục, đồng hóa theo thời gian. Cụ thể sự
đồng hóa của người Mãn Thanh trước văn minh của người Hán khi người Mãn xâm
chiếm Trung Hoa cũng như sự đồng hóa của người Bắc Âu khi tiến xuống các bộ lạc
vùng Trung Âu là những bằng cớ chứng tỏ, sức mạnh của văn hóa và tư tưởng mới
là thống soái trong những cuộc chinh phục trên bề mặt trái đất. Đó là một quy
luật của lịch sử và cũng là quy luật của tự nhiên.
Nhìn vào xã hội Miền Nam nói
riêng và Việt Nam nói chung hiện nay, ta không thể không thừa nhận những ảnh
hưởng to lớn của tư tưởng tự do, dân chủ và trình độ văn minh trong xã hội Miền
Nam đối với những người cộng sản cũng như đối với xã hội Miền Bắc. Chính những
ảnh hưởng to lớn này đã, đang và sẽ dần dần làm thay đổi nếp nghĩ, sự suy tư
của những người cộng sản để rồi dần dần những người cộng sản sẽ bị biến chất,
chuyển hướng và trút lốt.
Thực tế cho thấy, trong suốt 40
năm qua, những ngôn ngữ ăn năn, hối hận của những nhà
văn, nhà thơ CS nổi tiếng, trong đó có Chế Lan Viên, có Dương Thu Hương; những
lời thú nhận tội lỗi của những tướng lãnh, lãnh tụ cao cấp trong guồng máy CS
như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Võ Nguyễn Giáp, Võ Văn
Kiệt; và đặc biệt, lời tuyên bố của Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, khẳng định
một sự thực bất khả chối cãi: "Trong chiến tranh VN, kẻ thắng VC là kẻ ác,
kẻ phi nghĩa".v.v... đã
cho thấy, chân lý, chính nghĩa và lẽ phải thuộc về Việt Nam Cộng Hoà. Và chính
những người cộng sản cũng nhận, những thay đổi cực kỳ nguy hiểm trong hàng ngũ
cộng sản nhưng đành bất lực vì sự thay đổi tuy xảy ra một cách âm thầm và chậm
chạp, nhưng không một sức mạnh gì có thể ngăn cản nổi. Và như vậy, trong thời
gian 10, 15 năm nữa, chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam sẽ bị cáo chung nhường
bước cho tự do dân chủ và một hình thái chính trị phi cộng sản phát triển.
Tóm lại, nếu
những người cộng sản Hà Nội khôn ngoan, xảo quyệt tiếp tục cai trị Miền Bắc mà
không nghĩ đến chuyện thôn tính Miền Nam, thì tư tưởng tự do dân chủ và trình
độ văn minh tại Miền Nam khó có thể "thấm dần" ra đất Bắc. Như vậy
chủ nghĩa cộng sản tại Miền Bắc còn có khả năng tồn tại trong cái vỏ bọc lạc
hậu và độc tài trong nhiều thập niên nữa. Trái lại, theo đuổi việc thôn tính
Miền Nam bằng sức mạnh và thủ đoạn, cộng sản chỉ giành được chiến thắng quân sự
tạm thời trước khi bước vào giai đoạn "dần dần héo úa" để rồi vĩnh
viễn tàn lụi.
Hữu Nguyên
On Wednesday, April 1, 2015 11:44 AM, Duc Thuong Tran wrote:
Suy ngẫm Tháng Tư Đen
Biến
cố tháng 4 năm 75 là một cơn đại hồng thủy tràn đến với mọi người dân Miền Nam
Việt Nam khi đang sống trong cảnh an bình và thịnh vượng. Một cơn bão tràn qua,
có một quốc gia đã hoàn toàn bị biến mất trên bản đồ thế giới.
Có một quốc gia đã từng có một thủ đô được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Có một quốc gia đã từng một thời được các nước và các dân tộc xung quanh vùng nhìn vào với một ánh mắt ngưỡng mộ và mong ước quốc gia mình được như vậy. Có một quốc gia với một nền giáo dục toàn diện và mang tính nhân văn. Có một quốc gia mà người sinh viên, người dân không hề ham muốn đi ra nước ngoài sinh sống, chỉ mong muốn học xong và quay về phục vụ lại tổ quốc.
Có một quốc gia mà người dân khi cầm hộ chiếu đi ra nước ngoài đã ngẩng cao đầu và nói "Tôi là người Việt Nam". Có một quốc gia mà chính Tổng Thống Mỹ đã trải thảm đỏ để ra đón tiếp dù quốc gia đó đang nhận viện trợ của chính nước chủ nhà. Có một quốc gia mà vị nguyên thủ đầu tiên của Singapore là ông Lý Quang Diệu đã phải thốt lên lời "Tôi ước gì Singapore được như Sài Gòn."
Tất cả đều biến mất không còn một dấu tích chỉ vì một cuộc nội chiến tương tàn Nam-Bắc, một cuộc chiến của hai hệ phái tư tưởng đối nghịch nhau. Một cuộc chiến mà người chiến thắng sau cơn men chiến thắng đã nhận ra từ cái nhìn thực tế chính họ là người cần được (hay đã được) GIẢI PHÓNG cả về NỘI DUNG lẫn TƯ TƯỞNG.
Cả một dân tộc bị cho ăn một cái bánh vẽ quá lớn, quá ngây thơ khi tin vào một chủ nghĩa vô tưởng và những con người lãnh đạo dã man, máu lạnh không tình người. Mọi người dân đã lầm tưởng khi được nghe và phác họa lên một hình ảnh đẹp đẽ, thanh bình, không còn bom đạn trên quê hương, người lính chiến cả hai phía quay trở về với con búp bê lủng lẵng móc vào cái ba lô trên vai làm quà cho con, hoặc trên tay cành hoa đẹp tặng mẹ, tặng vợ. Họ cùng quay về với xóm làng, ruộng nương và gia đình. Em bé vui đùa trên sân nhà, tiếng cười tiếng ca hát quê hương hòa bình vang lên khắp nơi. Hình ảnh sao đẹp đẽ quá, nhưng thực tế mặt nước lặng chỉ được một thoáng thôi trước khi cơn sóng dữ bắt đầu càn quét qua.
Biến cố tháng 4 đã đem đến được gì cho những người bị Giải Phóng? Kẻ mất cha, người mất mẹ, anh em ly tán, gia đình tan nát. Một cuộc tha hương (Exodus) với hàng triệu người bỏ nước ra đi, nhiều người đã mất mạng trên con đường đi tìm đến bến bờ tự do. Tất cả biến mất chỉ còn vọng lại nỗi niềm tiếc thương chỉ vì một chủ nghĩa quá mơ hồ, nó đã tàn phá một thành quả mà biết bao nhiêu người, bao nhiêu nhân tài, bao nhiêu công sức đã đổ ra, tất cả đều trôi ra sông ra biển.
40 năm đã trôi qua nhưng hệ lụy của nó chắc chắn không dễ gì phai nhòa đi trong lòng rất nhiều người. Mỗi năm nhắc lại không phải để bày tỏ hận thù cũ, như nhiều người lạnh lùng kết án mà là chia sẻ với nhau những nhọc nhằn, mất mát không gì bù đắp nổi của những người trực tiếp chịu cảnh đau thương.
Càng về sau, số người nhớ về nó càng ít đi nhưng ít ra chúng ta cũng thấy được phần nào cái âm ỉ không thể nào phai của những ngày đầu mất nước. 30/4, từ lâu đã trở thành ngày bi thảm của dân tộc, tưởng niệm ngày này là một hành động đứng đắn không có gì phải bàn cãi. Chỉ sợ rằng chúng ta thiếu quyết tâm để trao lại những gì còn dang dở cho những thế hệ sau. Lịch sử không thể bị bóp méo, ai Giải Phóng ai, sẽ có một ngày cuộc chiến tương tàn, anh em chém giết nhau sẽ được đem ra nói rõ cho thế hệ sau hiểu.
40 năm đã trôi qua như là một giấc mộng và một phút mặc niệm cho một quốc gia đã mất tên!
Tôn-Thất
Long/ RFA
2015-03-12
2015-03-12
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết