----------
Forwarded message ----------
From: VietHai Tran <
From: VietHai Tran <
Chapeau Intro:
Bài
đính kèm của nhả văn Tam Giang Hoàng Đình Báu, trước 1975 cấp bực của ông là
Trung tá Hải Quân VNCH. Ông Hoàng Đình Báu bị kẹt lại và đi tù, ông trải qua
những năm tháng tù tội hành xác tại nhà tù vô cùng khắc nghiệt là Phan Đăng
Lưu, ở số 4 đường Phan Đăng Lưu, Gia Định. Tác giả đã chia sẻ số phận tù giam,
như nhiều người, nếu không Chí Hòa thì cũng tại Phan Đăng Lưu như những vị
Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy, Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hối, TT. Thích Thiện Minh, Lê
Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe (Nguyễn Hải Chí),...
Tác
giả Tam Giang Hoàng Đình Báu trải qua một chuyến vượt biên bằng đường biển kinh
hoàng. Ông ghi nhận lại biến cố này trong những tác phẩm của ông. Link đính kèm
gồm nhiều bài viết của ông. Tam Giang Hoàng Đình Báu là một cây bút viết khỏe,
tác phẩm của ông phản ảnh chuyện thật của cuộc đời ông, ví dụ chủ đề như
HQVNCH, Tù CSVN, Vượt biên, Nếp sống tại Mỹ,... Mời quý netters đọc bài sau.
Việt
Hải Los Angeles.
***********************************
Nhà Tù Phan Đăng Lưu
Nói
đến ngày Quốc-Hận 30-4-1975 phải nói đến nhà tù Phan Đăng Lưu. Đây là nhà tù
tuy không lớn nhưng nổi tiếng là khắc nghiệt nhất được Việt Cộng thành lập sau
khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam. Nhà tù nầy nằm đối diện với chợ Bà Chiểu và
sát với tòa tỉnh trưởng Gia Định, Sài Gòn xưa. Địa chỉ nhà tù nay là số 4 đường
Phan Đăng Lưu, Sài Gòn.
Sau năm 1975, Việt Cộng
dùng nhà tù nầy để nhốt các lãnh tụ tôn giáo miền Nam, các nhà tư bản, các chủ
xí nghiệp, các phong trào phục quốc, cứu quốc, những văn nghệ sĩ miền Nam và kể
cả các tổ chức vượt biên trốn ra nước ngoài.Tất cả những cá nhân, những tổ chức
trên đều được chúng ghép vào tội phản động, tàn dư của Mỹ Ngụy và âm mưu lật đổ
chính quyền cộng sản Việt Nam.
Trại có 2 khu là khu biệt giam và khu tập thể. Khu biệt giam với
nhiều phòng nhỏ nằm sát nhau, mỗi phòng biệt giam rộng 1m và dài 2m. Mỗi phòng
biệt giam có 2 sàn xi măng, sàn trên cao hơn sàn dưới độ 3 tấc. Sàn trên có một
cái còng. Như vậy phòng biệt giam có thể nhốt 2 người tù mà bị còng thì chỉ có
người nằm trên thôi. Trong phòng biệt giam có một cầu tiêu và một vòi nước khi
mở khi không, trước phòng là một cửa sắt, trên cửa có một lỗ thông gió khoảng
một tấc vuông dùng để đưa đồ ăn cho tù. Cải lỗ gió nầy được đóng hay mở cũng
tùy thuộc cán bộ trực trại.
Lỗ gió nầy khi được mở và khi hành lang không có ai qua lại
là niềm hạnh phúc của người tù. Nhờ lỗ gió mà người tù ở các phòng liền nhau có
thể liên lạc với nhau dù không thấy mặt nhau.Họ có thể gọi nhau ra nói chuyện,
cho nhau miếng bánh, cái kẹo, nhất là điếu thuốc rê đốt sẳn. Qua lỗ gió thấy an
toàn, họ gọi nhau bằng cách gõ vào vách tường báo hiệu, xong thò tay qua lỗ
gió, hai bàn tay sẽ gặp nhau…
Tôi bị bắt vào Phan Đăng Lưu năm 1983 về tội “ tổ
chức vượt biên”.Tôi bị đưa vào phòng biệt giam. Tôi là tài công nhưng Việt Cộng
tưởng tôi là tổ chức nên chúng đưa vào biệt giam và còng hai chân chân để tra
khảo tôi phải khai tổ chức là ai và tiền, vàng, bạc để đâu. Lúc đầu ở biệt giam
một mình, một tháng sau thì có thêm một người nữa. Người nầy là một cán bộ
ngoài Bắc, không biết bị tội gì mà đưa vào ở chung với tôi.Một tháng sau, người
cán bộ nầy ra thì một người tù khác vào, anh tên Cường có dính dáng đến “ Vụ Án
Nhà Lam”.
Cường người Huế, trước 1975 là một thợ chụp hình, khi T 54 của Việt
Cộng tiến từ xa lộ Biên Hòa vào thành phố Sài Gòn, Cường đã ra đón và được cho
lên xe tăng để chỉ đường cho đoàn xe vào Dinh Độc Lập. Chính anh đã chụp
những bức ảnh T 54 ủi sập cổng chính của dinh và nhiều bức ảnh khác của những
ngày Ba Mươi Tháng Tư. Cường không phải là ca sĩ nhưng có giọng hát hay mà lại
bạo phổi, tối nào anh cũng đưa miệng qua lỗ gió hát lớn cho các tù biệt giam
nghe. Cường cũng biết ngâm thơ nhất là bài “Hồ Trường”thì những ai ở biệt giam
Phan Đăng Lưu vào những ngày ấy đều không quên giọng ngâm của anh vì tối nào
nếu có dịp là anh ngâm, nhất là lúc trời mưa gió bên ngoài.
Không may, một
hôm anh đang ngâm “Hồ Trường” thì bị cán bộ trực trại phát hiện và anh bị kỷ luật
và đưa đi nơi khác. Sau đó một người tù khác lại vào ở chung với tôi.Người thứ
ba nầy là một cựu sĩ quan VNCH, ở chung với nhau một thời gian ngắn, chúng tôi
hiểu nhau và chia sẽ mọi thứ cho nhau dù phòng kín chỉ vừa nửa chiếc chiếu, mồ
hôi nhể nhải suốt ngày lại thêm muỗi mòng, gián chuột và mùi hôi thối từ lỗ cầu
tiêu mục nát bốc lên.Có lúc đang ngủ giật mình thấy gián bò trên bụng hay
chuột gậm gót chân.
Bảy tháng sau tôi được đưa qua phòng giam tập thể, phòng nầy dài
khoảng 10 mét rộng 5 mét, chứa khoảng gần 80 người tù đủ mọi lứa tuổi và
đủ mọi thành phần tù tội.Thấy tôi mới đến, tên trưởng phòng giam là một đại úy
công an Việt Cộng bị bắt vì tội “Tổ chức vượt biên” chỉ định tôi nằm gần sát
cầu tiêu bên cạnh là một người tù lớn tuổi.Tên nầy đúng là một cai tù.Nó cùng
đám tay chân nằm gần cửa ra vào để dể dàng tiếp cận cán bộ trại và hít thở
không khí bên ngoài, còn lại tất cả nằm sắp lớp như cá mòi trong hộp. Tất cả
đều răm rắp theo lệnh cai tù, cai tù lại theo lệnh của cán bộ trại. Phần đông
trước khi vào khu tập thể, người tù nào cũng phải trãi qua biệt giam nên ai
cũng gầy yếu, xanh xao, và còn bị cai tù bắt nạt, dọa dẫm đủ điều. Nằm cạnh
nhau cả ngày mà tôi chưa dám nói chuyện với bác bên cạnh vì sợ cai tù nghe vu
cáo chuyện tù cũ tù mới nhỏ to nói xấu bác, đảng và cách mạng. Đợi lúc cai tù
ra ngoài làm việc, bác nằm cạnh tôi nói nhỏ:
-Kệ nó.Tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Tôi tự giới thiệu tên rồi hỏi bác:
-Bác tên gì?
-Tôi tên Nguyễn Hoạt
Tôi hỏi lại:
-Có phải Nguyễn Hoạt là Hiếu Chân tiên sinh ?
Bác gật đầu. Tôi hỏi tiếp:
-Bác bị bắt vì tội gì?
-Biệt kích văn hóa.
-Trước bác làm gi?
-Giám đốc Văn Bút Việt Nam
Tôi nói đã đọc nhiều bài viết của bác trên các báo và rất ngưỡng
mộ bác.
Từ đó, chúng tôi quen thân nhau, nằm sát nhau rồi ăn chung với
nhau. Cũng nhờ đó tôi đã học hỏi từ bác nhiều thứ và xem bác như người thầy.
Bác lớn hơn tôi 10 tuổi, sáng nào bác cũng ngồi thiền, chiều lại bác tập “trồng
chuối ngược”, tức tập chúc đầu xuống đất, hai chân đưa thẳng đứng lên trời. Bác
nói đây là cách tập luyện“Tinh, Khí, Thần”, hằng ngày mình ngồi, đứng nhiều,
làm đảo ngược lại sẽ giúp máu xuống tim và lên đầu mạnh hơn.
Tôi lại hỏi bác:
-Bác nghĩ thế nào về văn học miền Nam trước năm 1975.
Bác trả lời:
-Nhiều bước tiến rõ rệt. Bác dẫn chứng, miền Nam Việt Nam trước
năm 1954 chưa có gì. Thế mà sau 20 năm, miền Nam có tất cả, dù chưa lớn lắm,
nhưng đã hơn nhiều nước ở Đông Nam Á. Bác nói tiếp, bây giờ lại trở về con số
không.
Tôi lại hỏi:
-Trong thời kỳ cầm bút, bác thích thú điều gì nhất?
-Tôi thích nhất là lúc gặp nhà văn Kim Dung khi ông trên đường bay
từ Singapore về Hồng Kông, ông có ghé qua Tân Sơn Nhất vài tiếng.Vài tiếng
nhưng tôi đã nói chuyện nhiều với ông ấy.
Kim Dung là nhà văn nổi tiếng của Hồng Kông, tác giả của những tập
truyện kiếm hiệp làm say mê hằng triệu độc giã khắp thế giới. Bác thích nhất
câu nói của Kim Dung: “ Chỉ có tự do mới sáng tác hay được”.
Cuối năm 1984 tôi được chuyển lên nhà tù Chí Hòa. Một năm sau tôi
lại chuyển lên trại tù Tống Lê Chân thuộc tỉnh Bình Long để phá rừng trồng cây
tiêu, cây điều, ba năm sau, cuối năm 1987 mới được thả về. Sau đó tôi được biết
bác Nguyễn Hoạt cũng bị đưa lên Chí Hòa và chết tại trại tù nầy, không biết lý
do gì.
Nghĩ đến trại tù Phan Đăng Lưu. Gần 40 năm, tôi vẫn còn nhớ đến
những bạn tù trong biệt giam cũng như những bạn tù trong phòng giam tập
thể.Trong đó có người bạn tù không tên ở bên cạnh phòng biệt giam thường cho
tôi điếu thuốc rê đốt sẳn.Tuy nghe giọng nói hằng ngày của nhau nhưng chưa bao
giờ thấy mặt nhau, đã làm tim tôi khắc sâu ân tình nầy, tiếp đến là anh Cường,
trẻ tuổi, vui tính và nhiệt tình, sau cùng là bác Hoạt tức Hiếu Chân tiên sinh,
người đã nằm cạnh và ăn chung suốt nhiều tháng, một nhà văn tha thiết tự do với
nhiều mơ ước chưa thành sự thật đã phải từ giã người thân, bạn bè và cây bút
của mình trong nhà tù Công sản.
Lúc qua Mỹ, tôi có xuất bản một tập thơ lấy tên “Mẹ và Quê Hương”
trong đó có bài thơ ghi lại vài dấu tích với những bạn trong ngục tù Phan Dăng
Lưu, một trại tù đã gây biết bao nỗi kinh hoàng cho mọi người vào thời đó. Sau
đây là bài thơ “Ngục tù Phan Đăng Lưu”:
Đêm dài không ngủ được
Thời gian đếm bước chân
Nằm chờ nghe tiếng gõ
Đợi nhau qua lỗ gió
Trao nhau điếu thuốc rê
Cho nhau lời thăm hỏi
Những chẳng thấy mặt nhau
Bạn cho ta tiếng hát
Vang lên như tình gọi
Lời ca trong đêm vắng
Thắm tình tù thiết tha
Phòng rộng nửa chiếc chiếu
Thiếu không khí, thiếu mặt trời
Đôi lúc bạn bị còng
Điếu thuốc chẳng chuyền tay
Bài ca đành tắt lịm
Khi cả hai bị còng
Cuộc tình thêm thê thảm
Nằm đợi tiếng gõ vách
Vui quên đời ngục tù
Cám ơn bạn bên kia
Phòng biệt giam T-28
Ngày đêm ta có bạn
Bây giờ bạn ở đâu.
Cali 1-4-2015
Tam Giang Hoàng Đình Báu
Listing Tam Giang Hoàng Đình Báu:
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết